Khi Đặng Tiểu Bình và giới cầm quyền Trung Quốc đón nhận Hồng Kông (HK) về với đất nước này, hiển nhiên họ có tính đến những mặt lợi và hại của việc đó.
Theo hiệp ước mà triều đình Mãn Thanh ký với chính quyền VQLH Anh vào năm 1898, HK được trả về cho TQ vào năm 1997. Tuy nhiên, nếu không muốn tiếp nhận, chính quyền TQ có thể không đàm phán lại với Anh về việc này và mặc kệ cho Anh làm gì thì làm với khu vực này, kể cả để mặc cho nó tồn tại như một thể chế hoàn toàn độc lập.
Mặt khác, việc tiếp nhận HK trở lại chứa đựng những nguy cơ tiềm tàng đối với chế độ độc đảng ở TQ. Nước này chỉ có thể được lợi từ HK, nếu nó tiếp tục là trung tâm thương mại và tài chính lớn của thế giới. Nhưng muốn như vậy, chính quyền TQ buộc phải để nó tồn tại theo một quy chế riêng, khác xa so với “đại lục”. Nói đơn giản là chính quyền Bắc Kinh không thể can thiệp thô bạo vào hoạt động thương mại và đời sống chính trị ở đây. HK phải được tồn tại trong chế độ đa đảng, và người dân phải có những quyền tự do giống như ở các nước tư bản, cho dù trong đàm phán, phía Anh có nêu ra những yêu cầu đó hay không. (Nếu những điều kiện đó không đem lại lợi ích nào cho giới cầm quyền Bắc Kinh thì họ không bao giờ thực hiện.) Chính vì lẽ đó, Đặng Tiểu Bình đã phải chấp nhận thực tế “nhất quốc lưỡng chế”.
Đương nhiên, Đặng phải nghĩ đến các đối sách để không cho chế độ ở HK lan sang “đại lục” hoặc dần dần vô hiệu hóa hoặc làm giảm vai trò của HK. Để thực hiện ý đồ thứ hai, ông ta cho xây dựng đặc khu Thâm Quyến để thay thế dần HK. Còn để ngăn chặn các ảnh hưởng của chế độ HK đối với đại lục, chắc là chính quyền chưa thể có một hệ thống các biện pháp đáng tin cậy ngay từ đầu, nhưng họ hy vọng với truyền thống đầy mưu ma chước quỷ, họ sẽ tìm ra cách thích hợp để “cải hóa” HK theo ý họ.
Chiêu bài “nhất quốc lưỡng chế” cũng được họ dùng để ve vãn Đài Bắc, với hy vọng đến lúc nào đó chính quyền Đài Bắc sẽ chấp thuận “về” với TQ đại lục.
Tuy nhiên, những người tin vào tính quy luật của tiến trình lịch sử thì cho rằng: Dù chính quyền Trung Nam Hải có ma mãnh bao nhiêu đi nữa, họ cũng chỉ có thể làm chậm, chứ không thể nào chặn đứng được làn sóng dân chủ hóa tràn tới đại lục từ HK. Chế độ “khác” (dân chủ đa đảng) ở nước khác có thể ít tác động được tới tâm trí người dân TQ, nhưng cái chế độ khác này, một khi tồn tại ngay trong lòng nhà nước Trung Hoa thì là chuyện khác. Cũng là người dân TQ, cùng sống trong một quốc gia do đảng CSTQ cai quản, mà nhóm người này được hưởng tự do dưới chế độ dân chủ đa đảng, nhóm người khác lại không được hưởng những thứ đó. Người dân TQ sẽ so sánh, sẽ nhận ra rằng cái đảng đang nắm yết hầu của họ thực ra vẫn chấp nhận được chế độ khác, miễn là nó đem lại quyền lợi. Như vậy, việc cai quản họ bằng bàn tay sắt chẳng qua cũng chỉ vì vấn đề quyền lợi của các cá nhân trong tập đoàn cầm quyền mà thôi. Họ sẽ tự hỏi: Phải chăng họ là loại người thấp kém hơn dân HK? Và câu hỏi đó sẽ thôi thúc những người có ý thức làm người, lan truyền trong cộng đồng, tạo ra những xung lực cho cuộc đấu tranh vì quyền sống, quyền được làm người. Đặc biệt, những đợt sóng đấu tranh vì quyền dân chủ của dân HK sẽ đem đến cho dân TQ đại lục những bài học quý giá. Tôi nghĩ, chỉ riêng câu nói được truyền tụng trong những ngày này ở HK: “Họ không thể giết hết chúng ta!” cũng đã lay động hàng triệu con tim dân TQ đại lục (và Việt Nam), đem lại niềm tin cho những người khát khao tự do, dân chủ.
Trong những ngày sắp tới, phong trào dân chủ ở HK có thể gặp phải những khó khăn đáng kể. Nhưng, trong bối cảnh thế giới hiện nay, chúng ta tin rằng sự nghiệp của những người đòi dân chủ ở HK sẽ thắng lợi trong tương lai gần, và sẽ là khởi đầu cho một phong trào mạnh mẽ ở cả những nơi khác nữa.
Hồng Kông giống như khúc đầu của một dây cháy chậm đã được châm lửa nối tới một quả bộc lôi.