Friday, 6 February 2015

hoànglonghải – Tham vọng khủng khiếp của người Tàu

1Mở đầu:
          Trì Hạo Điền, bộ trưởng bộ Quốc phòng, phó chủ tịch Quân ủy Trung Ương Hồng quân Trung Hoa, tức quân Tàu Cộng, dựa trên những lý thuyết của hai “chiến lược gia” Tầu là Lưu Hứa Quỳnh và Hà Tân để đọc một bài diễn văn dài, được xem như một bài học dành cho hàng tướng lãnh và sĩ quan cao cấp quân Tàu Cộng, vẽ ra một viễn tượng đẹp đẽ cho người Tàu ở thế kỷ 21 nầy, mà họ gọi là “thế kỷ của chúng ta”, (tức của người Tàu), một thế kỷ mà tất cả các nước khác, đứng đầu là Mỹ, phải bị tiêu diệt, để người Tàu di cư đến Mỹ mà sống.
          Lịch sử nhân loại có nhiều Đế quốc. Đế quốc nào cũng đi theo định luật tự nhiên của nó: hình thành, phát triển cao độ, rồi suy yếu dần và tan rã. Đó là trường hợp Đế quốc La Mã, Đế quốc Tây Ban Nha, Đế quốc Ottoman, Đế quốc Anh, Đế quốc Nhựt, v.v… Hiện tại là Đế quốc Mỹ đang vỡ nợ.
          Đế quốc Trung Hoa hình thành từ lâu lắm, khi Tần Thủy Hoàng “tóm thâu lục quốc” kéo dài cho tới bây giờ, khi lên khi xuống, nhưng tan rã thì chưa. Cái mộng lớn người Tàu thường nói là “nhất thống thiên hạ”. Thiên hạ của người Tàu ngày xưa là “Trung quốc” (nước ở giữa), thiên hạ ngày nay của người Tàu là thế giới đấy. Tham vọng của họ là thống trị cả thế giới nầy.
          Liệu họ có thực hiện được mưu đồ ấy?
          Bài viết sau đây là tóm tắt những ý kiến dựa trên bài thuyết trình của Trì Hạo Điền.
hoànglonghải    
          
Người Việt Nam cũng như các dân tộc chung quanh nước Tàu, rất có kinh nghiệm về bản chất của các chú Ba. Bản chất đó là gì, là hữu nghị, là láng giềng tốt v.v…. hay chỉ chờ cơ hội là ăn tươi nuốt sống các dân tộc chung quanh?
          Thật ra, không phải chỉ những dân tộc chung quanh nước Tàu mới hiểu Tàu mà thôi đâu! Người Tây phương, nhất là người Anh, quan hệ với người Tàu khá sớm và khá chặt chẽ vì quyền lợi, hiểu người Tàu hơn các  dân tộc khác, nên họ gọi người Tàu là con sư tử. Thế kỷ 19 – 20, nước Tàu là con sư tử đang ngủ. Cuối thế kỷ 20, con sư tử tỉnh ngủ, thức dậy. Nó sẽ làm gì? Chưa rõ làm gì, nhưng nó sẽ không chỉ là tai hoạ cho các dân tộc chung quanh, mà còn là tai hoạ cho các dân tộc khác trên thế giới nữa, mà người Anh gọi là “hoạ da vàng”.
          Thật ra, da vàng không chỉ là người Tàu mà thôi. Người Nhật, người Việt cũng da vàng vậy. Nhưng người Việt không thể là cái hoạ cho nhân loại. Người Nhật, sau khi gây ra thế giới chiến tranh thứ hai, họ có kinh nghiệm hơn, khôn ngoan hơn, biết sống chung vối cộng đồng thế giới hơn, không hay chưa là mối lo cho nhân loại.
          Người Tàu thì khác!
          Nhìn chung, người Tàu rất khôn ngoan, khôn theo cách nhìn của ông bà chúng ta ngày xưa là “thượng đội hạ đạp”, “gió chiều nào che chiều ấy”, “già nắn rắn buông”, “nước chảy đá mòn”, “lạt mềm buộc chặt”, và giỏi buôn bán. Có người nói: “trên địa cầu, nơi nào có người là có người Tàu; có người Tàu thì có buôn bán; có buôn bán thì có buôn gian bán lận, v.v…” Cái gì họ cũng buôn được, từ cục đá, cục đất cho tới bà chúa, ông vua. Chuyện Lã Bất Vi buôn vua có nhiều người biết. Chuyện ấy là chuyện tượng trưng cho bản chất của người Tàu.
          Trên thế giới, nhiều thành phố lớn có “phố  Tàu”, là nơi tụ hội đông đúc nhiều người, nhất là giới bình dân. Tôi nói bình dân là vì giới thượng lưu Mỹ không muốn đến phố Tàu. Hai vợ chồng cha mẹ nuôi con gái tôi, thuộc một vọng tộc và giàu có nơi tôi định cư, không bao giờ đến “phố Tàu” ở Boston. Họ sợ đấy, nhất là về an ninh.
          Việt nam có nhiều phố Tàu. Chợ lớn là phố Tàu của Saigon. Gia Hội là phố Tàu của Huế. Còn như Hội An, có bao nhiêu người Tàu, bảy, tám hay chín chục phần trăm?
          Khắp Việt Nam, chợ tỉnh, chợ quận, chợ xã, và ngay cả ở một cái ấp nhỏ, đâu đâu cũng có cửa hàng Tàu, có tiệm chú Ba, tiệm thuốc Bắc hay “chạp phô”.
          Họ rất khéo buôn bán, nhỏ nhẹ, chiều chuộng để lấy lòng khách hàng, và với ông xã, ông quận, ông tỉnh, họ biết “xuân thu nhị kỳ”. Một ông quan (quan xưa cũng như quan nay) mới vừa tới nhậm chức, họ đến thăm sớm, có “quà” kèm theo, theo cách nghĩ “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”.
          Tôi có người bạn tù vong niên kể chuyện: Khi tao vô “rờ sẹc”, muốn ăn thịt quay, tao ra chợ Cũ (đường Hàm nghi Sàigon) vô tiệm ba Tàu, vói tay chỉ con gà quay treo trên cao, để cho lòi cây “ru-lô” dắt ở lưng quần ra. Chú Ba thấy cây súng, biết tao là nhân viên cò Xuân, vội vàng gói thịt cho tao, không tính tiền.”
          (Ghi chú: Cò Xuân là ông Mai Hữu Xuân, hồi ấy là quan chức của ngành “Công an Liên bang” của Tây)
            Từ ông quan nhỏ đến ông quan lớn, họ “nắm đầu được hết”. Bị đảo chánh, anh em ông Diệm Nhu chạy trốn vào nhà ba Tàu Mã Tuyên ở quận Năm, thủ lãnh Thanh niên Cộng Hoà Chợ Lớn, trước khi Diệm Nhu đầu hàng quân đội.  Trước 1975, dân Saigon nhiều người biết ông ba Tàu Lý Long Thân. Ông ta thường vào cửa sau dinh Độc Lập ỏ đường Nguyễn Du còn “dễ hơn đi chợ”!
          Hồi ông Bill Clinton ứng cử tổng thống, ông John Hoang nào đó, đóng một số tiền lớn vào quỹ ứng cử cho ông Bill. Biết chuyện đó, người Việt miền Nam có kinh nghiệm với người Tàu, cất tiếng thở dài…
          Có lẽ không phải chỉ ở quê tôi mà nhiều nơi, người Việt ít có cảm tình với người Tàu ở địa phương họ, mặc dầu hai bên vẫn quan hệ bình thường, thậm chí có khi gả vợ gả chồng.
          Trước khi tổng thống Diệm cấm người Tàu làm 11 nghề, thì sự “xa cách” giữa người Tàu và người Việt có vẽ nhiều hơn, nhất là người Tàu không gả con gái cho con trai Việt. Vì chính sách của ông Diệm, người Tàu phần đông bị Việt hoá nên sự xa cách không còn nhiều. Người Tầu cũng đi lính, vô cảnh sát, làm sĩ quan, làm công chức khá đông.
          Người Tàu tha phương cầu thực ít khi quên nguồn cội, cũng có khi cậy thế. Khi quân đội Nhựt chiếm Đông Dương, họ theo dõi người Tàu ở nước ta khá kỹ, ai theo Tưởng thì bị bắt, bị giết. Trường hợp nhạc sĩ La Hối ở Hội An là cụ thể nhứt. Ông bị Nhựt giết cùng với khoảng mười người Tàu khác cũng bị ắt ở Hội An. Khi quân Tàu của tướng Lư-Hán, Tiêu-Văn qua giải giới quân đội Nhựt, người Tàu cũng dựa thế mấy anh Tàu phù mà hách xì xằng. Anh cả tôi, khi Nhựt tới, mới 14 tuổi, đang học trung học thì thôi học vì nhà nghèo. Anh tự học tiếng Nhựt rồi làm thông ngôn cho Nhựt. Khi Nhựt thua trận rồi, ông anh tôi mấy lần bị mấy anh ba Tàu ở phố chợ Quảng Trị chận đường đón đánh, ông anh tôi chạy trối chết.
          Thật ra, người Tàu cũng trung thành với quê hương thứ hai của họ. Người Tàu Singapore không muốn đem đất nước đảo quốc nầy mà giao cho Bắc kinh. Những người Tàu “phản Thanh phục Minh”, thường gọi là “Tàu Minh hương” như họ tộc các ông Trần Tiễn Thành, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản, Ngụy Khắc Đản, Lý Văn Phức, Mạc Cửu… trung thành với vua chúa nhà Nguyễn hơn là mấy ông vua bên Tàu hay ông Tưởng, ông Mao, trừ mấy ông Cộng sản Việt lai Tàu.
          Công lao của người Tàu di dân đối với đất nước ta là lớn lắm. Rõ nhứt là ở trong Nam, khai khẩn vùng đồng bằng Nam Bộ, mà không kể đến công lao người Tàu là bất công.
*
          Người Tàu lục địa thì khác. Họ rất tự hào về họ, tự hào về những cái họ có thật, những cái còn mơ hồ, và cả những điều họ thêm thắt, vẽ vời.
          Khi khỉ biến thành người (không nói theo như trong kinh thánh), thì hiện tượng ấy xuất hiện ở đâu trước? Ở châu Âu, châu Phi hay châu Á. Các nhà khảo cổ học chưa thể nhất thống ý kiến việc nầy, nhưng phần đông thiên về châu Phi.
          Còn cái mà người ta gọi là loài “vượn người Bắc kinh” thì sao? Căn cứ vào khảo cổ học, người ta kết luận:
          “Như vậy, có thể phỏng đoán cách đây khoảng 50 vạn năm, ở vùng Chu Khẩu Điếm đã có con người sinh sống. Họ là những bầy đoàn nguyên thủy dùng cành cây gậy gộc và các công cụ đá thô sơ để săn bắt, hái lượm và tự vệ. Người vượn Bắc Kinh đã biết dùng lửa. Nhưng họ không phải là tổ tiên của người Trung Quốc ngày nay.”
          Người Tàu ngày nay không phải là con cháu “thuỷ tổ loài người” ở Chu Khẩu Điếm, nhưng họ vẫn tự hào rằng:
          “Nền văn minh Trung quốc bắt nguồn tại các khu vực thung lũng dọc theo sông Hoàng Hà và sông Dương Tử trong thời đại đồ đá mới, nhưng cái nôi của nền văn minh Trung Quốc được cho là tại sông Hoàng Hà. Với hàng ngàn năm lịch sử tồn tại và phát triển, đây là một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới”.
                             (hai đoạn này trích trong Wikipedia)
          Đâu có phải như người Tàu chủ quan. Nhân loại có nhiều nền văn minh cổ đại khác nhau, trước cả người Tàu, như “Văn Minh Lưỡng Hà”, được coi là “cái nôi” của văn minh nhân loại:
          Theo Wikipedia, “văn minh Lưỡng Hà” (sông Tigre và sông Euphrate, thuộc I-răq hiện nay) gồm các nhóm văn minh sau:
Văn minh người Sumer và Akkad (thiên niên kỷ thứ Tư, trước Công nguyên đến năm 2024 )
Văn minh cổ Babylon (từ 2024 đến 1595 tr. CN)
Văn minh cổ Assyria và Tân Babylon (TNK thứ Ba tr. CN đến năm 538)
Văn minh Phoenicia và Palestine (từ TNK thứ Ba Tr. CN)
Israel và Judah cổ xưa.
          Nói về sự vững chắc của các học thuyết nguồn gốc văn minh nhân loại thì cũng chưa có cái nào hoàn toàn đáng tin cả. Nhưng chắc hay không thì điều đó có cái hậu quả tương đối của nó. Sự vĩ đại của Kim Tự Tháp bên Ai Cập, ngoài việc nói lên cái tài giỏi của dân tộc ấy, nó cũng còn nói lên sựu tàn ác của đám vua chúa ích kỷ nữa chứ.
          Người Tàu tự cho là họ có nền văn minh sớm, chẳng hạn như họ nói rằng họ đã sớm tìm ra cách trồng cây lúa nước. Nói vậy là nói bậy. Chính người Việt Nam định cư ở đồng bằng sông Nhị đã tìm  ra cách trồng lúa nước đầu tiên. Trong khi người Việt đã biết ăm cơm, thì người Tàu vẫn còn nhai bo-bo. Tuy nhiên, người Tàu vẫn tự cao, nhai bo bo nhưng họ gọi thứ thực phẩm ấy là cao lương. Cao lương mỹ vị của mấy chú Ba.
           Người Tàu nói thì cũng hay lắm đấy chứ. Năm trăm năm trước Công nguyên mà ông Khổng Tử nói được câu “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” là hay lắm đấy. Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác, tức là mình có lòng Nhân đấy, tức là Bình đẳng đấy, là tôn trọng Tự do đấy, tôn trọng Nhân quyền đấy.
          Nhưng người Tàu có thực hiện điều ông Khổng Tử nói đâu?! Không những không làm theo mà còn làm ngược lại nữa đấy.  Người Tàu nói thì hay nhưng làm thì dở ẹt.
          Người Tàu cũng tự cho họ là một dân tộc siêu đẳng. Đối với những dân tộc khác, từng được đánh giá là tài giỏi và có tinh thần, như người Nhựt, người Đức, họ coi thường tuốt, cho rằng các dân tộc ấy không bằng họ.
          Ngoài ra, người Tàu cũng cho rằng văn minh nhân loại “đi vòng quanh địa cầu”. Trước nhứt là xuất phát từ châu Phi, – tuy rằng họ không chấp nhận sự kiện người châu Phi không có nền văn minh cổ đại trước họ, lập luận đó mâu thuẫn phải không?, –  văn minh đó “di chuyển” qua châu Âu, rồi qua châu Mỹ. Ngày nay thì nó “di chuyển” qua phương Đông, theo vòng quay của địa cầu, người Tàu cho là qua Tàu chứ không qua Nhựt hay Đại Hàn hoặc Đông-Nam-Á.
          Ngoài ra, do sự phát triển của khoa học, các nước châu Âu trở thành các đế quốc tư bản, đứng đầu là Đế Quốc Anh. Đế quốc Anh lớn nhứt vì “mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc Anh”.  Nước Anh có thuộc địa khắp địa cầu.
          Người Tàu cho rằng “thế kỷ 19 là thế kỷ của Đế Quốc Anh”. “Thế kỷ 20 là thế kỷ của Đế Quốc Mỹ”. Bây giờ, “thế kỷ 21 là thế Kỷ của chúng ta”. Chúng ta là người Tàu đấy.
          Vậy là người Tàu bây giờ “Cờ đã tới tay.” Họ sẽ làm gì?
          Người Tàu tính toán như sau: với diện tích 11 triệu km2 (bao gồm Nội và Ngoại Mông), tính luôn cả những vùng cao nguyên và đồi núi… thì chỉ đủ để nuôi một dân số là 8 trăm triệu người. Trong khi đó, dân số hiện nay của Tàu là gần 1 tỷ rưởi; thế là gần gấp đôi, là “quá tải” với lục địa Tàu. Người Tàu đã thực hiện nhiều chính sách kiểm soát dân số, giới hạn sinh đẻ, nhưng dân số Tàu cứ tăng vùn vụt. Hiện tại người Tàu chưa sống nỗi với một dân số như thế, với một diện tích đất đai như thế, nói chi tới tương lai.
          Cách giải quyết của Cộng Sản Tàu là tìm đất để di dân tới. Trên địa cầu hiên nay, chỗ đất nào còn trống để người Tàu tới sinh sống? Không còn chỗ nào cả, và cũng không có bao nhiêu nước muốn đón người Tàu tới, và nếu như có nước nào chịu đón thì số lượng người tới định cư cũng không bao nhiêu, không thể giải quyết được nạn nhân mãn của Tàu.
          Vậy chính sách của Tàu là tiêu diệt người dân ở tại một đất nước nào đó, chỉ còn lại đất trống, để người Tàu tới ở.
          Nước Mỹ là mục tiêu đứng đầu cho chính sách ấy. Lãnh thổ Mỹ là nơi lý tưởng nhứt cho mục đích di dân của người Tàu. Mỹ cũng có diện tích gần tương đương với Tàu (9 triệu 800 ngàn Km2), cùng vĩ độ với Tàu, nhiều tài nguyên, nhiều cơ sở kỹ nghệ, văn hoá, giáo dục sẵn sàng.
          Làm thế nào để người Mỹ “dọn nhà đi” để người Tàu tới ở?
          Nếu áp dụng kiểu chiến tranh xâm lăng cổ điển là dùng binh lính, đại bác, xe tăng và kể cả bom nguyên tử, làm sao Tàu thắng Mỹ được! Ngoài ra, sự phá hoại của chiến tranh hết sức ghê gớm, dùng cả bom nguyên tử rồi thì đất đai chẳng thể ở được. Cơ sở vật chất chỉ còn là tro bụi.
          Người Tàu sẽ áp dụng một phương tiện chiến tranh khác, người thì chết tiệt mà cơ sở vật chất vẫn còn nguyên. Đó là chiến tranh bằng vũ khí sinh hoá, bằng vũ khí điện tử kỷ thuật cao thì nước Mỹ chẳng còn người nào sống sót.
          Có người hỏi: Nếu người Mỹ chết hết thì số phận 7 triệu người Tàu hiện đang sống tại Mỹ sẽ như thế nào? Lý thuyết gia người Tàu bảo: Hy sinh 7 triệu người Tàu ở lục địa Mỹ để cho 700 triệu người Tàu lục địa Tàu có đất sống thì cái giá đó còn quá rẻ.
          Trong viễn tượng đó, khi Mỹ đại bại rồi, sá gì với các nước Úc, Nhựt và Tây Âu… các nước đó cũng sẽ lần lượt sụp đổ theo, dư thừa đất đai cho người Tàu sinh sống. Vậy thì địa cầu nầy chỉ còn rặc một thứ Tàu phù hay sao? Có lẽ như thế, nhưng bọn lãnh đạo ngồi ở Thiên An môn muốn tránh né, chưa nói tới cái mục đích của ông cha họ ngày xưa: Thiên hạ toàn là người Tàu, toàn là người Tàu ở cả, hoặc ai không chết thì cũng bị đồng hoá thành người Tàu như 99 Việt trong lịch sử Trung Hoa cổ, trong đó, gồm cả tổ tiên ông Tôn Văn, mà người Tàu gọi là “Quốc phụ”. Ngày xưa, thiên hạ là nước Tàu; ngày nay, thiên là là toàn thể địa cầu.
          Người Tàu có thực hiện được tham vọng đó hay không?
          Họ tin là được! Trước hết, họ tin vào tài lãnh đạo của đảng Cộng Sản Tàu. Họ tin ở cái tập thể đó và tin vào tài ba của những cá nhân lãnh đạo như Mao, như Đặng… Sau nầy, cũng không thiếu chi nhân tài. Chỉ có người Tàu mới thực hiện được những bước “Đại nhảy vọt”, thực hiện được cuộc “Đại Cách mạng Văn hoá”. Sau khi nước Tàu tỉnh dậy thì một sớm một chiều đứng vào hàng thứ hai các nước có kinh tế lớn, chỉ sau Mỹ mà thôi. Họ tin vào đảng, tin vào sức mạnh và “tính ưu việt” của ngươi Tàu và họ sẽ vượt Mỹ không mấy hồi.
          Vụ Thiên An Môn năm 1966 là cục đá cản đường người Tàu đi tới mục tiêu đó. Chỉ có một người trong giới lãnh đạo Tàu ủng hộ cuộc đấu tranh đó: Triệu Tử Dương. Hậu quả là ông Triệu bị giáng chức, bị giam lỏng. Ông phải viết hồi ký “chui”.
          Không phải đời không có những cái bất ngờ. Ngay 21 tháng 2 năm 1972, Nixon cùng Kissinger được Mao tiếp ở Trung Nam Hải. Sự kiện ấy, chỉ là để người Tàu mở cửa với thế giới Tây phương hay để người Tàu hùng mạnh như bây giờ, để “chơi ngang” với siêu cường Mỹ, trở thành mối đe doạ cho Đông Nam Á, cho Châu Á hay cho toàn thế giới??? Không biết hồi ấy, khi Kisinger bắt tay với người Tàu, có ngờ trước được rằng Tàu sẽ giàu mạnh như ngày nay?
          Hiện tại, người Tàu đang chuẩn bị: Chuẩn bị tinh thần “đòi lại” những cái gì họ cho là họ đã bị mất vào tay các nước đế quốc tư bản, đứng đầu là Mỹ? (1)
          Tài nguyên trên địa cầu, mấy trăm năm nay, Tây phương và Mỹ khai thác đã nhiều. Nay, những quốc gia này phải rút lui, để dành lại cho người Tàu. Mục đích giáo dục, tinh thần thanh niên người Tàu ở lục địa, hiện giờ được rèn luyện, hun đúc theo tinh thần đó.
          Thứ hai là chuẩn bị cho tinh thần dân chúng để tham gia vào một cuộc chiến để giành thắng lợi, đạt mục đích như đã nêu trên.
          Hiện giờ, người Tàu đang hung hăng, ngang ngược đấy: Đòi chiếm toàn bộ biển Đông của Việt Nam, tranh chấp quần đảo Điếu ngư với người Nhật. Mai mốt đây, họ còn đòi gì nữa?
          Hễ mất biển Đông, là nước Việt Nam coi như có nhà mà không có cửa ngõ. Ghe tàu rời bờ biển, ra xa một chút, đi vào vùng “lưỡi bò” là vào biển của Tàu. Máy bay vừa cất cánh, là phải đi vào hướng Bắc hay hướng Nam, không thì coi như vi phạm không phận của Tàu, vì bay vào không phận vùng lưỡi bò. Bắc Việt lúc đó, giống như bị dồn vào một góc tường, chui vào một cái bị, cái túi, phía Đông phía Bắc là của Tàu, hướng Tây là Ai Lao, chỉ còn một hướng Nam mà thôi. Trong tình hình đó, chẳng bao lâu Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh của Tàu
          Người Tàu sẽ thực hiện được tham vọng điên cuồng ấy. Họ sẽ giống như con cóc muốn to bằng con bò như trong truyện ngụ ngôn. Không hẳn thế, đó chỉ là cái bánh vẽ bọn lãnh đạo dùng để đánh lừa người Tàu?
          Mục đích việc đánh lừa là gì?
           Hiện nay, nội bộ lãnh đạo không thiếu phân hoá, tranh chấp gắt gao, không thiếu thanh trừng đổ máu, mặc dù họ cố dấu nhưng cũng có nhiều việc không dấu được. Trước kia là vụ Triệu Tử Dương, bây giờ là vụ Bạc Hy Lai, và sau nầy còn xì nữa, xì ra thì thiên hạ biết.
          Để củng cố nội bộ, tránh sự nứt rạn chia rẽ, chính quyền Bắc Kinh buộc lòng đưa ra những cái bánh vẽ để đánh lạc hướng mâu thuẫn, chống đối. Vì nó là cái bánh vẽ thì mọi người không có chi phải đang lo.
          Trình độ khoa học kỹ thuật của Tàu hiện nay chưa có gì xuất sắc. Phần nhiều là “ăn cắp trí tuệ”, có nghĩa là “chôm” khoa học kỹ thuật Âu Mỹ. Vì còn trong tình hình chôm chỉa, từ đó mà tiến lên có trình độ kỹ thuật cao đã là khó, nói chi tới vượt Âu Mỹ để sáng chế ra những vũ khí sinh học để tiêu diệt thế giới, việc ấy e còn lâu.
          Bên cạnh đó, khi người Tàu tìm tòi vũ khí sinh học để tiêu diệt các dân tộc khác, nhắm bộ Mỹ và Âu Tây nhắm mắt nhắm mũi không biết gì cả, chỉ ngồi chờ chết hay sao?
          Con cóc cố phình bụng, chưa kịp to bằng một góc con bò, bụng đã nổ tan tành, còn chi là cóc.
          Curiosity chưa thể tìm ra đất sống trên sao Hoả để người Mỹ di cư lên đó ở mà giao nước Mỹ lại cho người Tàu như đám ngồi  ở Trung Nam Hải hy vọng hão huyền.
          Sự thống nhất hiện nay của nước Tàu không phải là không dễ vỡ, mà sự phân hóa của người Tàu, nước Tàu khá rõ: Về địa lý là chia rẽ giữa các vùng ở trong nước, giữa trung ương với địa phương, giữa miền Đông và miền Tây, và miền cực Tây, giữa thành thị, thôn quê, giữa các đặc khu kinh tế và không phải là đặc khu kinh tế… Về chủng tộc thì có sự phân liệt giữa người Hán với người Hán, trầm trọng nhứt là giữa người giàu với người nghèo, giữa người Hán với dân tộc các nước chung quanh, như người Duy Ngô Nhĩ, người Tạng, người Mông, người Mãn, người Triều Tiên, người Việt. Giữa trùng trùng điệp điệp những mối thù đã có hàng trăm năm, hàng ngàn năm như Trịnh Công Sơn viết “Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu” liệu người Tàu có thoát ra khỏi những vòng vây trùng điệp ấy hay không, nói chi tới việc gây thêm thù oán với các dân tộc Âu Mỹ để ngồi đó mà chịu chết hay sao?!
          Tham vọng của người Tàu đáng ghê tởm thật vì sự tàn ác của nó, nhưng sợ thì chẳng có gì đáng sợ, bởi vì nhìn theo thực tế thì họ không thể làm được, còn nói về mặt đạo đức thì “Thiên bất dung gian”.
hoànglonghải
(1) Mấy năm trước đây con gái út của tôi qua Thượng Hải để dạy cho một số kỹ sư Tàu về việc thử các loại thuốc mới trên sinh vật. Khi mới đến con gái tôi không nói là người Mỹ gốc Việt. Trong quá trình tiếp xúc với họ, con gái tôi thấy họ thường biểu lộ những ý tưởng thù ghét người Mỹ, nhất là họ cho rằng người Mỹ đã giành hết các nguồn lợi trên thế giới, làm cho người Tàu “phải đi sau”. Bây giờ là lúc họ phải đánh đổ người Mỹ để giành lại những quyền lợi ấy. Trước khi về lại Mỹ, trong buổi học cuối, con gái tôi mới nói cho họ biết là người Mỹ gốc Việt, định cư ở Mỹ khi còn nhỏ. Bọn họ sững sờ!