Tuesday, 3 February 2015

Trần Anh Tuấn - Trần Trọng Kim với Việt Nam Sử Lược

Trên Diễn Đàn này, giáo sư Phạm Cao Dương vừa có bài viết về chính phủ Trần Trọng Kim. Đây là bài viết của một sử gia lành nghề. Vì thế, để hưởng ứng giáo sư Dương, tôi xin gửi tới bạn đọc của Thế Kỷ  Online bài viết về thành quả  của họ Trần về Sử Học, trích trong một tác phẩm sắp xuất bản. TAT

Trần Trọng Kim sinh năm Quí Mùi 1883 tại làng Kiều Lĩnh, xã Ðan Phổ, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cụ  về hưu sau 31 năm làm việc trong ngành giáo dục.

Cụ tốt nghiệp Sư Phạm tiểu học tại Pháp rồi về nước khoảng năm 1911, được bổdạy tại trung học Bảo Hộ (Trường Bưởi), trường Hậu B và tại trường Nam Sư Phạmtừ năm 1919. Cụ giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như Thanh Tra Tiểu Học (1921), Trưởng ban Soạn thảo Sách Giáo khoa Tiểu học (1924), giám đốc các trường nam tiểu học Hà Nội từ năm 1933 cho đến khi về hưu năm 1942. Cụ  còn là Phó Trưởng Ban Ban Văn Học của Hội Khai Trí Tiến Ðức tại Hà Nội.

Hoạt động trong ngành sư phạm, cụ viết Sơ Học Luân Lý (1914), Sư Phạm Khoa Yếu Lược (1916), Việt Nam Sử Lược (bộ 2 quyển, 1919), Truyện Thuý Kiều (hiệu khảo Ðoạn Trường Tân Thanh cùng với Bùi Kỷ, 1925), Les 47 Articles de Cathechisme Moral de l’Annam d’Autrefois. 47 Ðiều Giáo Hoá Ðời Lê Triều (dịch ra Pháp văn, 1928), hai bộ sách giáo khoa Quốc Văn Giáo Khoa Thư và Luân Lý Giáo Khoa Thư (3 tập cho các lớp Ðồng Ấu, Dự Bị, và Sơ Ðẳng, soạn cùng Nguyễn Văn Ngọc, Ðặng Ðình Phúc, và Ðỗ Thận), và Việt Nam Văn Phạm (soạn cùng Bùi Kỷ và Nguyễn Mạnh Tường, cùng Nguyễn Quang Oánh (?), 1941). Năm 1916, Trần Trọng Kim cộng tác với Nguyễn Văn Vĩnh ra tập Nam Học Niên Khoá, đến năm 1919 thì đổi thành Học Báo. Ðây là cơ quan giáo khoa đầu tiên ở nước ta, giúp ích nhiều cho các giáo viên tiểu học.

Trần Trọng Kim còn nghiên cứu về nho giáo qua tác phẩm Nho Giáo. Cụ diễn thuyết về Phật Giáo và xuất bản Phật Giáo Thủa Xưa và Phật Giáo Ngày Nay. Cụ biên khảo thơ với ba bộ Ðường Thi, Vit Thi,  Hạnh Thục Ca (phiên âm và chú thích).

Trần Trọng Kim cộng tác với Ðông Dương Tạp Chí về Việt sử và luân lý, với Nam Phong Tạp Chí về Khổng Tử và Lão Tử.


Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục) là hồi ký Cụ viết xong năm 1949, được Vĩnh Sơn xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn, khi Cụ đã mất. Ðiều đáng tiếc là hồi ký của Trần Trọng Kim chỉ ghi lại quãng thời gian 1943-49 trong đời Cụ. Vì thế hồi ký không cho chúng ta chút thông tin nào về tiểu sử của Cụ, nhất là việc học hành trong nước thủa nhỏ, thời gian du học Pháp, và việc biên soạn Việt Nam Sử Lược.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, hoàng đế  Bảo Ðại tuyên bố hủy bỏ Hòa Ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền quốc gia. Trần Trọng Kim được giao thành lập nội các vào ngày 17 tháng 4 năm 1945. Ðây là chính phủ đầu tiên và Trần Trọng Kim trở thành Thủ Tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập.

Ngày nay, một số chi tiết về sử gia Trần Trọng Kim đã bị nhiễu loạn. Như hai tác gỉa Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế trong Từ Ðiển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam(Tp HCM, nxb Văn Hoá, 1993, 1215 tr.) cho biết Cụ sinh năm Nhâm Ngọ 1882 là sai, vì trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi, Trần Trọng Kim đã ghi rõ cụ sinh năm Quý Mùi 1883. Mạng điện tử Wikipedia cho biết Trần Trọng Kim tốt nghiệp Trường Thông Ngôn, rồi qua Pháp học Trường Thương Mại và  được học bổng học Trường Thuộc Ðịa Paris mà sử gia Vũ Ngự Chiêu đã lục được hồ sơ tại Pháp (?)

Tôi đọc trong tạp chí Ðại Nam Ðăng Cổ Tùng Báo (do F.-H. Schneider chủ nhiệm và Nguyễn Văn Vĩnh chủ bút) thấy có ba bản tin về Trần Trọng Kim hồi năm 1907. (Nhân đây, tôi cám ơn nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính, Nam California, đã gửi tặng CD bộ Ðại Nam Ðăng Cổ Tùng Báo năm 1907).

Số 793 ra ngày Thứ Năm 28.3.1907 có bản tin chi tiết về một người thợ cẩn (khảm) tên Trần Trọng Kim sang Pháp nhân cuộc Triển Lãm Thuộc Ðịa Pháp tại Marseille năm 1906. Nhà báo khen tinh thần Trần Trọng Kim “trước làm công ở cửa hàng, lương cũng đã  cao thế mà quyết định bỏ việc...” và được  Hauser, đốc lý Hà Nội, và là người phụ trách đấu xảo Marseille 1906 của Ðông Dương, “thấy người có trí (sic!) khí cũng thương mà cho một chân thợ sang Tây.” Sang đến Pháp, nhân vật Trần Trọng Kim này được sự giúp đỡ của Pierre Vierge (nhà báo) và Lhermite (hiệu trưởng trường Institute Libre de Garcons ở Bourg Saint Andéol) cho vào học trường này.

                                                                                                                
Ðến số 810 ra ngày 25.7.1907 thì Ðại Nam Ðăng Cổ Tùng Báo dẫn bản tin của nhật báo Petit Marseillais ngày 28.6.1907 cho biết Trần Trọng Kim vừa đỗ bằng sư phạm tiểu học ở Avignon.


Số 824 ra ngày 31.10.1907 lại thông tin Trần Trọng Kim được Pierre Vierge và Lhermite giúp vào học trường École de La Salle Industrielle et Commerciale, địa chỉ 5 Rue Masson, Lyon (Rhône) để học nghề. Ðại Nam Ðăng Cổ Tùng Báo đưa tin và kêu gọi bằng hữu tại Hà Nội giúp chi phí học hành và ăn ở cho Trần Trọng Kim.



Ðại Nam Ðăng Cổ Tùng Báo là tạp chí đương thời với Trần Trọng Kim, nên thông tin của họ tất chính xác hơn những sách báo sao chép lẫn nhau sau này. Ðọc tập sách nhỏ tựa đề Phê Bình Nho Giáo Trần Trọng Kim (Hà Nội, nxb Mai Lĩnh, 1940, 75 tr.) trong đó tác giả Ngô Tất Tố đã “hoài nghi cái sức Hán học của tác giả Nho Giáo.” Ngô Tất Tố vạch ra những chi tiết chứng tỏ Trần Trọng Kim không thông hiểu cách đặt câu của Hán văn, dịch Hán văn sang Việt văn sai nghĩa, đem tư tưởng của người khác làm tư tưởng của Khổng Tử... khiến tôi tin rằng Trần Trọng Kim trong Ðại Nam Ðăng Cổ Tùng Báo và Trần Trọng Kim tác giả Việt Nam Sử Lược là một người. Những bản dịch Hán văn trong VNSL, điển hình là Bình Ngô Ðại Cáo, theo tôi biết, đều có bàn tay của cụ phó bảng Bùi Kỷ.

Một tài liệu mới đây khác (xin xem: “Lệ Thần Trần Trọng Kim một học giả, một nhà ái quốc nêu gương sáng” của Hoành Sơn trong tạp chí Thức Tỉnh (Hoa Kỳ, số 72, 1981, trang 46-47) cho biết rõ Trần Trọng Kim tốt nghiệp trường thông ngôn, giả làm thợ khảm để có dịp qua Pháp nhân một cuộc triển lãm tại Paris (?). Trong bài báo ngắn hai trang này, Hoành Sơn cũng cho biết thêm chi tiết Trần Trọng Kim xuất thân trong một gia đình Nho học, vỡ lòng chữ Hán trong bốn (4) năm, từ năm 1887 đến năm 1893 thì bỏ chữ Hán, lên Nam Ðịnh học trường Pháp Việt rồi tốt nghiệp trường Thông Ngôn năm 1903. Chính vì có căn bản Pháp Văn như thế, nên khi sang Pháp, được sự  giúp đỡ  của vài cá  nhân theo như tạp chí Ðại Nam Ðăng Cổ Tùng Báođương thời cho biết, cụ chịu ảnh hưởng từ những bộ sử lược tại Pháp đã trở nên một học giả mà Việt Nam Sử Lược là một tác phẩm để đời của Cụ, mở đầu cho loại sách sử theo phong cách Âu Mỹ, chăng?

Trong tất cả những tác phẩm kể cả hồi ký, Trần Trọng Kim không hề đề cập đến gia thế hay thân nhân của cụ. Cụ chỉ đề cập nhiều đến gia tộc họ Bùi của hiền thê, vốn có nhiều Cử Nhân Phó Bảng Hán học xuất thân. Vì thế, cùng với nhiều bản tin thời sự liên hệ đến một người thợ cẩn tên Trần Trọng Kim trong tạp chí Ðại Nam Ðăng Cổ Tùng Báo năm 1907, tôi không biết Trần Trọng Kim có xuất thân trong một gia đình danh gia thế phiệt hay không. Nhưng nếu họ Trần chỉ là một chân thợ xuất thân, mà tinh thần cầu tiến được “Hội Du Học Bảo Chợ (sic!)” tại Hà Nội biết và giúp tiền trú ngụ tại Pháp từ năm 1907, rồi học được cái tinh xảo của nghề Sử, thì người thợ cẩn này càng đáng kính đáng trọng.

                       
Hình ảnh khu Ðông Dương tại cuộc triển lãm Marseille 1906, từ trái sang phải:
tòa nhà Ðông Dương, khung cảnh chung dẫn vào khu Ðông Dương,
rạp hát Ðông Dương, và cổng tam quan khu Ðông Dương. (Bộ sưu tập TAT)
Nguyên năm 1906, Pháp tổ chức một cuộc triển lãm vĩ đại tại Marseille nhằm phô diễn thành tích tại các thuộc điạ. Cuộc triển lãm mở ra từ ngày 15.4.1906 mãi đến ngày 18.11.1906 mới chấm dứt. Trong hơn 7 tháng mở cửa, cuộc triển lãm thu hút 1,800,000 người tham dự. Cuộc triển lãm bao gồm hơn 50 toà nhà theo phong cách riêng của mỗi thuộc địa. Ðông Dương có mặt với một tòa nhà chính và một rạp hát.

Ngoài ra, mỗi kỳ (Bắc, Trung, Nam) đều có tòa nhà riêng triển lãm với khung cảnh đặc trưng của mỗi miền, như miền Trung thì có tòa tháp phỏng theo tháp chùa Thiên Mụ. Xe tay cũng được đem sang để đưa đón khách tham dự như những hình ảnh dưới đây.

                  
Hình ảnh khu Ðông Dương tại cuộc triển lãm Marseille 1906, từ trái sang phải: 
khu Bắc Kỳ, khu Trung Kỳ, khu Nam K ỳ, và xe tay cùng thợ kéo xe. (Bộ sưu tập TAT)
Ðông Dương như thế phải cho xây cất và thu thập phẩm vật để triển lãm trong nhiều năm tháng, và phái đoàn sang Marseille phải đông đảo hàng trăm người với nhiều loại thợ chuyên môn. Nhờ đó mà một người thợ cẩn 23 tuổi, tên Trần Trọng Kim được đi Pháp, rồi được giúp đỡ ở lại du học.

Trần Trọng Kim tạ thế ngày 2.12.1953 tại Ðà Lạt. Linh cữu được chuyển bằng máy bay ra Hà Nội và lễ mặc niệm cử hành tại chùa Quán Sứ ngày 8.12.1953 với tư cách là “nguyên Thủ Tướng.” Rồi tang lễ được cử hành tại nghĩa trang Phúc Thiện (Cầu Giấy), có điếu văn của Nguyễn Ðệ, đại diện Ðức Quốc Trưởng Bảo Ðại và Nguyễn Hữu Trí, Thủ Hiến Bắc Việt.

Ngày hôm sau, 13.12.1953 một lễ truy điệu được cử hành tại Sài Gòn với điếu văn của Hội Việt Nam Phật Giáo và nhà thơ Ðông Hồ Lâm Tấn Phác.

Tang lễ có nhiều bức trướng và câu đối, xin đan cử một hai thí dụ:
Là văn gia, là học giả, là giáo sư, tóc chưa nguôi lòng cố lão.
Sách nam sử, sách đạo nho, sách văn phạm, lời vàng còn để ánh danh sơn.(Ðông Hồ)

Hay:
Sanh tiền sử Việt từng ghi, một bộ luận bàn tinh việc trước.
Tử hậu đạo Nho vẫn để, ba pho giải thích hiểu người sau. (Làng báo Nam Việt)

Trần Trọng Kim là một sử gia đặc biệt. Cụ không hề được đào tạo trong nghề sử, thậm chí cũng không tốt nghiệp Tú Tài. Cụ chỉ tốt nghiệp sư phạm tiểu học. Có lẽ thời gian ở Pháp, cụ có dịp đọc thông sử của Pháp và chịu ảnh hưởng từ đó.

Việt Nam Sử Lược của cụ quá đặc biệt ở chỗ tác phẩm là bộ sách giáo khoa trong suốt thế kỷ XX và đến tận ngày nay trong thế kỷ XXI, người Việt nào cũng học và người nghiên cứu nào cũng tham khảo. 

Nó chính là bộ Việt Sử đầu tiên thoát khỏi truyền thống biên niên và cương mục của học giới từ ngàn xưa tại nước ta, và hoà nhập vào truyền thống viết sử Âu Tây. Biết bao cá nhân cố gắng thay thế Việt Nam Sử Lược bằng sách họ viết trong hậu bán thế kỷ XX, nhưng chưa hề có một bộ sách nào xứng đáng.

Năm 1919, tác phẩm Việt Nam Sử Lược xuất hiện. Ðây là một thành công tức thì và lớn lao của một tác giả. Vì từ khi ra đời, bộ thông sử này luôn luôn được sử dụng trong các trường trung học suốt từ thời Pháp thuộc đến thời Việt Nam Cộng Hòa. Ngày nay ở hải ngoại, Việt Nam Sử Lược vẫn còn được sử dụng như một bộ sử căn bản. Thành ra, trong gần một thế kỷ qua, nhờ sách này mà biết bao thế hệ học sinh sinh viên nói riêng và công dân miền Nam nước Việt nói chung đã nắm được những giềng mối của lịch sử nước nhà.

             
Ðọc tác phẩm này, chúng ta cần tìm đọc hai ấn bản. Một, là ấn bản thứ hai của nhà in Vĩnh&Thành Hà Nội năm 1928. Ðây là ấn bản mà tác gỉa đã “sửa lại cẩn thận” vì ấn bản đầu tiên do nhà Trung Bắc Tân Văn xuất bản năm 1919 có “nhiều sai sót.” Hai, là ấn bản thứ tư của nhà in Tân Việt Hà Nội năm 1951. Ðây là ấn bản cuối cùng mà Trần Trọng Kim cũng đã “sửa chữa cẩn thận” trước khi tác giả mất vào năm 1953.

Mặt khác, có lẽ không có ai có thể đếm được số lần tái bản của VNSL từ ấn bản đầu tiên đến nay, vì sách đã được các cơ quan công quyền trong thời Pháp thuộc, nhất là thời Việt Nam Cộng Hòa liên tục tái bản đã đành, rất nhiều nhà xuất bản tư nhân trong thời khoảng ấy cũng đã tự tiện và thoải mái tái bản sách để phổ biến một ấn phẩm lúc nào cũng ăn khách mà không phải trả tác quyền. Nhưng ai có thể quảquyết là những ấn bản do chính quyền hay tư nhân tự ý in lại không có những sửa chữa hay thêm bớt theo ý riêng của họ?
Cũng cần nói thêm là VNSL đã được dịch và xuất bản tại Trung Hoa. Dịch giả là Ðái Khả Lai (Dai Kelai) dịch với tên Yuennan Tong Shi (Việt Nam Thông Sử, Bắc Kinh, Thương Vụ Ấn Thư Quán, 1992.) 

VNSL là một sử phẩm có giá trị về nhiều phương diện.

Trước hết là quan niệm viết sử của tác giả rất mới so với thời đại. Trước tác giả, viết sử là nhiệm vụ của sử thần. Thời bấy giờ có hai loại sử, là chính sử và dã sử. Chính sử là loại sử do sử quan biên soạn trong triều theo lệnh vua. Và dã sử là loại sử do tư nhân tự ý tu soạn nơi thôn dã. Lời Tựa của tác giả họ Trần chính là bản tuyên ngôn đổi mới về quan niệm viết sử. Ở nước ta, nhà Trần (1225-1400) là triều đại đầu tiên lập ra Quốc Sử Viện và Lê Văn Hưu là người hoàn tất quyển sử đầu tiên năm 1272 tức tác phẩm Ðại Việt Sử Ký. Truyền thống sử cung đình này kéo dài cho đến triều Nguyễn, cho đến khi một cá nhân họ Trần mạnh dạn từ bỏ hình thức sử nặng nề tẻ nhạt và giới hạn trong tầng lớp thượng lưu ấy để mở ra thứ sử của đại chúng nhằm hun đúc tinh thần, nguyên văn của tác giả, “yêu nước yêu nhà... để biết cố gắng học hành, hết sức làm lụng, vun đắp thêm vào cái nền xã hội mà tiên tổ đã xây nên mà để lại cho mình... cho khỏi tủi quốc hồn” Trần Trọng Kim đã từ bỏ cách ghi chép biến cố suông để thêm phần giải thích biến cố và sự liên hệ chng bó của biến cố này với những biến cố khác. Nói tắt lại, và quan trọng nhất, là tác giả họ Trần từ bỏ truyền thống viết sử cung đình từ mấy trăm năm để viết sử dân tộc và sử văn minh.

Ði  vào việc thực hiện, VNSL có lối văn cô đọng, gọn gàng, và sáng sủa dễ hiểu trong xã hội mà Việt ngữ còn đang trên đường phát triển với lối văn biền ngẫu và chữ dùng còn nặng nề tối tăm khó hiểu. Trong VNSL, câu văn thường rất ngắn, nối kết bằng nhiều dấu phẩy mà mỗi đoạn là một sự kiện hay một biến cố. Ðiều này góp phần giải thích sự quảng bá rộng rãi của VNSL trong công chúng.

Thứ ba, nội dung VNSL cô đọng mà chuyển tải những nét chính trong suốt dòng lịch sử mấy ngàn năm của dân Việt. Ðồng thời lại có những sự kiện mà tác giả không lược khảo. Như vụ án Lê Văn Duyệt thời Minh Mạng chẳng hạn, chiếm tới bẩy (7) trang để độc giả tinh tường về sự căm ghét Lê Văn Duyệt của Minh Mạng (vốn Lê Văn Duyệt không ủng hộ việc Minh Mạng nối ngôi Gia Long) và sự hùa nhập hèn hạ của bọn đình thần. Nhưng chuyện Lê Văn Duyệt bị tội chẳng qua cũng là  quả báo. Vốn ghét Nguyễn Văn Thành, nên thời Gia Long Lê Văn Duyệt đã hại chết gia tộc vị đại quan này chỉ vì hai câu thơ ngông cuồng của một thanh niên vốn là con của Nguyễn Văn Thành, tức vụ án Nguyễn Văn Thành, cũng đầy chi tiết trong 2 trang sách.
Ðó chính là chuyện vượt khuôn mẫu của một người làm chủ ngòi bút.

Thứ tư, Trần Trọng Kim chép sự kiện q khứ đồng thời không ngại đưa ra những nhận định nghiêm chỉnh và có trách nhiệm của sử gia. Ðiển hình nhất là phần nhận định về tính chính thống của triều đại Tây Sơn, Trần Trọng Kim viết, nguyên văn nơi trang 369 (sđd, Tân Vit xb, 1951): “Vậy lấy lẽ tôn bản triều mà xét thì nhà Nguyễn Tây Sơn là Ngụy, mà lấy công lý mà suy thì vua Quang Trung Nguyễn Huệ là một ông vua cùng đứng ngang vai với vua Ðinh Tiên Hoàng vua Lê Thái Tổ, mà nhà Nguyễn Tây Sơn cũng là một nhà chính thống như nhà Ðinh và nhà Lê vậy.” Ðộc giả ngày nay chỉ thấy sự bình thường trong nhận xét của họ Trần, nhưng nếu trở về đầu thế kỷ XX khi nhà Nguyễn còn tồn tại mấy đời vua nữa, ta mới cảm khái sự ngay thẳng và lòng can đảm của người viết sử. Hay nhận xét về thảm hình của những người theo Lê Văn Khôi, nguyên văn nơi trang 447 (sđd, tr. 447) dưới triều Minh Mạng: “Thiết tưởng dẫu thế nào mặc lòng, đem một đứa trẻ con vô tội và hai người ngoại quốc ra làm cái tội thảm hình ấy (tức tội lăng trì, TAT chú) thì thật ghê gớm quá. Tục Á đông trước hay dùng những nhục hình như là tội lăng trì, tội ngựa xé, tội voi dày v.v. thì thật dã man vô cùng, ngày nay ai nghĩ đến cũng phải ghê mình.” Nhận định Minh Mạng “xử án dã man” đưa ra vào đầu thế kỷ XX, khi triều đình Huế còn đầy đủ văn võ bá quan, khi tổng đốc tuần vũ còn hét ra lửa, thì người viết thật can đảm, nếu không nói là oai dũng!

Thứ nữa, danh sách sách tham khảo của tác giả không nhiều, nhưng tác giả đã không bỏ qua một bộ chính sử quan trọng nào còn tồn tại cho đến thời điểm ấy mà không tham khảo.

Trong giai đoạn đất nước bị chia hai 1954-75 thì nửa phần phía Bắc, tức Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đã liệt Việt Nam Sử Lược là một bộ sách của “kẻ thù.” Trần Huy Liệu, lúc ấy là Trưởng Ban Nghiên Cứu Lịch Sử, Ðịa Lý, Văn Học trực thuộc Ban Bí Thư Trung Ương Ðảng Cộng Sản Việt Nam kiêm Chủ Nhiệm Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử đã viết một bài tựa đề “Bóc trần quan điểm thực dân, phong kiến Trọng Kim” đăng trong Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 4, năm 1955 hết lời thóa mạ tác giả và kết án tác phẩm.

Mãi đến thập niên đầu của thế kỷ XXI này, giới viết sử trong nước mới được phép đảo ngược nhận định của Ðảng Cộng Sản Việt Nam, để lên tiếng ca tụng công trình của họ Trần, và đến phiên họ, họ cho tái bản Việt Nam Sử Lược nhiều lần để phổ biến trong dân chúng.

Ðộc giả cần cẩn thận về những ấn bản này, vì theo chính sách văn hóa của chính quyền Cộng Sản, họ tự cho mình quyền sửa đổi hay thêm bớt nội dung của bất cứ một quyển sách nào mà họ in ấn để phù hợp với lợi ích chính trị của họ. Ðiển hình trong việc sửa đổi và cắt bỏ nội dung khi họ in lại sách của các tác giả tại hải ngoại và gốc VNCH là các sách Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của Ðỗ Mậu và Khi Ðồng Minh Tháo Chạy của Nguyễn Tiến Hưng.

Cách nay cả thế kỷ, Trần Trọng Kim đã hoàn tất một bộ thông sử tồn tại được qua thời gian vì cách viết đúng đắn của cụ. Ðúng đắn hiểu theo nghĩa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu những nét tổng quát của lịch sử dân tộc và những chi tiết căn bản trong dòng sử của người Việt, mặc dù cụ không tốt nghiệp ở một trường đại học sư phạm nào, hay được cấp phát một văn bằng Tiến Sĩ nào tại các nước Âu Mỹ, thậm chí cũng chưa tốt nghiệp trung học phổ thông. Ðiều ngạc nhiên là những thế hệ con cháu, sau cụ cả thế kỷ, với vốn liếng bằng cấp từ những đại học Pháp, Anh, hay Mỹ, lại thiếu sót hơn cụ khi tiếp nối công việc thông sử.

Thật ra, Việt Nam Sử Lược đã đóng xong vai trò của nó trong việc giáo dục lịch sử dân tộc cho con dân nước Việt trong suốt một thế kỷ, thế kỷ XX. Tác dụng này củaViệt Nam Sử Lược hẳn đã q sự mong ước của tác giả Trần Trọng Kim, nhưng thật xứng đáng.

Người Việt ngày nay cần một bộ thông sử mới, để tiếp dòng sử Việt mà Việt Nam Sử Lược, vốn phát hành năm 1919 và chấm dứt nội dung vào năm 1902, khi Beau sang thay Doumer làm Toàn Quyền Ðông Dương. Một bộ thông sử mới cũng cần để đổi mới cách viết sao cho hợp với trào lưu hiện tại, tránh những khuyết điểm mà tác giả của Việt Nam Sử Lược đã có, đương nhiên vì sách được viết cách nay đã một thế kỷ.

TRẦN ANH TUẤN
Trong Sử Việt Tại Bắc Mỹ (1975-2015) sắp xuất bản.