Một- Cách đây 50 năm, tại Nghĩa Trang Quân Đội
Gò Vấp, Gia Định những buổi chiều mưa dầm Tháng 6 miền Nam, anh xoay xở quay quắt
giữa những thây chết của những người lính thuộc đơn vị đầu đời, Tiểu Đoàn 7 Nhẩy
Dù, Tiểu Đoàn 52 Biệt Động, Tiểu Đoàn 2/7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh.. Những người chết
của chiến trận Đồng Xoài, Bình Dương nổ ra từ những ngày đầu Tháng 6. Đối với một
gã lính vừa qua tuổi 20 năm ấy, sự mất mát của hàng trăm chiến hữu chỉ được đưa
về sau nhiều ngày kể từ khi tử trận quả là một sự đau thương quá lớn.. Thân thể
người chết căng cứng, xanh đen, tím thẩm, dòi bọ lúc nhúc bò theo những vết
thương sũng máu. Khoảng đất nghĩa trang đặc sánh bởi máu, thịt, con người chảy
vữa, sênh sếch.. Trong đó có máu, thịt của
bạn anh, Thiếu Úy Trần Trí Dũng, gã học sinh đã cho bạn cùng lớp và toàn Trường
Phan Châu Trinh Đà Nẵng niềm hãnh diện.. Vô địch bóng bàn học sinh, thủ quân đội
bóng rỗ, cũng là trung phong hàng đầu của hội tuyển bóng tròn trường trung học
đá hay nhất miền Trung. Nhưng giờ đây, tất cả dạng hình tươi trẻ sống động của
Dũng với lúm đồng tiền trên má không còn nữa.. Kéo fermeture bao đựng xác – Bạn
anh, người bạn ấu thơ của Đà Nẵng hơn mươi năm trước bấy giờ chỉ là một thây
xác sùi sụp nước nhờn tím thẩm hôi hám. Có chăng được phần an ùi. xác Dũng còn
nguyên dạng hình chưa bị vữa nát. Buổi đá banh năm xưa ở Sân Vận Động Chi Lăng
làm sao tưởng ra tình cảnh nầy Dũng ơi?!
Hai- Từ trên trực thăng ở Quảng Trị đổ về Huế
trong ngày Mồng Bốn Tết Âm Lịch anh đã thấy ra một Thành Phố Huế chết lặng. Người
Huế chết khi ẩn núp sau những gốc cây bị pháo, hỏa tiễn cộng sản bắn lật ngược,
cạnh hàng hàng rào chè cháy xém; trên lề đường với mỗi viên gạch đồng bị vỡ vụn, nơi sân nhà trước chiếc bàn thờ xiêu đổ.. Người
chết đang qùy lạy ông bà, với áo mới thấm máu, xé rách, con trẻ còn cầm trong
tay bao đỏ tiền lì xì đầu năm.. Tuy nhiên cảnh chết của Huế không chỉ xẩy ra
trong khu Thành Nội, trên đường Mai Thúc Loan, Đinh Bộ Lĩnh, khu sân bay Tây Lộc,
ở những cửa thành Thượng Tứ, Đông Ba.. Chết ở Huế trùm khắp, mọi chốn, tại mỗi
phân đất tại vùng Bãi Dâu, bên cạnh Sông Hương, nơi sân Trường Gia Hội, Chùa Áo
Vàng.. Và sau ngày quân cộng hòa chiếm lại Kỳ Đài, đám cán binh cộng sản gồm du
kích, nội thành, và bộ đội miền Bắc bị đánh bật ra khỏi khu cố thủ Gia Hội,
trên đường rút lui mang theo những tù nhân vốn chỉ là con trẻ vị thành niên,
người già, phụ nữ.. Nhưng đối tượng làm con tin cho lần tháo chạy. thế nên cuối
cùng, thì cảnh chết, sự chết đã hiện thực, vượt khỏi sự tưởng tượng của bất cứ
ai còn có Nhân Tính – Bởi người Huế đã tiếp bị thảm sát do những kẻ cùng chung
khu phố, chung xóm nhà cư ngụ. Không sót một người. Không trật một người. Người
Huế bị giết do một Sự Ác được ngụy danh là “giải phóng”, để thỏa mãn mặc cảm vô
dụng, hèn kém của những kẻ gọi là “trí thức cách mạng”, điễn hình đặc chất Huế
như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Pham, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn thị Đoan
Trinh, Tôn Thất Dương Kỵ.. Người Huế chết chật hết những bụi lùm ở Khe Đá Mài
vùng núi Ngũ Tây; sùm sụp bước chân của đoàn người tìm kiếm trong những ngày hè
cùng năm năm 1968. Hơi thây chết bốc lên theo nắng đầu hè miền Trung ong óng
như hờn oan. Nhưng hởi ôi! Chết ở Huế cũng chưa đủ cho cuộc đau thương của người
Việt. Người Việt miền Trung chiếm đầu bảng đầu oán hận. Không phải đợi dài lâu.
Ba- Anh
đang ở trên cây số 9 từ Quảng Trị kể đến, vùng thôn Mai Đẳng, xã Hải
Lăng..Không thể dùng một chữ, một tĩnh từ, không thể nói, khóc, la, trước cảnh
tượng trước mặt, chỉ có thể im lặng, chỉ có thể nghiến răng, bặm môi, dù răng vỡ,
môi chảy máu tươi, tay luống cuống, mắt mờ nhạt, mũi phập phồng.Không có thể biết
gì về thân thể đang mở ra trước sự tàn khốc trước mặt.Trời ơi ! Hình như có tiếng
kêu mơ hồ dội ngược ở trong lồng ngực, trong cổ họng, nơi óc não, hay chỉ là ảo
giác của con người mất hết khả năng kiểm soát.Kiểm soát làm sao được nhịp đập của
quả tim, không ai ngăn cản cơn chớp liên hồi của đôi mắt, tay nổi da gà, những
sợi gân ở thái dương phồng lên đập xuống – Máu chảy ngúc ngắc trăn trở lăn lóc
khô khan khó nhọc trong những gân căng đến độ chót ... Cũng không phải như thế
- Anh không biết, hoàn toàn không biết được gì của xác thân. Anh không còn là
người đang sống, vì sống là sống cùng với người sống, chia xẻ vui buồn, đau đớn
lo âu với người sống. Chung quanh anh trước mặt chỉ còn một hiện tượng, một
không khí - Chết. Phải, chỉ có Sự Chết bao trùm vây cứng. Chỉ có nỗi chết đang
tầng tầng phủ chặt kín không gian. Cho dù rằng,
Tháng 4, 5, 1972 ở An Lộc với những ngôi mộ vô danh, mộ tập thể, những
cái chết câm lặng đến độ chót của đau đớn kinh hoàng, người cha trầm tĩnh đi
tìm từng cái chân, cánh tay của năm đứa con vừa bị tan thây vì quả đạn đại
pháo, nhưng lại còn được một nấc chót - Bên cạnh người chết vẫn còn người đang
sống - Ở An Lộc, anh thấy được loại người cuối đáy đau thương đó. An Lộc lại
quá nhỏ, chỉ hơn một cây số vuông, cái chết cô đặc lại, ngập cứng vào người
nhanh và gọn như nhát dao ngọt.Cái đau đến chớp mắt, người chưa kịp chuẩn bị
thì đã ngập hẳn vào trong!
Nhưng ở đây, thôn Giáp Hậu, Mai Đẳng, Hải Lâm của Quảng
Trị thì khác hơn An Lộc một bậc, hơn trên một tầng, tầng cao ngất chót vót, dài
hơn An Lộc một chặng, dài hun hút mênh mông.sự chết trên 9 cây số đường này là
9 cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá, chết
vương vãi từng mảnh thịt, chết từng cụm xương sống, đốt xương sườn, chết lăn
lóc đầu lâu, chết rã rời từng bàn tay cong cong đen đúa ... Anh đi theo chiếc
xe công binh ủi một đường dài, những xác chết, không, phải nói những bó xương bị
dồn cùng áo quần, vật dụng, chạm vào nhau nghe lóc cóc, xào xạc, “đống rác” người
ùn ùn chuyển dịch, một chất nhờn đen đen ươn ướt lấp lánh trên mặt nhựa - nhựa
thịt người !!Trời nắng, đồng trắng, con đường im lìm, động cơ chiếc xe ủi đất -
phải gọi xe ủi người mới đúng - vang đều đều, hơi nắng bốc lên từng đường trên
mặt nhựa, hơi nặng mùi ... Vạn vật chết trong lòng ánh sáng. Ánh sáng có mùi của
Sự Chết. Nếu cảnh chết tập thể của người Do Thái ở các trại tập trung gây nên
niềm bàng hoàng xúc động, vì thế giới chứng kiến, thấy ra được những “xác người,”
chồng chồng lớp lớp. Chín cây số đường chết của Quảng Trị không còn được quyền
dùng danh từ “xác chết” nữa, vì đây chết tan nát, chết tung tóe, chết vỡ bùng
... Chết trân tất cả mọi cái chết.Không còn được “người chết” trên đoạn đường
kinh khiếp đến tột độ của chốn quê hương thê thảm đọa đày.
Anh ra khỏi 9 cây số đường kinh hoàng đến La Vang Thượng,
xuống đi bộ vào La Vang chính tòa, nơi Tiểu Đoàn 11 Dù đang chiếm giữ. Hai cây
số đường đất giữa ruộng lúa xanh cỏ, anh đi như người sống sót độc nhất sau trận
bão lửa đã thiêu hủy hết loài người.Đường vắng, trời ủ giông, đất dưới chân mềm
mềm theo mỗi bước đi, gió mát và không khí thênh thang. Anh ngồi xuống vệ đường
bỏ tay xuống ao nước kỳ cọ từng ngón một. Anh
muốn tẩy một phần sự chết bao quanh ? Có cảm giác lạ : Anh vừa phạm tội.
Tội được sống.
Bốn – Nhưng cuối cùng..Hóa ra, Khổ Đau/Sự Chết nơi chiến trận Đồng Xoài
1965 chỉ là khúc dạo đầu phần bi thảm với những người lính tử trận. Cuộc tàn
sát Mậu Thân, 1968 cũng trong giới hạn của ngàn người dân Thành Phố Huế bị đập
đầu, chôn sống. Và cho dẫu ngọn lửa Mùa Hè 1972 gớm ghê khốc liệt bao nhiêu cũng
chỉ bùng cháy, tiêu hủy các thị xã An Lộc, Kontum, Quảng Trị.. Hóa ra Địa Ngục
Miền Nam không chỉ chứng ấy. Hóa ra khổ đau Miền Nam không chỉ với vài ngàn,
vài chục ngàn người chết, những thị xã bị tiêu hủy.. Tai ương Việt Nam/Thảm Họa
Miền Nam thăm thẳm vô bờ với mùa xuân uất
hận không thể nào quên. dẫu hôm nay 40 năm sau 1975. Chúng ta hãy nhìn lại đoạn
đường máu thẩm của một Dân tộc đọa đày trên quê nhà điêu linh.. Đầu xuân năm
1975, vào buổi Tháng Ba, thêm một lần
người Miền Nam tự hỏi: Cộng sản sắp đánh ở đâu? Khi nào sẽ đổ ra thêm một trận
máu xương với lực lượng cộng sản miền Bắc nhất quyết thực hiện bước cuối cùng
cái gọi là sự nghiệp “giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”. Sự nghiệp cách
mạng mà 40 năm sau 1975 bày ra tình cảnh nguy nan vô hạn với hiễm họa mất nước về
người Hoa, và xã hội Việt Nam chìm ngập xuống vực thẵm băng hoại, suy vong.
Vào Tháng Ba năm 1975, lãnh thổ miền Nam đã bị mất một
phần thuộc phía bắc sông Thạch Hãn, Quảng Trị của quân Khu I; ở Quân Khu II mất
phần đất nằm về mặt bắc và tây của vùng Trường Sơn; Và quanh Sài Gòn một vùng rộng
lớn của miền Đông Nam Bộ từ thượng lưu sông Đồng Nai qua Phước Long, Bình Long,
Tây Ninh về Long An, Hậu Nghĩa, xuống Kiến Tường, Định Tường thuộc châu thổ
sông Cửu Long. Trong tình hình chung như vừa kể, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú Tư lệnh
Quân Đoàn II đóng ở Pleiku lúc ấy không thể quyết đoán cụ thể về kế hoạch quân cộng
sản sẽ đánh ở đâu trong vùng Quân Khu II. Trong khi ấy, cộng sản Hà Nội lập kế
hoạch, bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975
mang mật danh là Chiến Dịch 275. Cuộc tiến công xử dụng các đơn vị cấp sư đoàn
bộ binh Bắc Việt có chiến xa, đại bác nặng yểm trợ khởi cuộc nổ súng từ ngày
ngày 10 Tháng 3 năm 1975 với mục tiêu là Ban Mê Thuộc, thành phố cực Nam của
vùng cao nguyên. Bộ chính trị, quân ủy trung ương tại Hà Nội đã điều động thực
hiện cuộc tấn công miền Nam với hai lợi điểm mà thật sự là hai ưu thế quyết định.
Đấy là sự bất ngờ về tình báo thêm được bảo đảm bằng cái ô chính trị tuyệt đối
an toàn tức là biết chắc Mỹ sẽ không bao giờ can thiệp lại vào Việt Nam. Cụ thể
Hạm Đội Mỹ quay mặt trước lần hải quân Trung cộng đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH,
tháng 1, năm 1974.
Trong cuộc họp mật của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng
vào tháng 1 năm 1975 trước khi phát lệnh tấn công miền Nam theo kế hoạch Chiến
Dịch 275, Ông Phạm Văn Đồng, thủ tướng
chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa một bên ký kết Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình tại
Việt Nam đã hân hoan tuyên bố: “Cho kẹo Mỹ
cũng không dám trở lại Việt Nam!"
Ngày 10 Tháng 3 năm 1975, quân đoàn Tây Nguyên dưới
quyền tổng chỉ huy của Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đến từ Hà Nội đồng loạt
tấn công vào thị xã Ban Mê Thuộc với những sư đoàn 324, 324B, 320, 308, 316 và
cả sư 341 tổng trừ bị của quân đội miền Bắc. Nhưng khi quân dân Ban Mê Thuộc
đang trên bờ vực sống-chết thì báo chí thế giới, báo cộng sản ở Hà Nội, báo phản
chiến ở Sàigòn đều đồng thanh phát biểu: "Cách mạng giải phóng miền Nam là
do mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng và giai cấp phản cách mạng; giữa nhân dân
tiến bộ và thành phần ngụy quân, ngụy quyền phản động; giữa lực lượng vũ trang
cách mạng và tập đoàn quân phiệt, phát xít công cụ của chủ nghĩa thực dân mới
kiểu Mỹ..."
Với sư đoàn F10 làm mũi nhọn được hai sư đoàn 320, 316
tăng cường, và sư 341 làm tổng trừ bị, lực lượng cộng sản có khoảng 25,000 người
được pháo binh, chiến xa nặng yểm trợ phối hợp. Đối lại tại thị xã Ban Mê Thuộc
phía VNCH chỉ có khoản 1,200 lính chiến đấu trong tổng số lính hậu cứ của Sư
Đoàn 23 Bộ Binh, lực lượng Địa phương quân Tiểu khu Đắc-lắc, và Liên đoàn 22 Biệt
động quân. Thế nên từ hai giờ sáng ngày 10 tháng Ba, giờ mở lệnh tấn công mà tướng
Dũng ước tính chiến trận Ban Mê Thuộc sẽ chấm dứt sau một tuần nhưng chỉ đến 5
giờ 30 chiều cùng ngày, thị xã Ban Mê Thuộc hầu như thuộc về phần kiểm soát của
quân Bắc Việt cho dù Biệt Động Quân và bộ binh vẫn tiếp tục chiến đấu. Dũng cứ
tưởng như là giấc mơ. Và Dũng đã đi từ giấc mơ sang một vùng ảo giác vào những
ngày sau khi được báo cáo: Quân đoàn II tháo chạy!
Cuộc di tản dọc Tỉnh Lộ 7 theo lộ trình Pleiku-Phú Bổn xuống Tuy Hòa quá lớn
với mối đau thương dài đặt trên hai trăm
cây số đường núi với hai trăm ngàn dân thường đi từ hai thành phố Kontum,
Pleiku. Phải, chỉ là dân thường những người nghèo không đủ tiền mua vé máy bay
vào những tuần, tháng trước. Trời cao nguyên buổi tàn xuân gây gây rét vào
sáng, càng về trưa nắng cao và nóng khô khan, đường bụi mù tung đỏ bám vào
thành xe, nòng pháo, khí cụ, tóc và da mặt ngưi, vạn tròng mắt đỏ rực. Những
tròng mắt mệt mỏi lo âu, tuyệt vọng. Phía sau lưng, thị xã Pleiku bốc lửa ngọn,
khói đen đặc ngật ngật bay lên cao hơn đỉnh núi Hàm Rồng. Lửa lóng lánh ánh
sáng kinh dị trong đôi ngươi những người lính Liên Đoàn 7 Biệt động quân, thành
phần hậu vệ đoàn di tản. Trời cao nguyên với thị trấn Pleiku thường chĩu lặng
sương mù nay oằn thân vật vã trong màu lửa địa ngục. Lửa từ khối đống kim loại
vũ khí, từ những kho quân nhu, quân cụ soi loang loáng chập chờn những đường dốc
hun hút lẫn khuất dưới tàng thông. Tất cả đồng nhóm lên màu đỏ chói. Màu đỏ của
máu lửa soi chập chờn đoàn người di tản thê thiết. Đoàn di tản qua được một
ngày bình an. Bình an sống sót qua đói, khát, nhục nhằn và lo âu. Lính gục trên
mũi súng, đàn bà, con trẻ nằm rũ lên hành lý, thành xe, đất cát. Được sống, được
ngủ là hạnh phúc quá lớn hở trời? Còn biết kêu vào đâu? Với ai? Nhưng nỗi bình
an này không kéo dài được, bởi người cộng sản chỉ trong ngày 16 tháng Ba đã tìm
ra đáp số cho câu hỏi: Quân đoàn II đang tính gì sau chấn thương ngày 10 tháng
Ba tại điểm bất ngờ Ban Mê Thuộc? Qua máy dò tìm làn sóng điện, Bộ Tư Lệnh Mặt
trận B3 cộng sản khám phá những phi cơ C47, C130 xuất phát từ phi trường Cù
Hanh (Pleiku) đi Nha Trang không có lượt bay về. Sự kiện nầy đã trút mối âu lo
của Tướng Dũng về việc lực lượng VNCH có thể điều quân tái chiếm Ban Mê Thuộc.
Thế nên Dũng ra lệnh cho Sư Đoàn 320 băng rừng truy kích đoàn di tản và Sư Đoàn
968 từ Lào về trên đường bôn tập về hướng Pleiku cũng được lệnh đâm ngang từ
ngã ba Thanh An chuyển hướng hành quân dài theo Tỉnh Lộ 7 xuống đồng bằng vùng
duyên hải miền Trung.
Ngày 16 tháng Ba, Một Chúa Nhật điêu linh tan nát dọc
con đường đỏ sẫm đất núi và máu rây. Đoàn di tản bị chận ở phía đông Củng Sơn,
bị cắt rời ở quận Phú Túc, bị đuổi dập từ tây quận lỵ Phú Bổn. Xe tăng cán
ngang lên GMC, xe GMC hất xe đò chở thường dân xuống vực thẳm, cũng hất luôn những
xe jeep nhỏ, cán qua những chiếc xe Dodge 4 của địa phương quân chở những người
già và trẻ em tan tác. Chiếc vespa của một gia đình chạy lông lốc, xiêu vẹo
trên sườn đồi, đứa con, người vợ rơi tơi tả, người chồng, người cha rơi cuối
cùng với chiếc xe vỡ toang trên mỏm đá. Và súng nổ... 105, 155 pháo binh, hỏa
tiễn TOW, XM72 của phía cộng hòa; 130 ly, 122 ly, B40, B41 của phía cộng sản tất
cả cùng hòa vào nhau thành một luồng hỗn âm tan tác làm rung rinh sắc núi mờ
nhòa ánh nắng. Mặt trời bị chìm khuất
trong khói xám. Có xác bà già ngồi dựa bờ đất bên lề đường, người khô quắt
không vết thương. Dấu hiệu sự chết chỉ được nhận biết nơi ổ mắt, mũi, miệng...
Đám kiến rừng bò lúc nhúc quay quắt đánh hơi. Ba đứa trẻ mắt lạc thần ngồi nhìn
đoạn đường hỗn loạn không cảm giác. Bé trai nhỏ nhất gục đầu trên gối chị ngủ
lay lắt.
Bao trùm tiếng la khóc khản đặc của người có âm thanh
của đạn súng sơn pháo nổ thật gần. Sư đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng xuống đoàn
di tản. Lính còn rõ phản ứng trú ẩn, chống cự, người dân chỉ biết đưa mắt nhìn
lên nơi đặt súng, nơi có những tiếng nổ khô, ngắn trước khi bị bùng vỡ phá
toang. Xác người tung lên theo đất bay bay.Cái chết không đơn giản, mau chóng bởi
súng đạn. Chết còn bị nhận chìm từ từ trong lòng chiến xa khi chiếc xe tăng
chúc đầu xuống đầu cầu nổi bắc qua sông Ba.
Chiếc cầu bắc vội mỏng manh không th nào chứa nỗi sức nặng vạn con người,
vạn chiếc xe.. Chiếc tăng M48 như khối đá ấn mạnh xuống lòng chén nứt vỡ. Trong
lòng xe có tiếng người hét nghẹn, trên pháo tháp có đám người ngoi ngóp, người
đạp lên đầu, lưng, vai người để được thở được sống thêm vài giây ngắn. Chiếc xe
chìm xuống im lặng, kéo theo, mang theo, đè xuống rất nhiều thây xác. Xích sắt
điên cuồng đào xoáy giòng sông máu sẫm làm quẫy lên, tung tóe những tay chân
người kẹp dính đâu dưới lưn xe.
Cuối cùng đoàn di tản cũng về đến Tuy Hòa vào ngày 25
tháng Ba do Tiểu Đoàn 58 Biệt Động dẫn đầu. Hai-trăm ngàn dân theo lính chạy loạn
từ Kontum, Pleiku nay còn khoảng sáu chục ngàn người. 200,000 trừ đi 60,000 vậy
đã chết bao nhiêu? Không ai có thể tính chính xác được số dân thiệt mạng. Người
chỉ biết và đau với trường hợp của từng người thân, của mỗi gia đình, của chính
thịt da mình. Trên chiếc trực thăng từ phi trường Đông Tác (Tuy Hòa) về Nha
Trang, viên thiếu tá ngồi ôm đứa con nhỏ, gục đầu nín thinh khi đứa bé chợt nhớ
và hỏi nhỏ... Bà nội đâu hở ba? Trong đêm khuya nơi trại tạm cư ở đèo Rù Rì,
nghe những lời than vãn rời rạc lẫn tiếng khóc nấc nghẹn ghìm ghìm. Trên bãi biển
Nha Trang từng khối người ngồi chập choạng dưới trăng khuya. Trăng vàng chạch,
đỏ nhừ nhừ như máu bầm. Trong lòng người di tản từ cao nguyên đồng bằng trong
tháng Ba năm 1975 hầu như ai cũng đọng khối máu uất nghẹn đau thương. Khối máu
oan hờn của một dân tộc điêu linh chỉ khác người dân miền Trung chịu sớm nhất.
Đau nhất.
Mùa Chúa chịu nạn giải cứu thế gian diễn ra cùng lần bức
tử miền Trung. Khởi đầu buổi Đồng Tế tàn cuộc miền Nam. Bắt đầu từ Ngày 10 Tháng
Ba ở Ban Mê Thuộc, dọc TỈnh Lộ 7 B, con lộ máu dẫn về miền duyên hải. Hóa ra
không cần đủ hết tháng Ba, để tiếp theo tháng Tư thấm máu toàn miền Nam sụp vỡ. Thế nên, người
hôm nay phải viết lại, phải nói lên – Vì nếu không sẽ có tội – Tội với những
người đã chết mà lượng người chết trên Tỉnh Lộ 7 B là oan khiên đồng hiến tế khởi
đầu lần tận diệt Quê Hương. Của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
Bốn Mươi Năm Trận Ban Mê Thuộc
Lần Khởi Cuộc Mất Quê Hương
(10 Tháng 3, 1975-2015)