THƯ GỬI BẠN TA của Bùi Bảo Trúc
Các bài viết hàng tuần của Nhà Báo Bùi Bảo Trúc trong mục Thư Gửi Bạn Ta
LẠI
KHỐN KHỔ CHO THƠ LỤC BÁT
Ông Cao Bá Quát khổ cho đến lúc bị tru
di tam tộc về tội đi theo giặc châu chấu. Ông bị xử trảm nhưng chết mà vẫn ấm ức.
Nỗi ấm ức ấy ông mang xuống tận tuyền đài. Ông ấm ức về những khổ đau ông phải
chịu cho cái mũi vô duyên của ông. Ông chết mà cái mũi vẫn còn vô duyên. Tuy thế,
nếu ông có còn sống thì cũng chưa có cách nào chữa được cái mũi cho nó đỡ vô
duyên hộ ông.
Ngày nay, chuyện sửa mũi là chuyện quá
thường. Người Đại Hàn ở dưới vĩ tuyến 38 không còn ai có mũi thật nữa. Từ tổng
thống Phác Cận Huệ cho tới mấy anh chị nông
dân Hàn quốc, ai cũng sửa mũi, one size
fits all, nam nữ dùng chung như những
cái mũi người ta gặp mỗi ngày ở Little Saigon California vậy. Mũi ai cũng cao,
thanh tú cả. Mũi kiểu gì sửa cũng được hết. Nhưng mũi vô duyên thì chưa sửa được.
Cao Bá Quát mà còn ở với chúng ta chắc chắn sẽ chết vì cái mũi vô duyên ấy chứ
chẳng cần tới đường đao của đao phủ thủ.
Ngán
thay cái mũi vô duyênCâu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An
(Cao Bá Quát)
Họ Cao phải bịt mũi mỗi khi bị cho nghe
thơ của thi xã (một thứ thi văn đoàn) do các ông Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương
cầm đầu, và đưa ra câu ví von đặt cạnh thơ của các ông bên cạnh con thuyền chở
nước mắm của Nghệ An. Cao Bá Quát bị mấy nhà thơ trong triều ghét cay ghét đắng
cũng vì thế. Bây giờ những cái mũi vô duyên vẫn chưa một phòng thẩm mỹ nào sửa
được và vì thế những cái mũi vô duyên đó vẫn làm khổ biết bao nhiêu người.
Hôm qua (28 tháng 4 năm 2015) trên tờ báo điện tử Vietnamnet ở trong nước có một bài
báo viết về một thứ thối khắm không thua gì, hay cũng có thể còn khủng khiếp hơn là con
thuyền Nghệ An từng gây khốn khó cho cái mũi Cao Bá Quát tận tới lúc cuối đời.
Bài báo viết về một anh thiếu tướng tên là Lê Phi Long, người
được (chính anh) mô tả là một tướng tài cầm đầu một cánh quân bắt được mấy ông
tướng “Ngụy” mà anh đích thân khai thác
trước khi đưa ra Bắc. Rồi anh nói phét tiếp rằng đi đến đâu lính của anh ta cũng
được đón tiếp niềm nở, được tiếp tế xăng nhớt, thực phẩm, nhiều người dân còn
xin đi theo bộ đội nam tiến. Chắc anh quên không kể là dân chúng nhiều người đi
theo nhưng lạc đường đi tuốt sang Mỹ rồi ở luôn bên Mỹ thỉnh thoảng gửi tiền về
giúp nước chơi!
Bố khỉ! Nói phét thì cũng vừa vừa thôi,
còn cho những đỉnh cao phét chứ sao lại phét hết cỡ hết đường không cho ai phét
nữa hay sao?
Nói phét về chiến công hiển hách xong,
anh chưa hoàn toàn thỏa mãn. Anh muốn được biết tới là người văn võ song toàn mới
bằng lòng. Thế là anh rút ra một bài thơ anh nói là anh viết từ chiến trường gửi
về cho vợ anh ở quê nhà. Có thể anh thấy Hữu Loan có bài Mầu Tím Hoa Sim cả nước
ai cũng khen hay nên anh tức khí làm một bài thơ cũng cảnh đám cưới sơ sài không
cỗ bàn chỉ có trầu cau, nước trà xanh và thuốc lào, rồi cũng như Hữu Loan, anh
phải lên đường ra mặt trận vân vân. Nên
anh làm bài thơ có mấy câu lục bát sau đây để tặng vợ:
…
Nhớ vùng Việt Bắc xa XA
Nhớ em anh biết nơi NAO mà TÌM
Tìm em trong cảnh sương SA
Hay trong giấc mộng con CHIM én về…
Nguyên văn bài thơ cóc nhái này được đăng
trên tờ Vietnamnet trong chiều hướng làm khổ mấy cái mũi vô duyên chơi. Anh mải
mê nói phét đến nỗi không học được cách làm lục bát mà ngay cả những cô thợ cấy
những anh thợ cầy cũng từ dưới đồng vọng lên được bao nhiêu ca dao lục bát cho
dân tộc.
XA thì không thể vần với NAO. TÌM không
vần với SA. SA không bao giờ vần với CHIM
được.
May mà đã khuất bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân
Hương. Chứ như bà còn đâu đây thì thế nào bà lại chẳng mắng cho mấy câu:
Khéo
khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dậy làm thơ…
Nhưng đã chắc gì bà dậy được thứ dốt mà
lại phét lác như thế!