Thursday, 31 December 2015

ĐỌC BA TÁC PHẨM MỚI CỦA DUY HÂN - TRỊNH TÂY NINH - Đặng Hoàng Sơn.



Thật hân hạnh cho tôi, khi tôi là một trong số các thân hữu được Duy Hân ưu ái cho đọc trước ba tác phẩm mới dưới dạng PDF, trình bày rất đẹp và rất chuyên nghiệp.


1- "Nỗi Niềm Riêng Ta" là tuyển tập 197 bài thơ với bút hiệu Trịnh Tây Ninh. Mở đầu là bài thơ Buồn và kết thúc với bài Gánh Buồn. Trong đó tác giả dùng các thể thơ bình dị, thông thường như tứ ngôn, ngũ ngôn, thất ngôn, lục bát v.v... để dàn trải tâm tình và ưu tư nhìn lại chính mình sau chặng đường dài đấu tranh không ngưng nghỉ.

Thông thường nhưng không tầm thường.

Mặc dù dùng các thể thơ bình dị, thông thường để diễn đạt nội tâm nhưng thơ Trịnh Tây Ninh không hề rơi vào lối mòn, và điều này khiến người đọc thích thú. Đây cũng là một trong các yếu tố tạo nên sự thành công cho "Nỗi Niềm Riêng Ta" mà không ai có thể phủ nhận.

Một là có rất nhiều bài thơ trong "Nỗi Niềm Riêng Ta" được các nhạc sĩ nổi tiếng phổ thành ca khúc, đến hơn 60 bài.

Hai là tác giả đã hai lần đoạt giải thơ. Lần thứ nhất năm 1981 do báo Tự Do tại trại tỵ nạn Galang trao. Và lần mới đây, bài thơ số 16 "Ngũ Ngôn Cho Mẹ" được Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt California trao giải năm 2013.

Thơ ngắn dễ gây cảm xúc.

Và các bài thơ ngắn rất dễ gây cảm xúc, khiến người đọc thuộc lòng một cách tự nhiên.
Xuân về
Xuân về sao vẫn lạnh căm,
Nỗi buồn nhức nhối, đứng nằm vẫn đau.
Vô Thường
Thế gian mê đắm bụi trần,
Lòng ta vẫn mãi một bông vô thường.
Cà Phê
Cà phê rơi tí tách,
Như giọt lệ trong hồn.
Giọt trong và giọt đục,
Như sầu mãi tràn tuôn.
Vô Đề
Ngắt một nụ hồng,
Tặng người tôi yêu.
Gió chiều lồng lộng,
Hương trầm hắt hiu.
Thư họa.

Xen kẽ với những bài thơ layout dưới dạng text, còn có nhiều bài thơ được trình bày như những bức tranh - thư họa - với kiểu chữ dành riêng cho thư pháp khiến người đọc khó thể rời mắt trước khi đọc đến trang cuối.

2- "Những Viên Sỏi Nhỏ" là tuyển tập dài 187 trang, gồm 20 bài viết, có thể xem là tâm niệm và hoài bão của Nguyễn Ngọc Duy Hân trên con đường đấu tranh chống độc tài cộng sản. 
"Tát cạn biển Đông."

Có thể còn một số ít người chưa biết "Duy Hân" là tên ghép của Nguyễn Ngọc Duy và phu nhân Trịnh Ngọc Hân, tức Trịnh Tây Ninh. Cả hai là một đôi vợ chồng tương đắc, sẵn sàng "tát cạn biển Đông," đã đồng hành trên suốt quảng đường dài hơn ba mươi năm và cùng chia xẻ gánh nặng đau thương của quê hương dâu bể.

Tôi cư ngụ cùng thành phố Toronto với Duy Hân, cùng dự lễ Chào Cờ VNCH và Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4 hàng năm. Rất nhiều lần chúng tôi gặp nhau trong các sinh hoạt cộng đồng và các buổi tiệc gây quỹ, trong đó có tiệc gây quỹ của Uỷ Ban Yểm Trợ Phong Trào Dân Chủ Quốc Nội mà vợ chồng cô là thành viên.

Chúng tôi cũng đi nhiều nơi với đồng hương để biểu tình chống Tàu Cộng xâm chiếm biển Đông, phản đối Việt Cộng đàn áp nhân quyền, vi phạm tự do tôn giáo, bán nước cho Tàu... Chúng tôi còn đi sang thủ đô Hoa Kỳ, vào Quốc Hội để vận động nhân quyền, tự do tôn giáo cho đồng bào ruột thịt ở quê nhà và sự toàn vẹn lãnh thổ của đất mẹ Việt Nam yêu dấu.

Xin trích một đoạn ngắn trong bài viết tạm gọi là tiêu biểu, "Những Viên Sỏi Nhỏ Trên Con Đường Lớn" cho thấy lòng nhiệt thành và sự kiên tâm, bền chí của Duy Hân trên con đường đã chọn:
"... Tôi thật lòng cảm kích những bác lớn tuổi không quản ngại đường xa, sức khỏe yếu kém, luôn có mặt và đóng góp cho việc chung. Tôi ngưỡng mộ những anh chị đấu tranh không mệt mỏi để ủng hộ cho các phong trào Dân chủ tại Việt Nam. Tôi trân trọng những bài viết, những sáng tác nhạc đã góp phần nâng cao tinh thần tranh đấu, ca ngợi tình thương nhân loại. Tôi biết mình cần phải có một tấm lòng, từng chút từng chút một để làm đẹp cuộc sống. Một ngọn gió mong manh không làm lung lay nổi cành cây gai góc to lớn, nhưng nhiều ngọn gió góp sức, có thể lay động làm gãy từng cành, từng nhánh rồi có ngày đạt được mục đích tốt đẹp. Tôi biết mình cần phải tích cực học hỏi, có hành động cụ thể thay vì ngồi im chờ đợi hoặc lên tiếng trách cứ, kết tội người khác. Vẫn có những tên "công an mạng", những người xấu viết lời chửi bới làm nản lòng mọi người trên các diễn đàn, nhưng nói chung tinh thần đoàn kết, sắt son với quê hương, với dân tộc vẫn luôn triển nở..."

Bên cạnh các hoạt động chính trị kể trên, Duy Hân còn là tín đồ ngoan đạo Chúa và hết lòng với việc làm từ thiện.

Nặng lòng với quê hương, dân tộc.

Nói chung, Duy Hân là người rất nặng lòng với quê hương, dân tộc và đã đóng góp tiền bạc, công sức cho công việc chung suốt mấy mươi năm dài. Đối với tôi cũng như nhiều người khác thì đây là một sự hy sinh to lớn, nhưng Duy Hân lại rất khiêm nhường cho rằng đó chỉ là "viên sỏi nhỏ" lót đường.
Con đường tuy gập ghềnh, khó bước như chính vận nước đang bấp bênh, như đồng bào chúng ta đang chịu cảnh trầm luân dưới sự cai trị khắc nghiệt của đảng cộng sản Việt Nam độc tài, toàn trị. Nhưng nếu mọi người cùng chung vai sát cánh,  mỗi người đều là "viên sỏi nhỏ," thì chắc chắn con đường sẽ trở nên bằng phẳng hơn nhiều và cũng sẽ được rút ngắn, cho dù đó là con đường thiên lý.
Kinh nghiệm sống.

Trong tuyển tập "Những Viên Sỏi Nhỏ" còn có các bài viết về cuộc sống nơi xứ người. Xin trích một đoạn từ bài số 8, Say:

"... Bacardi là loại rượu Rum sử dụng hình con dơi làm logo vì Rum làm từ mía, mà dơi có công diệt các côn trùng làm hại mía.
Cocktails là thức uống rất phổ biến trên thế giới, do pha chế các loại rượu và nước trái cây chung với nhau theo các công thức đặc biệt, vừa ngon ngọt vừa nghệ thuật với các tên hấp dẫn như Angel’s Kiss, Sex on the beach (Cái hôn của Thiên thần, Yêu nhau trên biển)… Ly đựng cocktails cũng phải đẹp và đúng, thí dụ không thể lấy ly cao của Singapore Sling mà đựng cho Daiquiri được..."

Có lẽ người đọc sẽ nghĩ rằng Duy Hân phải tốn công tra cứu tài liệu để viết bài Say, nhưng không phải thế. Trong một lần vợ chồng tôi được mời đến nhà dùng cơm gia đình, Duy Hân đã giới thiệu với chúng tôi bar rượu dưới tầng hầm rộng lớn của cô. Hoá ra Duy Hân đã từng là người pha rượu (bartender)      chuyên môn.

Tôi kể lại chuyện này chỉ để chứng minh rằng Duy Hân là người có nhiều kinh nghiệm sống, và các đứa con tinh thần của cô đều được khai sinh từ những va chạm thực tế trong cuộc sống hàng ngày, vì thế người đọc sẽ nhận thấy sự chân phương, trong sáng trong mỗi tác phẩm, dễ dàng cảm nhận hết ý, tình mà cô gửi gắm.

3- "Đất Cũ" là một tuyển tập dài 225 trang, gồm 30 truyện ngắn và 44 truyện rất ngắn, viết về quê hương, tình người và gia đình cũng với bút hiệu Trịnh Tây Ninh.

Bàng bạc trong tuyển tập "Đất Cũ" là hình ảnh của quê hương ngàn đời yêu dấu mà tác giả đã ôm ấp trong lòng suốt mấy mươi năm xa cách.

Bút hiệu Trịnh Tây Ninh.

Xin trích một đoạn ngắn trong "Đất Cũ," truyện ngắn được đặt tên cho tuyển tập để biết tại sao Duy Hân chọn bút hiệu Trịnh Tây Ninh:

"... Tôi sanh ra và lớn lên ở Tây Ninh, một tỉnh lỵ đất đỏ miền đông khô khan, nghèo nàn. Riêng gia đình tôi thì còn nghèo hơn nữa. Ba tôi là một công chức nhỏ, chỉ sống bám vào đồng lương nhỏ bé do chính phủ chu cấp. 
Má tôi hiền lành còn hơn khoai sắn, chỉ ở nhà nội trợ chăm sóc đàn con, ai gạt bà lấy tiền, bán hàng cân thiếu bà cũng đều im lặng chịu đựng..."

Thì ra cô đã chọn địa danh nơi chôn nhau cắt rốn làm bút hiệu.

Đặt tên con Việt - Nam.

Ngoài ra, khi đọc hai bài số 24, 25 viết cho hai cậu con trai Duy Việt, Duy Nam người đọc sẽ thấy rõ tấm lòng của Duy Hân không những qua việc dạy dỗ con mà còn bao hàm cả quê hương, đất nước bằng cách đặt tên con là Việt - Nam. Tôi đã vài lần gặp mặt hai cháu Việt - Nam và nhiều lần nhìn thấy hai cháu qua hình ảnh, videos trong các buổi sinh hoạt cộng đồng; tôi rất vui khi thấy hai cháu đã nối bước cha mẹ.

Vẽ tranh.

Đặc biệt, điểm xuyết đó đây trong cả ba tuyển tập là những bức tranh, do tác giả tự vẽ lấy, đã làm tăng nét thẩm mỹ và dĩ nhiên tăng thêm giá trị của các tác phẩm rất nhiều.

Về văn nghệ, ngoài việc góp thơ, truyện, bài viết cho các báo in địa phương và báo in lẫn báo online trên nhiều nước khác, Duy Hân - Trịnh Tây Ninh còn vẽ và làm rất nhiều slideshows ca nhạc, Thánh Ca, danh ngôn... Gần đây nhiều người mới được biết Duy Hân đã có hơn 300 slideshows.

Với kinh nghiệm sống phong phú và tài năng đa dạng như thế, cộng thêm bút pháp trong sáng và văn phong - trong một số bài viết - rất dí dỏm, tôi tin rằng dù người đọc khó tính đến đâu cũng sẽ không thất vọng khi thưởng ngoạn khu vườn văn học nghệ thuật của Duy Hân.

Đặng Hoàng Sơn. 



Trong dịp cuối năm, cũng là 40 năm kể từ 1975, xin chia sẻ với quý anh chị em một chút tâm tình:

Hồi ức Tị Nạn
Nguyễn Ngọc Duy Hân
 
Tôi không có thói quen viết nhật ký. Hồi bé tôi cũng ráng bắt chước các chị trong nhà, nắn nót viết vì được tặng một cuốn sổ có chìa khóa bé xíu rất xinh, nhưng chỉ viết được vài dòng thì chán - chơi búp-bê, chạy nhảy ngoài sân với bạn vui hơn.
 
Lớn lên, khi buồn chuyện này người kia, tôi cũng có ý định trang trải tấm lòng trên trang giấy, nhưng vốn biếng lười rồi sợ có người đọc được nên thôi. Thế nhưng hôm nay tôi lại chạnh lòng, muốn viết một chút gì đó để hồi tưởng lại 40 năm tị nạn, nhớ lại chặng đường dài mà người dân Việt đã đi qua. Nếu như tôi đã viết nhật ký, việc ghi nhớ chuyện cũ có lẽ sẽ dễ dàng hơn nhiều, vì bây giờ những kỷ niệm xưa, các suy tư đã phôi pha theo ngày tháng, tuổi tác  … Nhưng hôm nay tôi nhủ lòng sẽ cố gắng ghi lại một chút tâm tình - Tâm tình của người tị nạn, của một thuyền nhân nhỏ bé tầm thường - viết lại tâm trạng khắc khoải của người di tản buồn phải lưu vong trên xứ người. Tôi vẫn thích hát "Hãy cố quên đi mà sống...", nhưng ngược lại có những điều tôi không cho phép mình được quên để biết mình là ai và trách nhiệm như thế nào... “Mời người lên xe, về miền quá khứ”....
  Ngày... tháng...
 30 tháng 4, 1975, tôi chưa tròn 15 tuổi. Những tháng trước đó gia đình tôi không được ở nhà mình tại khu nhà thờ Tây Ninh nữa, mà phải xin tạm trú với người bà con ở xa khu vực tỉnh lỵ để tránh pháo kích. Sợ lắm, nửa đêm đang ngủ ngon bỗng nghe tiếng đạn nổ thật to, thật gần. Ba má và mấy chị em chúng tôi phải chạy trốn xuống hầm tránh đạn, ngồi co ro lo lắng. Tôi hay hỏi: Hết pháo kích chưa để được lên nhà nằm ngủ, ba má biết đường nào mà trả lời! Tôi đã thấy những miểng đạn thật to bay vào sân nhà, tôi đã đi đám tang của bà bán chè trong xóm chết tại chỗ, thịt da và máu lẫn trong nồi chè lênh láng. Tôi đã nghe radio loan tin về các em học sinh bị pháo kích ở Cai Lậy, và rơi nước mắt với nhiều gia đình vì người thân đi lính đã tử trận. Ôi chiến tranh, ôi thời kỳ đau thương khốn khó.
Xưa kia em có mẹ cha
Xưa kia em có ông bà
Trong một ngày em mất cả ba....
Anh tôi hiểu tình hình thời sự, nên khuyên ba má và mấy đứa em chúng tôi bỏ Tây Ninh lên thành phố sinh sống, vì Saigon dù sao cũng có tai mắt quốc tế, ít sợ bị trả thù, bị gò bó như ở tỉnh nhỏ. Rời Tây Ninh tôi buồn lắm, xa trường mất bạn nhưng biết làm sao hơn.
 
Nhưng buồn hơn cả là biết được 30 tháng 4 là ngày mất nước, Việt Cộng đã tràn vào tới Saigon, trên đài phát thanh ông Dương Văn Minh đã chính thức đầu hàng. Chị tôi bảo phải lo cắt móng tay cho thật ngắn, vì Việt Cộng không thích những đứa xí xọn để móng tay dài. Má tôi có vài lượng vàng, vài cái nhẫn, bắt chúng tôi giấu kín trong người, tưởng rằng như thế là qua mắt được "họ"! Chúng tôi còn ngây thơ quá, ít kinh nghiệm với Cộng Sản quá, bằng chứng là sau đó hai ông anh của tôi đã nghe lời ra trình diện học tập cải tạo 10 ngày, để rồi đi "mút mùa" bao nhiêu năm.
 Mấy tháng sau ngày 30 tháng 4, tôi được đi học lại, nhưng ngày đầu tiên là học hát nhạc đỏ, nhạc "cách mạng", nghe giảng chính trị dài dòng vô nghĩa. Dù sao tôi cũng còn may mắn có sự bảo bọc của gia đình, không phải đi kinh tế mới, không phải đi bán vé số, lượm rác...

Ngày... tháng...
 Tôi học trung học cấp Ba, tuổi học trò nên còn vô tư, còn vui với bạn bè, dù cuộc sống đã bắt đầu thay đổi. Vì lao động là vinh quang, học sinh phải làm công tác sản xuất ngoài giờ học chữ, nên chúng tôi quay quần bên nhau đan lá mây tre, tức là ngồi đan những cái rổ, cái giỏ để xuất khẩu cho nhà trường kiếm tiền. Chúng tôi thủ thỉ chuyện thơ văn, chuyện bất công đói rách đang xảy ra trên quê hương, tình bạn thật thắm thiết dù thầy cô "quốc doanh" dạy chúng tôi phải có tinh thần tập thể, cái gì cũng phải mang ơn Bác và Đảng, như ngắm trăng cũng phải cùng ngắm chung, ngồi một mình tư lự với trăng là tư duy sai lầm, là cá nhân chủ nghĩa!
 Hôm nay N. đến trường nhưng không ở hết buổi học, anh tới giã biệt tôi vì phải cùng mẹ đi xa kiếm cách sinh sống. Ba của N. đã trốn vào bưng tìm cách đấu tranh giành lại chính quyền, kinh tế gia đình gặp khó khăn, công an có thể tới nhà N điều tra khó dễ. Tôi buồn lắm, một phần vì cũng có cảm tình đặc biệt với N, lũ bạn hay "cáp đôi" chúng tôi với nhau, một phần vì lo sợ cho chính gia đình tôi. Trước vận mệnh đất nước, nhiều chia ly, đau khổ sẽ diễn ra. Thầy T. đang dạy chúng tôi môn Toán cũng bị công an tới tận lớp bắt đem đi mất, nói là có tội với Cách mạng, cô T. và gia đình thầy khổ sở biết bao nhiêu. Tôi nhớ câu chuyện Bầy Phượng Vỹ Khác Thường của Nhã Ca, chúng tôi cũng đang trong tâm trạng thấp thỏm lo âu, không an tâm học hành, không biết ngày mai chuyện gì sẽ xảy ra...
 Ngày... tháng...
 Sáng nay tôi giật mình dậy sớm vì nghe tiếng khóc nỉ non, tiếng kể lể từ nhà hàng xóm bên cạnh vọng lại. Trời ơi! bạn K. bị bắt đi nghĩa vụ quân sự mấy tháng trước đã bỏ mình nơi chiến trường Campuchea. Xót xa nào hơn khi cha mẹ tóc bạc phải khóc con đầu xanh, mà lại không được thấy xác con để nhìn mặt lần cuối hoặc chôn cất. Hèn chi người anh bà con của tôi nhất định không chịu trình diện làm lính thế thân cho Cộng Sản. Anh trốn chui trốn nhũi đói khát thật đáng thương. Anh không được đi học đi làm, cũng không thể ở nhà vì lệnh bắt trốn nghĩa vụ quân sự ai cũng biết, không ai dám chứa chấp. Chị tôi bị ép phải "phấn đấu" để có thể trở thành cảm tình viên của Đoàn Thanh niên Cộng Sản. Chị đâu có muốn thành đoàn viên. Gia đình tôi lý lịch xấu, cha làm công chức cho chế độ cũ, anh làm "Lính Ngụy", phấn đấu 10 đời cũng không tới đâu, nhưng họ vẫn bắt chị đi họp hành ca hát, công tác liên tục. Mấy đứa cháu phải tham gia Thiếu Nhi Khăn Quàng Đỏ, bị nhồi sọ những chuyện sai lầm, sắt máu. Còn các bà mẹ, các người chị phải ra ngoài buôn thúng bán bưng, đầu tiên là bán các thứ trong nhà để sống cầm hơi, vì người đàn ông trụ cột trong gia đình đã đi tù cải tạo. Mọi người có thêm gánh nặng nhịn ăn nhịn mặc để lo thăm nuôi người nhà trong trại tù. Tôi có cùng chị dâu đi thăm anh tôi ở trại cải tạo một lần, thật là thương cho các chiến sĩ, nhân viên chế độ Cộng Hòa bị sa cơ thất thế. Đói rét đã đành, nhiều người bệnh nặng, bị biệt giam gông cùm thật khổ. Trong cuốn Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện có ghi lại kinh nghiệm tù mà tôi còn nhớ. Khi bị cùm lâu ngày một chân sẽ bị teo nhỏ lại không đi vững được, nhưng người tù vẫn không dám xin cán bộ đổi cùm sang chân kia. Lý do không phải vì sợ cán bộ từ chối, nhưng chân teo nhỏ lại sẽ ít bị cái cùm siết chặt, ít đau đớn hơn. Nhiều người bị nhốt trong phòng tối mười mấy năm, mắt trở nên mù lòa thật khổ. Tôi hồi ấy cũng còn ngây thơ, nên thắc mắc cán bộ không cho tù cải tạo ăn đường là phải, vì mua đường tốn tiền, nhưng muối rất rẻ mà sao họ cũng không cho ăn để cải tạo bị phù thủng? Thì ra Cộng Sản muốn làm khổ, muốn hành hạ cho phá bệnh tật để không còn sức lực tranh đấu, chứ không phải vì thiếu muối. Thật vậy, tình thương yêu thông cảm đâu tốn xu nào để mua, mà con người vẫn dè sẻn đâu đã cho nhau hết lòng, nói chi đến Đảng Cộng Sản sắt máu.
 
Nhiều em bé không được tới trường, phải lang thang đầu đường xó chợ đói rách kiếm ăn. Do thiếu giáo dục các em hỗn láo ma lanh, dối gian... Nhà cầm quyền lại đánh phá "Tư sản mại bản" bằng nhiều hình thức, một trong những cách là đổi tiền hai ba lần. Tôi nhớ lần đầu mỗi gia đình chỉ được đổi 200 đồng tiền Hồ, còn lại mất hết, ba má và người thân tiếc tiền phát bệnh, có người còn tự tử. Ôi, thân phận con người thế hệ chúng tôi.
 
 Ngày... tháng...
 Đến thời gian này phong trào "Đi" được bắt đầu, vì cái cột đèn nếu có chân cũng sẽ bỏ trốn Cộng Sản để ra đi mà! Chuyện đút lót mua bãi để không bị bắt lại, chuyện bị lường gạt mất "cây" mà không đi được, chuyện vào tù vì dám bỏ trốn chế độ xảy ra thường xuyên. Rồi vượt biên lạc đường bị đói khát, bị cướp biển, bị làm mồi cho cá mập... Ai nấy căng thẳng sợ hãi. Nhưng ở lại cũng chết, ra đi dù sao cũng có chút hy vọng, nên đông đảo người dân đã liều mình vượt biên, tạo nên một sự kiện đặc biệt trong lịch sử. Hôm nay đi học tôi lại thấy vắng thêm một người bạn, công an đang hồ hởi phong tỏa căn nhà của gia đình bạn để làm cơ sở thành phố. Thầy bói có thêm cơ hội hành nghề, vì nhiều người quá lo phải tới nhờ thầy xem dùm có đi thoát không rồi mới dám liều. Anh chị Hai tôi ở Bến Tre, anh là Đại Úy phải đi học tập, chị bị công an tịch thu nhà để làm Ủy Ban Quân Quản Thành Phố, đuổi đi kinh tế mới. Đàn con phải làm rẫy khổ sở, nên chị liều mình vượt biên, rủ tôi cùng đi.
 May mắn chuyến hải trình êm xuôi, chúng tôi không bị hải tặc, chỉ bị công an Việt Nam chặn lại cướp của làm tiền. Chúng tôi được đưa tới trại tị nạn tại Nam Dương, mừng quá là mừng. Đó cũng là nhờ cháu bé con anh Năm tôi lúc đó mới 3 tháng tuổi. Khi tàu Tây Đức đi ngang qua, họ không muốn rắc rối nên chỉ cho thức ăn nước uống để chúng tôi đi tiếp. May quá một người nhanh trí đã ẵm cháu tôi giơ lên cao cho người Đức thấy. Có lẽ vì thương trẻ em cùng với con thuyền bé nhỏ mong manh trên biển cả, họ bảo chúng tôi đục cho tàu ngập nước, rồi gọi về cho cấp trên nói là chúng tôi đang chết chìm nên phải cứu.
Trại tị nạn Indonesia được mệnh danh là "Ngưỡng cửa của Tự Do và Tình Người", chúng tôi an tâm học Anh văn, chuẩn bị ngày đi Mỹ. Cơm Cao Ủy phát chúng tôi ăn còn đói, còn thiếu thốn rất nhiều các phương tiện khác, nhưng không dám đòi hỏi gì hơn. Chỉ buồn là thấy chung quanh cũng có một số ít người vì chút quyền lợi, vì thiếu suy nghĩ nên luồn cúi cảnh sát Indonesia làm hại bà con, hoặc có các chị chịu đi chơi riêng với người Indonesia, không tiếc phẩm giá. Lại có người độc thân tại chỗ, vì quá cô đơn yếu đuối cần nơi nương tựa, nên đã "ghép form" ở tạm với nhau, làm sau này gặp phải cảnh  hai vợ hai chồng, không biết chọn ai bỏ ai. Ở lại quê nhà là một dấu chấm than, nhưng ra đi được lại là một dấu chấm hỏi to tướng. Trách nhiệm rất nặng nề, mình sẽ làm được gì cho bản thân, cho gia đình, cho đất nước đây?...
 Ngày... Tháng...
 Thời gian ở trại Tị nạn thật dài với những vui buồn lẫn lộn. Vui vì thoát được chế độ Cộng Sản, buồn vì xa nhà, lo lắng cho tương lai trên xứ lạ quê người. Cuối cùng tôi và gia đình anh chị cũng tới được Cali đất Mỹ. Tôi vừa học vừa làm, mỗi ngày mười mấy tiếng, có bệnh cũng không dám nghỉ, ráng dành dụm gởi tiền, gởi quà về cho gia đình và bè bạn. Ngày ấy vải vóc ở Việt Nam rất quý, hơn một thước vải xoa Pháp vài đô-la là may được một cái quần đen, nếu chúng tôi nhịn xài thì có thể giúp được nhiều người. Mỗi khi thèm quá mua bánh kẹo trái cây ăn, cô cháu gọi tôi bằng dì luôn xuýt xoa "Chèn ơi! Ăn hết một cái quần xoa Pháp rồi!"
 Chúng tôi bây giờ văn minh, bắt đầu sợ mập ăn kiêng, nhưng vẫn không quên những ngày đói khổ tại quê nhà. Chúng tôi hay nhắc lại kỷ niệm cũ như lúc phải nấu cháo ăn cho đỡ tốn, hoặc lúc đi lặn lội đào kinh làm công tác thủy lợi do phường khóm đề ra, không đi là cắt hộ khẩu, cắt gạo, bị kiểm điểm. Cái màn tự kiểm và bị kiểm điểm thật ghê sợ, nếu không nói dối, không khôn khéo sẽ bị tù như chơi. Tôi khi ấy cũng phải phụ giúp gia đình, sáng đi học chiều đi bán nước mía cho người bà con kiếm thêm tiền. Tôi lượm vỏ mía về cho má tôi nấu ăn thay củi, vỏ mía cháy vèo vèo nhưng chịu cực thì cơm cũng chín. Có lần lãng đãng lo ra, tôi đút cả ngón tay vào trục xay nước mía, may mà chỉ bị mất một phần nhỏ ngón tay cái, không bị cụt!
 
Tôi đã từng sắp hàng cả ngày để mua được vài ký bo bo, nấu lên cứng ngắc ba tôi nhai trệu trạo thật đau lòng. Tôi cũng nhớ có lần mang sổ hộ khẩu sắp hàng để mua được một chia bia, đem bán chợ đen ngay để có tiền mua đi chợ. Chị tôi đi dạy học có tiêu chuẩn mỗi tháng nửa ký thịt, nhưng chị vừa hiền lành vừa khẳng khái không tranh dành, nên chỉ đem về chừng vài trăm gram thịt mỡ bèo nhèo, lớp cán bộ đã ăn bớt, lớp các bạn đồng nghiệp chia chác hai ba đợt. Ba tôi lâu ngày không có thịt ăn, ăn vào lạ bụng tiêu chảy quá chừng. Buổi cơm gia đình tôi lúc ấy thường chỉ là rau muống luộc, đậu hũ luộc, ngày nào có khách thì mua vài cái trứng vịt, quậy thêm với bột mì để chiên cho được nhiều. Nhiều nơi hàng xóm dòm ngó nhau, nếu có thịt, có thức ăn ngon cũng phải dấu diếm, nếu không sẽ bị tố giác, làm khó dễ. Cộng Sản quá khôn ngoan ác độc với những hình thức trừng phạt, gieo vào lòng tất cả người dân một sự sợ hãi khó lòng vượt qua được. Sợ, sợ lắm, tới bây giờ tôi vẫn còn sợ....
 
Nhớ lúc mới được nhà thờ bảo trợ qua Mỹ, chúng tôi còn xấu hổ. Nhà thờ hôm ấy mừng lễ Phục Sinh, tức là Easter có cho trẻ em chơi trò dấu trứng. Trứng đây là kẹo chocolate gói giấy màu thật đẹp hình trái trứng, tượng trưng cho sự đổi mới sanh sôi nảy nở. Các cháu tôi ốm nhom bé choắt, lại khai rút tuổi để dễ đi học nên khôn lanh so với con nít Mỹ thật nhiều. Có bao nhiêu kẹo dấu ở đâu chúng cũng hớn hở tìm ra hết, hình như chúng "hửi" được mùi ngọt, đám con nít Mỹ ngây thơ hầu như chẳng tìm được trái trứng nào. Gia đình "Mít" thâu lượm hết, không biết chia sẻ, không biết đây chỉ là trò chơi cho vui!
 
Lại còn chuyện đãi các ông bà bảo trợ cũng mắc cười. Chị tôi mua tôm càng to đút lò, làm chả giò và nhiều món ngon mời bảo trợ tới nhà ăn để tỏ lòng biết ơn. Dĩ nhiên mấy dì cháu tôi đâu có tiêu chuẩn ăn tôm, nhưng may thay khách tới trò chuyện vui quá, chị tôi quên mất món tôm còn để nguyên trong lò. Khách về chúng tôi sung sướng thưởng thức, trong khi anh chị tôi tiếc hùi hụi....
 
Ngày... Tháng...
 Vấn đề ngôn ngữ bất đồng tại xứ người cũng rắc rối. Mấy dì cháu tôi khổ sở ngày ngày tra tự điển, uốn lưỡi tập đọc tiếng Anh, ráng nói mà sao Tây Mỹ vẫn tròn xoe mắt không chịu hiểu. Bạn tôi ước gì có viên thuốc đặc biệt uống vào là tiếng Anh như gió để có thể tìm việc làm mà không cần phải học. Nói tiếng Anh chúng tôi không mỏi miệng mà mỏi tay, vì phải ra dấu diễn tả lung tung.
Hôm đó là ngày lễ, tức là longweekend không phải đi học đi làm, nhưng chúng tôi nhận điện tín báo tin buồn. Vì nhân viên bưu điện cũng nghỉ lễ, nên họ không tới nhà trao điện tín, mà đọc nội dung cho nghe qua điện thoại trước, rồi sẽ giao giấy sau. Họ đánh vần rõ ràng "Ba đã mất" nhưng khi cô cháu nhận phôn nói lại, cả nhà không ai chịu tin. Má tôi bệnh tiểu đường, rất yếu nên má mất mới hợp lý, chứ ba tôi còn khỏe lắm. Chúng tôi trách cháu nghe cò ra quạ, chữ M lại tưởng chữ B, rồi khóc mà không biết khóc ai! Hôm sau nhận điện tín mới rõ đúng là ba đã mất.
 
Qua được xứ Mỹ nhưng chúng tôi rất hà tiện, vì mới chân ướt chân ráo làm lương rẻ và còn đang đi học thêm. Mỗi lần chợ đại hạ giá món hàng nào, chị Hai bắt hết mấy dì cháu chúng tôi sắp hàng mua thật nhiều về để dành. Khi có dư chút đỉnh chị mua vàng lá để trong nhà ngắm nghía. Chúng tôi bàn nên gởi ngân hàng cho có tiền lời, nhưng chị bảo hồi ở Việt Nam quá khổ, cái nhẫn một chỉ cũng không có nên bây giờ chị nhất định mua ít vàng về chưng trong phòng cho bõ ghét! Ấy thế mà chị "trúng", sau này vàng lên giá quá chừng. Chị cũng rất sáng suốt, tuy cần tiền nhưng nhất định không cho ai "share" phòng, dù lúc này việc cho mướn phòng kiếm thêm tiền đang rất phổ thông. Chị bảo cho đàn ông vào share phòng thì sẽ mất con gái, còn cho đàn bà vào ở thì sẽ mất chồng!
 
Các cháu tôi ít nhiều cũng biết khổ là gì vì lớn lên ở Việt Nam, biết giá trị của cuộc sống nên cố gắng học hành, sau này đều thành bác sĩ, kỹ sư thật thành công. Cô cháu Út bắt đầu quên tiếng Việt, nói tiếng Mỹ đúng giọng rất hay. Đám trẻ thật dễ hội nhập, thật là mừng và cảm ơn xứ người đã cho chúng tôi cơ hội sống tốt đẹp hơn. Nghĩ cũng lạ, nhiều nhà cha mẹ nói tiếng Anh không giỏi lắm, nhưng con cái không biết chút tiếng Việt nào. Một người quen bảo lãnh được cha mẹ sang giúp trông cháu, đứa cháu cần cái ly, nói tiếng Anh ông bà không hiểu, phải gọi điện thoại vào hãng nhờ mẹ thông dịch mới có cái ly uống sữa! Do phải làm việc nhiều, một số gia đình không có giờ dạy dỗ con cái, chúng học theo cái xấu của Tây Mỹ trở nên hư hỏng, vợ chồng bất hòa ly dị.... Được tự do no ấm, nhưng cuộc sống hải ngoại cũng không dễ vì đang có những vấn nạn khác, không có gì là toàn vẹn....
 
Ngày... Tháng...
 Hôm nay đi chợ bất ngờ tôi gặp lại bạn cũ. Tôi không nhận ra nhưng chị gọi tôi. Chị đi với một thanh niên rất cao ráo, thì ra đây là cháu trai hồi đó sinh ra ở đảo - đứa con không mong đợi khi chị bị hải tại cưỡng hiếp trên đường vượt biên. Tôi nhớ ngày ấy chị rất buồn. Không nỡ phá thai, nhưng chị xấu hổ bó bụng lại nên sanh ra cháu èo uột đen đủi, có người bảo cháu giống ... con khỉ. Tình mẹ thật nhiệm mầu, dù cháu có nhăn nhó xấu xí chăng nữa chị vẫn chăm sóc, hôn hít yêu thương. Sau khi trò chuyện, tôi biết chị sang Cali, đã lập gia đình với anh D - người cùng thời ở đảo, nhưng anh này lớp khó tính, lớp hay đem chuyện chị bị hãm hiếp ra dày vò mỗi khi nổi giận, nên chị ly dị ở một mình nuôi con. Tôi ủng hộ quyết định của chị, nếu việc bị hải tặc ngày xưa mà cứ đem ra nói đi nói lại thì chẳng khác nào làm chị bị cưỡng hiếp thêm lần nữa. Cháu trai nay sắp tốt nghiệp dược sĩ, rất ngoan và siêng năng. Tôi thật mừng cho chị. Cuộc đời có ai biết ai ngờ, nhiều người tưởng là sẽ thành công nhưng cuối cùng lại thất bại, nhiều người bị thử thách nhưng không ngờ lại có thể vượt qua mà vươn lên. “Con khỉ” ngày xưa bây giờ là một dược sĩ bảnh trai - Hạt giống đau khổ nhưng nẩy mầm trong vùng đất tốt đã trổ sinh hoa trái tươi đẹp. Thật là một phép mầu, mà nếu không ở xứ Tự Do hai ngoai thì phép mầu này khó có thể xảy ra được.
 
Ngày... Tháng...
 Chúng tôi sống một ngày như mọi ngày, trẻ đi học, người lớn đi làm, đi chợ nấu ăn, giặt giũ, cuối tuần thì tới nhà thờ, đi chùa, dự tiệc tùng hoặc các sinh hoạt khác.... Dù bận rộn nhưng cũng vui. Khi kinh tế khó khăn, chúng tôi cũng bị thất nghiệp, phải lo lắng nhưng rồi cũng có việc khác. Một số bạn bè bắt đầu nghề làm móng tay, mở tiệm Nail khấm khá hẳn ra. Nhiều người học cao tạo được danh tiếng trong thương trường, đóng góp đáng kể cho xã hội và được vinh danh tại hải ngoại. Sinh hoạt văn nghệ, truyền hình, sách báo sáng tác cũng rất phong phú. Ngược lại cũng có người buôn lậu, trồng cần sa hoặc trộm cắp, gian lận trợ cấp welfare, medicare làm xấu hổ người Việt, nhưng cũng may số người xấu này không đông. Trên các diễn dàn, thế giới ảo email, facebook lại hay có những bài viết nặc danh chửi bới làm nản lòng mọi người, làm thối chí ai muốn đóng góp cho Tự Do Dân Chủ trên quê hương, nhưng nói chung người tốt và các sinh hoạt ý nghĩa vẫn tiếp tục được thực hiện. Thật an ủi vì đa số ai cũng sẵn lòng góp công góp của làm việc tốt, việc thiện. Truyền thống hào hùng bất khuất, lá lành đùm lá rách vẫn mãi tồn tại và được đề cao tại hải ngoại.
 Riêng tại quê nhà, cuộc sống vất vả và cái nghèo luôn hiện hữu. Một số chán nản trước đời sống không lối thoát đầy tệ nạn nên đã tìm quên trong men rượu, thậm chí bài bạc làm xã hội càng thêm xuống dốc. Không có Tự do Dân chủ, sống chung quanh các giả trá dối gian, nhiều người chịu ảnh huởng trở nên xấu thật đáng tiếc. Bất công và ranh giới giàu nghèo ngày càng rõ. Chỉ có giới cán bộ tai to mặt lớn là giàu sụ, còn lại dân nghèo dân oan khắp nơi.... 40 năm thay vì phát triển và là hòn ngọc sáng chói của Viễn Đông, nước tôi trở nên lạc hậu nghèo khổ hơn bao giờ.
 
Dù sao, tôi cũng xin ghi lại những dòng chữ hôm nay để cảm ơn các vui buồn trong cuộc sống, cảm ơn những thử thách để có thể tôi luyện chính mình. Tôi chân thành ghi nhớ những gương lành, những vị đã kiên trì làm việc tốt cho cộng đồng, cho người khác. Tôi cũng cám ơn cuộc sống tiện nghi, những phương tiện truyền thông tân tiến giúp tin tức, kiến thức mọi người được tốt đẹp. Tạ ơn cuộc sống này dù có nhiều phức tạp âu lo....
 
Ngày... Tháng...
 Thỉnh thoảng chúng tôi cũng hưởng ứng các sinh hoạt cộng đồng, góp tiếng tranh đấu cho Nhân Quyền, cho các Dân Oan bị áp bức không thể lên tiếng tại Việt Nam. Riêng tôi rất thông cảm cho các nhóm tổ chức. Ai cũng bận rộn khiếm khuyết, thiếu thì giờ, nếu có sai sót cũng rất đáng được bổ sung, cùng góp ý xây dựng sửa đổi, không nên chửi bới mạt sát. Ngày sanh con, đem các cháu đi bác sĩ chích ngừa các loại bệnh thông thường như đậu mùa, phong đòn gánh, tôi đã ước gì có loại thuốc chích ngừa tinh thần, tức là làm sao chủng ngừa cho các con tôi tránh được bệnh ích kỷ, bệnh lười biếng vô cảm cũng như các chứng hư tật xấu để các cháu có thể xây dựng tương lai - không những cho chính mình mà còn sống vì người khác. Bây giờ tôi thấm thía chính tôi cũng cần chích ngừa và tránh những bệnh đó. Chính tôi phải làm gương để các cháu hiểu được thế nào là tình người, là trách nhiệm với tổ quốc. Ai cũng sợ bị đột quỵ, bị stroke bất ngờ nằm bán thân bất toại, nhưng cơn stroke tâm hồn có lẽ còn nguy hiểm hơn nếu không tích cực, không sẵn lòng hy sinh và đoàn kết yêu thương. Tôi cũng đã từng bị đột quỵ tâm hồn, ú ớ không nói được lời động viên, xin lỗi với người chung quanh hoặc nhát sợ không dám lên tiếng cho sự thật, mặc "cha chung không ai khóc"!
 
Nhìn lại cuộc sống của một người tị nạn tầm thường nhưng đầy may mắn, tôi không biết nói sao để dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, đội ơn tiền nhân và biết ơn đất nước đã cho tôi tạm dung. Được tự do, có việc làm, có rất nhiều quyền mà trong đó quyền căn bản của con người được tôn trọng, được học hỏi nhiều điều hay tại Tây Phương, được đi du lịch đó đây, con cháu có cơ hội học hành thành đạt trong xã hội mới... tôi còn mong muốn gì hơn. Thế nhưng tôi vẫn hay tự hỏi: Bỏ nước ra đi với hai bàn tay trắng, sau mấy mươi năm nhìn lại tôi đã làm được gì cho bản thân, gia đình và việc chung? Tôi phải làm gì để san sẻ sự may mắn của mình cho người khác, đặc biệt cho những đồng bào còn đang chịu áp bức, đau khổ ở quê nhà? Tôi đã quá nửa đời người, khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại tôi nên làm gì, nghĩ gì? Cụ Phan Bội Châu đã viết những câu thơ rất hay và làm tôi suy tư thật nhiều, sống đứng chật trời không ích lợi gì thì sống làm chi?
 
Vì thế tôi mạnh dạn ghi thêm vài dòng suy tư, để cùng với biết bao người tị nạn khác, gạt nước mắt ly hương mà tôn vinh và tri ân các chiến sĩ, các quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh cho chính nghĩa Tự do và bảo vệ đất nước. Tôi xin góp lời để hiệp thông và ủng hộ các nhà Dân Chủ tại quê hương - những anh hùng anh thư thời đại dám vượt qua sợ hãi tù đày, sợ gia đình bị liên lụy để mang khát vọng yêu chuộng Tự do và Nhân quyền của người dân trong nước để thế giới hiểu được. Tôi cũng nhủ lòng phải cố gắng tích cực hơn, lạc quan hơn và làm việc nhiều hơn, dù chỉ là những việc bé nhỏ nhưng với hết tấm lòng. Tôi tin nếu ai cũng ra sức đóng góp thì chắc chắn việc chung sẽ có kết quả cao.
 
Vâng, bốn mươi năm mới đó mà đã thoáng qua, biến cố 30 tháng Tư như một cơn sóng thần khủng khiếp đã quét mất nước Việt Nam Cộng Hòa, đã cuốn trôi bao sinh linh, bao đổ vỡ mà hệ lụy vẫn còn kéo dài. Mỗi khi tham dự lễ Chào Cờ với phút mặc niệm, liệu một phút ngắn ngủi ấy có đủ cho mình nhớ thương và vững lòng với trách nhiệm hay không? Câu hát hùng tráng trong bài Quốc Ca Việt Nam: “Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống”, tôi đã đồng lòng đoàn kết và đã hy sinh được bao nhiêu? Thật là tủi hổ vì câu trả lời của tôi hầu như là zero - dù tôi cũng có một chút lòng thành. Có lẽ tôi sẽ vẫn mãi hoài yếu đuối, ngại khó không làm được gì - dù tôi cũng thiết tha chờ đợi một ngày quê hương vinh sáng.
 
Người Do Thái sau bao năm lưu đày đã quyết tâm trở về, và họ đã làm được. Không biết tới ngày nào tôi mới có thể bắt đầu trang nhật ký mới bằng câu: Hôm nay chúng tôi vinh quang trở về xây dựng quê hương, vì gông cùm cộng sản không còn - Ngày ấy chắc tôi sẽ cảm động rơi nước mắt. Tôi chỉ còn biết cầu nguyện và hi vọng. Xin chắp tay dâng một lời kinh tự đáy lòng để tình người được triển nở và đất nước, con người Việt Nam sẽ sớm bước sang chặng đường mới sáng tươi...

 Nguyễn Ngọc Duy Hân

  ------   ------   ------ 
Thơ: Viết cho quê hương

Tôi đang sống đây đúng vào thế kỷ 
của đói nghèo, của cay đắng trầm luân
tôi khóc cười và bỗng thấy thương thânthương dân tộc đắm chìm trong bể khổ
Tôi ngồi đây nghe ầm ầm sóng vỗ
tựa tiếng lòng thôi thúc lời oán thantừ lúc sinh ra chưa khi nào bình anbởi chiến tranh tạo muôn ngàn đổ vỡ
Mẹ tôi đã âm thầm tuôn lệ đổ
oằn trên vai gánh nặng của cuộc đờirồi ra đi mà chẳng được thảnh thơibỏ con dại, bỏ ước mơ dang dở
Cha tôi cũng từng đêm dài hơi thở
người chiến binh thất trận chịu lao tùtrại "cải tạo" những buổi chiều âm unuốt tủi hận rồi qua đời lặng lẽ
Thương em tôi khi tuổi còn rất trẻ
phải lấm lem lượm rác để nuôi thânchị cam lòng đi "lao động" xa xămbị bóc lột, tấm thân gầy chua xót
Lũ công an luôn ngày đêm canh gác
không để anh lên tiếng cho Tự DoNhân Quyền đâu? Với Cộng Sản: Đừng mơbị trấn áp, trù dập không thương tiếc!
Ôi tức tưởi, thế giới nào ai biết?
Toàn dân tôi chỉ có được tự do:Tự do nghèo, tự do sống âu loTự do đói khi tình người đã chết
Cả cuộc sống coi như là chấm hết
vì tương lai biết trôi dạt về đâuĐảng cầm đầu, dối trá gạt lẫn nhaudân muốn sống, phải cam lòng gian dối
Tôi có miệng mà sao không được nói
có trái tim, mà phải sống nhục nhằnbao Dân Oan, bao nước mắt tràn dângôi sự thật! Sao vẫn hoài dấu diếm?
Tôi ngồi đây, nghĩ suy và tìm kiếm
ý nghĩa cuộc đời, mong được ngày vuingày vui ấy sau mệnh nước nổi trôisẽ là ngày Ấm No và Dân Chủ
Và khi ấy tôi sẽ quên chuyện cũ
sống yêu thương góp sức xây dựng đờiđể Việt Nam dòng máu đỏ thắm tươitrang sử mới luôn hào hùng, hy vọng
Ngày vui ấy sẽ không còn giặc Cộng
bán non sông, đem thảm họa cho dânđể có ngày ta ngẩng mặt với thế nhânĐây dân Việt, đây giống nòi bất khuất ....
Nguyễn Ngọc Duy Hân
Bài thơ đẵ được Ns Nguyễn Hữu Tân phổ thành nhạc: 

Thơ Duy Hân: Lục Bát Cuối Năm 

Tự vấn
Ai xui mình bán văn chương ? bán đi một gánh, tiếc thương một đời Ai xui người đến yêu tôi ? đường tình lỡ bước mây trôi dặm ngàn 
Khi ngày đã đến
Tơ trời một giãi mênh mang tơ lòng một nỗi ngổn ngang ai vò ở lại - lòng những trông chờ mà ra đi bỗng ơ hờ làm sao 
Này em có biết
Yêu em từ dạo ra vào Hái cành thắm đỏ trúc đào đong đưa Rằng ru hời, lời ru trưa Sao em ngủ vội chưa nghe ru hời 
Dáng xưa
Người xưa ... gắng nở nụ cười trong hàng nước mắt, ôi người thuở xưa ! âm thanh ngần ngại đong đưa  Ta đây, người đấy khúc chưa tương cầu 
Cũng đành thôi
Đêm trăng xõa tóc bên lầu nâng niu tủi cực làm sầu riêng tư
nơi đây đau khổ thừa dư
 mà đành thôi để trang thư ngại ngùng
 
Nhắn hỏi
Sao cho nắng khỏi chập chùng sao cho mưa khỏi lạnh lùng buông rơi
 sao cho tình khỏi phai phôi
 sao cho đời khỏi là hơi thở dài 
 
Bài cuối
Này đây vốc nước trên tay Trong như nước mắt chuỗi ngày lưu vong
 
Trịnh Tây Ninh