ĐIỆP-MỸ-LINH
Đang tưới mấy chậu hoa trên sân thượng, tôi
nghe tiếng chân người chạy thật nhanh từ phía cầu thang. Quay lại nhìn, tôi
thấy bà giúp việc đang đưa tay vuốt ngực, thở gấp và nói đứt đoạn:
- Thưa…cô…c…o…ó…điệ…n…thoại.
Vì vội vàng, tôi xách luôn bình nước tưới
cây, vừa chạy đến cầu thang vừa hỏi:
- Ai vậy, dì Năm?
- Dạ…ông.
Vừa nói bà Năm vừa quay người chạy theo tôi
và đưa tay xách bình nước từ tay tôi.
Mấy hôm nay tôi gần như sống trong sự khủng hoảng nào đó, không lúc nào tâm hồn được yên. Mỗi lần chuông điện thoại reng, tôi giật mình, hồi hộp, thở không đều. Bây giờ chạy từ lầu ba xuống, tôi thở nặng nhọc như một tay đua vừa chạy giáp vòng sân Cộng-Hòa. Vừa chụp ống nghe, chưa kịp nói “allo”, tiếng Minh đã vang lên từ đầu giây bên kia:
- Làm gì mà thở dữ vậy, cô nương?
Nghe Minh vẫn diễu cợt bình thường, tôi hỏi
ngược lại::
- Có tin gì khác không, anh?
- Có…
Minh hơi ngập ngừng. Tôi lắng nghe nhưng
Minh không nói tiếp. Ngỡ rằng Minh đang bận nói gì với ai, tôi chờ một chốc rồi
dục:
- Allo! Anh đang bận, phải không?
- Không. Anh nghe đây.
- Sao đang không anh im lặng vậy?
- Thôi, để anh về anh nói cho nghe.
- Thì nói bây giờ đi.
Sau một thoáng im lặng,
Minh hỏi:
- Em còn giữ ý định tìm
phương tiện về ngoài đó hay không?
- Em phải về.
- Anh hiểu.
Minh ngưng. Dường như có
tiếng thở dài nhè nhẹ. Một chốc, Minh tiếp:
- Anh về bây giờ.
Giọng Minh có chút gì là
lạ.
Sau khi gác ống điện
thoại, tôi chợt nhớ đến Trí, một sĩ quan Không-Quân đã hứa sẽ tìm phương tiện
cho tôi về đem gia đình vào Saigon. Tôi quay số. Bà Trí bắt ống nghe. Tôi nhắc
bà về lời hứa của Trí. Bà Trí bảo tôi chờ. Dường như bà Trí đang bịt ống nói để
nói gì với Trí, tôi chỉ nghe lao xao. Một lúc sau, giọng Trí có vẻ ngạc nhiên:
- Chị Minh! Chị chưa nghe
gì hết sao?
- Dạ, nghe gì, anh?
- Nha-Trang mất rồi!
Tưởng mình nghe lầm, tôi hỏi, giọng hơi
lớn:
- Dạ, anh nói gì, anh Trí?
- Nha-Trang mất rồi, bà ơi! Tôi tưởng anh
Minh cho chị hay rồi chứ.
Tôi thẩn thờ một lúc rồi “rơi” vào lòng ghế
xa-lông, đầu óc trống rỗng. Ngoài những người ruột thịt, tôi còn dấu trong
khung trời Nha-Trang những nhiệm mầu của tuổi thơ, những xót xa của kỷ niệm và
nhiều đắng cay của cuộc tình. Từng này tuổi, nếu phải mất ngần ấy yêu thương
thì hồn tôi sẽ thành một bãi vắng mênh mông!
Không nghe tôi nói gì, Trí tiếp:
- Thôi, chị à! Tôi quý chị lắm, nhưng tôi
khuyên chị là…hết rồi! Chị không nên liều mạng như vậy.
Tôi khẩn khỏan:
- Dù chuyến bay chót cũng được, anh Trí à.
Tôi sẽ tìm phương tiện trở về sau.
- Bây giờ chỉ còn những chuyến trực thăng
ra đến Cam-Ranh thôi. Nhưng tôi cũng không thể để chị đi những chuyến đó; bởi
vì chưa biết mình còn giữ được Cam-Ranh bao lâu nữa! Đã đành gia đình là quan
trọng, nhưng chị còn chồng còn con của chị nữa chứ, chị quên sao?
- Dạ, tôi biết. Nhưng các cháu có anh Minh
lo; còn gia đình của tôi ngoài đó không ai lo được gì cả.
- Bộ chị không sợ Việt-Cộng hay sao mà tới
giờ này còn đòi bay về ngoài đó?
Trí chuyển đề tài bất ngờ khiến tôi hơi
lúng túng:
- Dạ…dạ…
Tôi nghe giọng bà Trí nói chi đó rồi Trí
cười lớn từ đầu giây bên kia. Chỉ một thoáng thôi, giọng Trí trở nên hấp tấp:
- Allo! Allo! Chị còn đó không? Xin lỗi
chị, tôi cười hơi lớn vì bà xã tôi nói tôi “cà chớn”, nhè chị mà hỏi có sợ
Việt-Cộng hay không.
Tôi cũng cười, chưa biết cách nào trở lại
đề tài xin trực thăng đi Nha-Trang thì Minh đẩy cửa, bước vào. Tôi đưa tay che
ống nói rồi nói với Minh:
- Anh Trí.
- Trí nào?
- Anh Trí Không-Quân.
Minh “a”
lên một tiếng rồi đi thẳng lên lầu. Trí hỏi:
- Anh về, phải không, chị?
Tôi “Dạ”.
Trí đổi giọng thân mật:
- Thôi, xong rồi. Bà lo cho ông ấy đi.
Không đi đâu nữa cả, có gì ân hận lắm đó, bà.
Sau khi gác điện thoại, tôi như kẻ mất hồn.
Nếu Trí không gửi tôi theo các chuyến bay ra Trung thì đâu còn ai bên
Không-Quân tôi có thể nhờ được. Còn Hải-Quân, giờ này có lẽ đâu còn chiếc nào
tại bến mà nhờ! Tôi thở dài, tính vào bếp phụ dọn cơm thì Minh từ trên lầu đi
xuống:
- Trí cho em hay rồi, phải không?
Tôi nhìn ra khung cửa lưới. Vạt nắng mong
manh trên khóm hoa giấy trước sân khiến tôi nhớ Nha-Trang vô vàn! Tôi như muốn
khóc, “dạ” nho nhỏ, trả lời câu hỏi
của Minh. Minh ngồi vào xa-lông, gương mặt cũng chẳng vui gì. Một lúc lâu, Minh
hỏi:
- Em còn muốn về ngoài đó không?
- Dạ. Nhưng anh Trí bảo không giúp được.
Còn tàu, anh thấy có chiếc nào đi ra Trung nữa không?
- Có. Nhưng tới Phan-Rang thôi.
Tôi sáng mắt lên:
- Vậy cũng được. Chiếc nào vậy, anh?
- 505.
- 505 là chiếc nào?
- LST Nha-Trang.
Nha-Trang! Tuy không được
sinh trưởng tại Nha-Trang, nhưng âm hưởng nhẹ nhàng của hai tiếng Nha-Trang lúc
nào cũng như một ràng buộc vô hình vào đời tôi.
- Ai là Hạm-Trưởng, anh?
Minh cười, ánh mắt tinh
nghịch:
- Nhượng đó.
Không dấu được vui mừng,
tôi reo lên:
- A, anh Nhượng khóa 9 đó
hả? Anh xin anh ấy cho em quá giang đi.
Minh giả vờ lườm tôi, môi
hơi mỉm cười. Tôi cũng cười, ngó lơ ra khóm hoa giấy ngoài sân để tránh ánh mắt
tinh quái của Minh. Vạt nắng đã tắt, tưởng không còn gì gợi nhớ, nhưng hai
tiếng “Nhượng đó” của Minh khiến tôi
nghĩ nhiều đến người bạn xưa mà cả Minh và tôi đều quen thân và quý mến. Bỗng
dưng tôi như cảm nhận được thoang thoảng đâu đây hương Nuit d’Orient ngọt ngào,
rồi cánh bướm xanh lấp lánh trên nhánh mai vàng đầy nụ.
Thấy tôi có vẻ suy tư,
Minh đứng lên, cắt ngang dòng ý tưởng của tôi:
- Đi ăn cho rồi, cô
nương, ở đó mà mơ mộng.
Trong bữa cơm chiều, Minh
bàn tính về chuyến “mạo hiểm” của tôi. Minh liên lạc với hai người đàn ông mà
gia đình của họ cũng kẹt lại Nha-Trang, bảo họ đi với tôi để lo và giúp đỡ tôi.
Chiều hôm sau Minh đưa cả
ba chúng tôi sang Thành Tuy-Hạ; vì Dương-Vận-Hạm Nha-Trang, HQ 505, đang nhận
đạn tại đây.
Trên boong chiến hạm, tôi
gặp lại Trung-Úy Trần Há – người đã lội nát vùng U-Minh trong thời gian anh
phục vụ tại Giang-Đoàn 26 Xung-Phong. Tôi nghe tiếng Há phàn nàn nho nhỏ với
Minh:
- Giờ phút này mà Commandant để chị đi làm
chi, Commandant?
Minh lắc đầu:
- Hồi ở Giang-Đoàn 26 “toa” còn lạ gì tính
cương quyết của bả. Thôi, có gì “toa” lo cho bả giùm. “Moi” đã nói với
Hạm-Trưởng Nhượng rồi.
Nói xong Minh vội vàng rời chiến hạm, vì
tàu vừa vào nhiệm sở vận chuyển. Nhìn theo chiếc Jeep lẫn khuất trong đám bụi
mờ, tôi bâng khuâng tự hỏi, không biết tôi còn gặp lại Minh nữa hay không! Cần
“ăng-ten” cao vút rún rẩy phía sau chiếc Jeep khiến tôi nhớ đến đứa con gái thứ
hai của tôi đang nội trú tại trường Régina Pacis. Khi nào thấy chiếc Jeep có
“ăng-ten” cao cháu cũng nói: “Con ghét
mấy cái xe có cần câu đó lắm.” Nếu ai hỏi lý do, cháu sẽ đáp: “Tại nó làm con nhớ Ba”. Chút ray rứt
này đột nhiên làm tôi hối hận về quyết định của tôi. Lòng tôi chùng xuống! Tôi
đang nén tiếng thở dài thì giọng Há vang lên từ cửa thông vào phòng ăn sĩ quan:
- Chị vào nghỉ, sắp sửa dùng cơm rồi, chị.
Tôi xách cái xắc cũ mèm, bên trong đựng vài
bộ đồ tây không còn hợp thời trang – Minh bảo ngụy trang như vậy để nhỡ có gì
xảy ra, thiên hạ khó biết mình thuộc vào thành phần nào, đỡ nguy hiểm – bước vào phòng ăn.
Tôi ngồi vào xô-pha, nhìn các sĩ quan từ từ
kéo nhau vào, ngồi quanh bàn ăn, theo thứ tự thâm niên kể từ chiếc ghế dành
riêng cho Hạm-Trưởng. Tôi nhận ra Khánh, em của một nhà văn Không-Quân. Tôi hỏi
thăm Khánh về “ông anh nhà văn”. Khánh kể cho tôi nghe về cái chết của ông ấy.
Tôi không ngờ những ngày cuối cùng của nhà văn ấy bi thảm đến như vậy! Nói
chuyện một lúc, Khánh nhắc đến Nha-Trang với những ngày anh em của Khánh còn
theo học trường Thống-Nhất. Tôi tuy là “dân” Võ-Tánh, nhưng vì có ý định theo
ban “B” cho nên mỗi mùa Hè tôi thường học thêm Toán-Lý-Hóa tại các trường tư;
nhờ vậy câu chuyện giữa Khánh và tôi trở nên lôi cuốn vì chúng tôi khơi lại kỷ
niệm xưa.
Nói chuyện xưa một lúc, Khánh chợt đổi đề
tài, kể cho tôi nghe về những hải trình mà Dương-Vận-Hạm Nha-Trang HQ 505 đã
vượt qua trong thời gian di tản miền Trung. Trong câu chuyện, thỉnh thoảng Há
và những sĩ quan khác cũng góp thêm nhiều chi tiết mà chỉ nghe không thôi, tôi
cũng cảm thấy kinh hoàng! Và, sau cuộc rút quân ở Chu-Lai, Dương-Vận-Hạm
Nha-Trang HQ 505 mang biệt danh là Con Tàu Máu!
Câu chuyện sắp đến đoạn ủi bãi Chu-Lai thì
Hạm-Phó bước vào. Hạm-Phó ngồi vào ghế đầu bàn, góp chuyện với chúng tôi. Trong
khi câu chuyện giữa chúng tôi đang “nổ” dòn, nhà bếp vẫn âm thầm dọn lên bàn
một bữa ăn rất đạm bạc.
Các sĩ quan đang cười, nói huyên thuyên
bỗng im bặt vì Hạm-Trưởng Nhượng vừa bước vào. Tất cả - trừ tôi - đứng lên chào
Hạm-Trưởng. Nhượng nhìn tôi, mỉm cười, rồi mời tất cả sĩ quan ngồi xuống.
Thấy bữa ăn chiều trên chiến hạm HQ 505 tôi
mới nghiệm ra một điều: Những người đi tàu giữ đúng nghi thức và truyền thống
Hải-Quân hơn những người ở đơn vị tác chiến.
Mặc dù đã tham dự không biết bao nhiêu buổi
tiếp tân trên chiến hạm, cũng như trong câu-lạc-bộ Hải-Quân, không bao giờ tôi
để ý đến cách thức Hải-Quân sắp chỗ ngồi. Bây giờ tôi mới thấy chiếc ghế bên
phải của Nhượng còn trống. Nhượng mời tôi dùng “cơm lính”. Tôi cười:
- Cơm lính gì, mấy anh ăn sang quá; cơm
giang đoàn mới đúng là cơm lính đó, anh.
Vẫn tính ít nói như xưa, Nhượng chỉ cười.
Khánh bảo:
- Chị thiên vị lính giang đoàn rồi đó.
Tôi nhìn Khánh rồi nhìn Há:
- Đâu có. Anh hỏi anh Há xem, lính giang
đoàn cực lắm.
Nhượng đưa tay về phía ghế trống, mời tôi
một lần nữa:
- Mời chị.
Lúc này tôi mới chợt nhớ, vội lắc đầu:
- Dạ, cảm ơn anh, nhưng tôi xin lỗi, tôi ăn
chay.
Nhượng tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Thế à? Để tôi bảo nhà bếp làm cơm chay
cho chị. Mời chị ngồi đây.
Nhượng đưa tay hơi nhích chiếc ghế trống ra
một tý. Tôi đứng lên, đi dần ra cửa:
- Dạ, cảm ơn anh. Tôi xuống bếp xin chút
xì-dầu.
Tuy nói như vậy, nhưng khi vào bếp, tôi nhờ
anh nhà bếp ra thưa với Nhượng là tối tôi mới ăn; xin anh nhà bếp để dành cho
tôi ít cơm và xì-dầu. Sau đó tôi ra trước mũi chiến hạm, ngồi lặng lẽ, nhìn
dòng sông Saigon uốn khúc trong hoàng hôn chập chùng.
Ngoài những lần viếng thăm tiềm-thủy-đỉnh
hoặc những chiến hạm của Hải-Quân Hoa-Kỳ, đây là chuyến hải hành đầu tiên của
tôi trên một chiến hạm của Hải-Quân Việt-Nam.
Từ boong tàu nhìn xuống mặt sông, khoảng cách
quá xa, khiến tôi nhớ và thèm một mảnh không gian nho nhỏ trong lòng chiếc Fom. Từ chiếc giường treo, lom khom chui
ra phía sau của chiếc Fom, tôi chỉ
cần hơi khom xuống một chút là có thể dùng tay khỏa mặt nước mát rượi hoặc níu
một nhánh bèo có những nụ bông tím.
Gió lồng lộng. Trong âm thanh lao xao mơ hồ
từ hai bên bờ sông và tiếng máy tàu vi vu, tôi thấy thiếu tiếng “rè rè, rột
rột” quen thuộc từ chiếc máy truyền tin PRC25 trên chiếc Command. Nhìn quanh
chiến hạm, mọi thứ đều ngăn nắp, sạch sẽ, tôi lại liên tưởng đến lòng chiếc LCM
nhuộm máu bên dòng sông đào thuộc quận Gia-Rai!
Trên mặt sông lặng lờ, đoàn giang đỉnh đang
di động ngược chiều, tạo nên những lượn sóng loáng thoáng màu bạc. Lúc đến gần
tôi mới nhận ra đó là đoàn PBR .
Đối với tôi, hình ảnh đẹp nhất là từ trên trực thăng, nhìn đoàn PBR lướt nhanh trên những đoạn sông hẹp, bỏ lại
phía xa mặt sông cuồn nộ giữa hai hàng dừa nước quằn quại. Bây giờ, trên dòng
sông lớn, nhìn đoàn PBR ẩn hiện lờ
mờ trong bóng hoàng hôn tôi vẫn thấy có
một cái gì đó rất hùng vĩ, rất lãng mạn.
Khi chiến hạm ra đến biển, tôi bắt đầu cảm
thấy khó chịu. Dựa người vào thành tàu với cảm giác ngầy ngật, tôi nghĩ đến
Minh và những ngày Minh đi HQ 3. HQ 3 bề thế, tiện nghi, nhưng sao Minh vẫn
thấy tù quẩn hơn chiếc Command nhỏ bé trên những dòng sông có súng thù chực
chờ! Đài chỉ huy và ghế Hạm-Trưởng trượng trưng cho uy quyền sao không hấp dẫn
Minh bằng những đêm ngồi xổm trên sàn chiến đỉnh, tay bấm đèn, mắt lom lom nhìn
vào bản đồ hành quân, tìm vị thế một đồn Nghĩa-Quân vừa kêu cứu! Câu truyền
tụng trong Hải-Quân: “Trên biển cả, sau
Thượng-Đế là Hạm-Trưởng” sao không lôi cuốn Minh bằng những lần bay trực
thăng trong tầm đạn của địch để thị sát những điểm “đổ” quân… Bây giờ thì tôi
hiểu!
HQ 505 đến vịnh Phan-Rang vào một buổi sáng
trời trong, biển lý tưởng.
Theo hoạch định, tôi sẽ ở trên HQ 505, hai
người đàn ông theo tôi sẽ vào bờ, thuê xe đi ra Nhatrang rồi đem cả mấy gia
đình vô lại Phan-Rang. Nếu khi họ trở vô mà chiến hạm đã chuyển xong số đạn và
không còn ủi bãi nữa thì họ sẽ giăng một tấm vải màu làm hiệu và tôi sẽ nhờ
Nhượng cho xuồng đổ bộ vào đón.
Thấy hai người đàn ông lộ vẻ vui mừng, tôi
đưa cho họ tờ giấy xếp nhỏ và dặn:
- Ông đưa giùm giấy này cho Ba tôi. Có chữ
của tôi Ba tôi mới tin. Ông nhớ nói giùm với Ba tôi là tôi đang chờ ở đây, trên
tàu này…
Tôi chưa nói hết câu, Há bước vào, gọi khẽ:
“Chị”. Ngẫng lên, thấy nét mặt khác
thường của Há, tôi lo âu:
- Dạ, có gì vậy, anh Há?
- Dạ, Hạm-Trưởng cho biết tàu không được
phép ủi bãi.
Tôi vội đứng lên, chạy ra cửa. Tôi không
biết tôi chạy ra cửa để làm gì? Và sẽ chạy đi đâu? Nhưng ra đến boong tàu, tôi
thấy Nhượng từ đài-chỉ-huy chạy xuống. Tôi tựa vào khoanh dây thừng, nhìn bước
chân vội vã của Nhượng trên cầu thang. Đến bên tôi, Nhượng chậm rãi:
- Ông Minh – Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh –
không cho tàu tôi vào, chị ạ.
- Ông Minh đang ở đâu, thưa anh?
Nhượng chỉ một chiến hạm đang neo gần trong
vịnh:
- Ông ấy đang ở trên HQ 3 đấy.
Tôi nhìn HQ 3 với vẻ ngán ngẫm:
- Bây giờ làm sao, anh Nhượng?
- Chị vào nghỉ, có gì tôi sẽ cho chị hay.
Tôi ngồi phịch lên thùng sắt để cạnh, gục
đầu vào lòng bàn tay. Một lúc lâu, tôi đến vịn giây cáp ven thân tàu, nhìn
xuống lòng biển xanh, cố tìm một giải pháp trong trường hợp HQ 505 được lệnh
rời vùng biển này, nhưng nghĩ mãi không ra.
Mặt trời lên cao dần. Bóng chiến hạm phản
chiếu vào mặt nước long lanh. Gió xuân muộn lùa vào không gian chút hương mai
cuối mùa khiến tôi nghĩ đến những cành mai núi, mọc trong kẻ đá, ven làng
Vĩnh-Hy. Những lần theo ghe Chủ-Lực đi tuần, đi kích, hồn tôi cảm nhận được tất
cả vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc của những vùng biển nghèo; ở đó, người dân thức và
ngủ theo ánh mặt trời; ở đó, khi cánh buồm no gió ra khơi, bỏ lại ngôi làng nhỏ
với tiếng lao xao trong ngôi trường làng lụp xụp thì người vợ yên lòng ngồi vá
lại chiếc lưới cho chồng trong nỗi thanh thản tột cùng.
Những buổi sáng ven biển thường thường rất
tươi mát, yên bình và lặng lẽ. Nhưng hôm nay, quanh tôi, tất cả đang bị khuấy
động mà tôi nào có hay! Trong khi tôi đang hồi tưởng lại những ngày ở
Duyên-Đoàn 26 thì nhiều người đang dồn về phía bên này chiến hạm để nhìn vào
bờ. Tôi ngơ ngác nhìn quanh. Bất ngờ một sĩ quan trao tôi óng dòm:
- Chị muốn dùng ống dòm không?
Tôi thành thật đến ngớ ngẩn:
- Dạ, chi vậy, anh?
- Nè, chị nhìn vào bờ đi.
Anh tháo sợi giây quanh cổ, trao ống dòm
cho tôi. Tôi nhìn vào bờ và thấy vô số ghe thuyền đang bơi ra. Anh sĩ quan hỏi:
- Chị thấy gì không?
- Dạ, ghe nhiều quá! Tại sao vậy, anh?
- Không. Tôi muốn hỏi chị có thấy hai xe
tăng hay không?
- Dạ có, có. Tăng gì mà lớn quá vậy, anh?
- T54 đó, chị.
Vì thích tìm tòi, trong nhiều trường hợp,
khi nghe tên loại vũ khí, tôi có thể phân biệt được đó là vũ khí của ta hay của
địch. Vì vậy, khi nghe “T54”, tôi giật mình, đưa tay che miệng để khỏi phải bật
lên tiếng kêu thảng thốt. Như vậy có nghĩa là Phan-Rang mất rồi! Tôi không còn
hy vọng gì đưa gia đình tôi đến nơi an toàn được nữa. Tôi lui vài bước, ngồi
lại trên thùng sắt, khóc! Không biết bao lâu sau đó, tôi cảm biết có người đứng
cạnh. Tôi ngẫng lên. Nhượng lặng lẽ nhìn tôi. Tôi thở dài, ngượng nghịu quẹt
nước mắt vào tay áo. Nhượng lắc đầu:
- Chị vào trong nghỉ đi. Không làm gì được
nữa rồi!
- Khi toán ghe đó đến đây, tôi sẽ thương
lượng mua hoặc mướn một chiếc để đi vào…
Nhượng cắt lời tôi:
- Không được. Tôi không thể để chị đi như
vậy.
- Anh giúp tôi, anh Nhượng. Anh cũng quen
thân với Ba Má tôi mà.
- Chị Minh! Tôi quý hai Bác lắm, nhưng
trong tình cảnh này chị không thể rời tàu.
Giọng cương quyết như ra lệnh của Nhượng
khiến tôi nhìn Nhượng, thầm nhủ: “Lấy
chồng nhà binh, sống gần mấy ông nhà binh, tối ngay chỉ nghe giọng chỉ huy
không hà!” Há và Khánh cũng đến khuyên nhủ tôi:
- Nếu Hạm-Trưởng để chị rời tàu, rủi có gì
làm sao Hạm-Trưởng ăn nói với Commandant Minh. Chị thấy không?
Làm thế nào tôi không thấy được điều đó;
nhưng tôi vẫn muốn làm một cái gì để cứu gia đình tôi. Như hiểu được tôi nghĩ
gì, Nhượng nhỏ nhẹ:
- Chị giận thì tôi chịu. Nhưng nếu có anh
Minh ở đây, tôi nghĩ anh ấy cũng không để chị rời tàu đâu.
Biết mình làm phiền nhiều người, tôi sửa
soạn bộ mặt tỉnh táo để khỏi bận tâm những người chung quanh.
Khi đoàn ghe đến gần, tôi thấy áo của nhiều
quân binh chủng được đưa cao, vẫy vẫy. Bất ngờ tôi nhận ra chiến hạm đang từ từ
đổi hướng. Tôi ngạc nhiên, vội quay sang Nhượng thì thấy Nhượng vừa đến chân
cầu thang, sắp bước lên đài-chỉ-huy. Tôi gọi: “Anh Nhượng.” Nhượng quay lại. Tôi tiếp:
- Anh không vớt mấy ông lính trên ghe sao?
Tôi thấy dường như Nhượng đang thở mạnh hay
là Nhượng cố nén tiếng thở dài rồi lắc đầu:
- Tôi được lệnh không vớt ai cả. Một tàu
đạn đầy!
Trên những chiếc ghe tròng trành vì sóng,
do HQ 505 tạo nên, những thân người gầy gò kêu gào. Và những đôi mắt…Ôi! Những
đôi mắt van xin, những đôi mắt buổn thảm, những đôi mắt thất vọng ấy bỗng rực
lên những tia phẫn hận khi chiến hạm “bẻ” mạnh một vòng cua ngặt!
Gục đầu vào khoanh dây thừng, tôi khóc tức
tưởi vì những oan khiên, thảm khốc đang phủ chụp xuống từng phần đất thương yêu
và những nghiệt ngã đang bủa vây đoàn người bại trận!
Từ buổi sáng hôm đó, trong những bữa cơm đã
bớt tiếng nói, thiếu hẳn nụ cười. Dường như ai cũng cảm thấy một nỗi đau nào
đó, to lớn lắm, đang đè nặng tâm hồn!
Khi Dương-Vận-Hạm Nha-Trang HQ 505 vừa qua
khỏi Cà-Ná một chút, tôi nghe tin Dương-Vận-Hạm Vũng-Tàu HQ 503 bị Việt-Cộng
bắn ngay đài-chỉ-huy, gây tử thương cho bốn năm người. Thấy vẻ tư lự của Há,
tôi tò mò hỏi. Há thở dài:
- Một trong các sĩ quan tử thương tại
đài-chỉ-huy HQ 503 là thủ khoa khóa tôi. (Khóa sĩ quan đặc biệt).
Tôi im lặng. Kinh nghiệm của HQ 503 và các
giang-pháo-hạm trên sông thuộc miền Tây cho tôi thấy nhận xét : “Đã Hải-Quân mà còn đi tàu thì đeo chữ Thọ ‘to
tổ bố’ rồi, còn lo gì nữa” là sai lầm.
Gần đến Phan-Thiết, tin Tướng
Nguyễn-Vĩnh-Nghi bị bắt khiến mọi người bàn tán, âu lo hơn. Tôi nhìn ra khơi.
Trong khoảng không gian mênh mông của biển tự dưng tôi tưởng như tôi có thể
thấy lại được hình ảnh Tướng Nghi và Minh đứng trên mô đất cao quan sát trận
địa khi cuộc tấn công của Việt-Cộng vào đồn thứ 9 còn ngùn ngụt khói, vào một
buổi sáng khi hơi nước từ kinh Trèm-Trẹm còn đọng trên từng chiếc lá non.
Đến Phan-Thiết, HQ 505 neo và cho một xuồng
đổ bộ đưa một sĩ quan vào Phan-Thiết đón gia đình của anh ấy.
Khi xuồng đổ bộ trở ra, tôi thấy từ xa màu
vàng đậm chói lói trên màu biển xanh nhạt. Lúc đưa gia đình của sĩ quan đó lên
tàu tôi mới nhận ra màu vàng ấy là chiếc áo cà-sa của một Ni-Cô. Không hiểu tại
sao chiếc áo cà-sa của Ni-Cô lại khiến tôi nhớ đến hình ảnh những tăng ni trong
các cuộc biểu tình xách động và vạt áo vàng của vị Tuyên-Úy Phật-Giáo bay lất
phất bên thành xe Jeep khi Thầy lái xe Jeep chạy “như bay” trên đường Công-Lý,
Saigon!
Đêm đến. Phan-Thiết bị tấn công. Hỏa châu
thắp sáng một vùng đau thương. Lẫn trong vô số vệt sáng đỏ ửng kim loại hoặc
xanh lè như màu mắt của thần chết, tôi thấy nhiều vệt sáng thật lớn, xé không
gian theo hình cầu vòng rồi tan biến trong đêm.
Từ nhỏ, tôi cứ nghĩ chỉ có Nha-Trang và
Đà-Lạt là hai nơi tôi yêu mến. Nhưng bây giờ, thấy từng trái đạn cày sâu vào
vùng đất hấp hối này, tôi đau lòng. Từ đó tôi nghiệm ra rằng, vì lòng người eo
hẹp, phân chia ranh giới, chứ bất cứ vùng đất nào bên bờ đại dương thắm máu này
cũng đều là Quê-Hương của tôi cả.
Dương-Vận-Hạm Nha-Trang về đến Vũng-Tàu vào
một buổi sánh nắng nhạt. Nhượng cho ca-nô đưa tôi vào bờ.
Ca-nô rời tàu. Nhìn lại HQ 505, tôi thấy
Nhượng đang bước lên đài-chỉ-huy. Nhượng dừng lại ở cầu thang chót, đưa cao tay
vẫy, chào tôi. Tôi cũng vẫy tay chào Nhượng. Bóng Nhượng in lên nền trời xanh.
Thật đẹp!
Vào bờ, khi vừa đặt chân lên cầu tàu, tôi
lảo đảo như người say rượu. Các anh thủy thủ cười. Một anh bảo:
- Chắc chị…say đất rồi.
Dù đang choáng váng tôi cũng phải bật cười:
- Say đất? Tôi chưa nghe động từ đó bao giờ
cả. Mấy ông Hải-Quân lúc nào cũng có nhiều danh từ rất lạ.
Các anh cười, dặn tôi ngồi nghỉ một chốc,
trạng thái bình thường sẽ trở lại. Sau khi xe đến đón tôi các anh mới trở lại
tàu.
Nhìn theo chiếc ca-nô hướng dần về phía
chiến hạm 505, tôi thầm nhủ: “Xin cảm ơn
các anh, cảm ơn Dương-Vận-Hạm Nha-Trang, cảm ơn biển cả đã cho tôi chuyến viển
du cuối cùng để thấy Quê Mẹ quằn quại trong cơn đau, để nhìn Quê Hương lịm dần
vào cõi chết!”
ĐIỆP MỸ LINH
http://www.diepmylinh.com