Hiện nay, đang có dư luận bàn tán về
danh xưng đảng Cộng Sản và đảng Lao Động.
Dưới đây xin sơ lược về hai danh xưng nầy.
1.-
ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG
Tài liệu của cộng sản Việt Nam cho rằng
Đệ tam Quốc tế Cộng sản cử Nguyễn Ái Quốc (NAQ), về sau có tên là Hồ Chí Minh
(HCM), từ Xiêm La (Thái Lan ngày nay) đến Hồng Kông, tổ chức cuộc họp ngày
6-1-1930, thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN). Theo báo cáo chính trị HCM viết ngày
11-2-1951, đảng CS thành lập ngày 6-1-1930. (Hồ Chí Minh toàn tập [tập] 6, xuất
bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb.Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 154.) Về sau tại Đại
hội III đảng Lao Động từ 5 đến 10-9-1960, bộ chính trị trung ương đảng yêu cầu
đại hội thông qua quyết định thay đổi ngày thành lập đảng là 3-2-1930 theo lệnh của Liên Xô.
Tuy nhiên, một tài liệu khác cho biết rằng
trong khi NAQ hoạt động ở Xiêm La, thì Đệ tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS) cử Trần
Phú và Ngô Gia Trì (Ngô Đức Trì?) là hai người đã học ba năm ở Moscow, mang chỉ
thị về Việt Nam để thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD). Hai người nầy qua đường Pháp và gặp trở ngại
giấy tờ tại đây. Biết được tin nầy, NAQ
liền qua Hồng Kông, triệu tập cuộc họp lập đảng CS Việt Nam ngày 6-1-1930. Hai người kia ngày 8-2-1930 mới về đến Sài
Gòn. (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng Sản Việt
Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế, Arlington, VA: Tổ
Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2016, tr. 145.)
Trần Phú triệu tập hội nghị trung ương đảng
CSVN lần thứ nhứt ngày 10-10-1930 tại Kowloon (Cửu Long) thuộc Hồng Kông, và đổi
tên đảng thành đảng CSĐD. Câu hỏi đặt ra
là nếu NAQ được ĐTQTCS ủy nhiệm việc lập đảng, thì tại sao NAQ không đặt ngay
tên là đảng CSĐD mà lại đặt là đảng CSVN?
Và NAQ cũng không được cử làm tổ bí thư đảng CSVN?
Thứ hai, khi ra khỏi tù ở Hồng Kông năm
1933, NAQ trốn đi Moscow. Đệ tam QTCS mở
cuộc điều tra về hoạt động của NAQ trong thời gian bị tù. Tổ điều tra gồm ba người: Dmitry Manuilsky,
Khang Sinh và Vera Vasilieva. Trong báo
cáo của bà Vera Vasilieva, có một đoạn viết như sau: “... Khi thống nhất đảng, Nguyễn Ái Quốc đã tự nhận mình là đại diện của
QTCS mặc dù QTCS không trao ủy quyền ...” (Nguyễn Minh Cần, sđd. tr. 146.)
Ngoài ra, có câu chuyện của một người dự
họp ngày 6-1-1930 ở Hồng Kông kể lại rằng khi hội nghị nầy diễn ra, có người hỏi
NAQ có giấy ủy nhiệm không, thì NAQ trả lời rằng: “Nếu tôi có mang theo giấy đó, thì thử hỏi tôi có thể ngồi đây với các đồng
chí được không?” (Nguyễn Minh Cần, sđd.
tr. 146.) Tại sao một người nhân danh
QTCS đứng ra triệu tập hội nghị thành lập đảng CS mà không có giấy tờ ủy nhiệm
của QTCS?
2.-
HỒ CHÍ MINH GIẢI TÁN ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG
Nhờ cộng tác với O.S.S, cơ quan tình báo
Hoa Kỳ, HCM biết tin Anh và Trung Hoa sẽ gởi quân đến Việt Nam giải giới quân đội
Nhật theo quyết định hội nghị Potsdam (26-7-1945), và biết tin Hoa Kỳ thả bom
nguyên tử xuống Nhật Bản, nên Nhật Bản sẽ thất bại. Vì vậy, NAQ tức Hồ Chí Minh (HCM) và Việt
Minh (VM) nhanh tay cướp chính quyền ở Hà Nội, vận động quần chúng yêu cầu vua
Bảo Đại thoái vị, và thành lập gấp chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
(VNDCCH) ngày 2-9-1945, nhằm tạo cơ cấu hành chánh có sẵn, đã rồi, trước khi
quân đội Anh và Trung Hoa vào Việt Nam.
Trong khi Pháp theo quân Anh, mở các cuộc
hành quân tái chiếm Nam kỳ, Lâm uỷ hành chánh của Việt Minh (VM) cộng sản (CS)
rất lúng túng phải co cụm và lẫn tránh vào các vùng bưng biền, thì tại miền Bắc,
HCM và mặt trận VM, lúc đó chỉ có khoảng 5,000 đảng viên CS (Philippe
Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à
1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 182), gặp ba áp lực cùng một
lúc.
Đó là: 1) Các tướng lãnh Quốc Dân Đảng
Trung Hoa đưa khoảng 200,000 quân vào Bắc kỳ theo tuyên bố chung hay tối hậu
thư Potsdam ngày 26-7-1945. Quân Trung
Hoa rời căn cứ vào cuối tháng 8 và nhập vào Việt Nam đầu tháng 9-1945. 2) Các
lãnh tụ Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc Dân Đảng
(VNQDĐ) từ Trung Hoa trở về Việt Nam sau thế chiến thứ hai, quyết liệt chống đối
HCM và mặt trận VMCS. 3) Sau khi tái chiếm miền Nam, người Pháp tiến quân từ miền
Nam ra miền Bắc, dự tính tái chiếm toàn bộ Đông Dương
Đối với các lãnh tụ và các đảng phái
chính trị Việt Nam, HCM và VM thực hiện một kế hoạch hai mặt. Bề ngoài, VM tỏ ra hòa hoãn, nói chuyện với tất
cả các phe phái, kêu gọi lòng yêu nước, đoàn kết và liên hiệp để cùng nhau chống
ngoại xâm. Bề trong, VM thực hiện các cuộc
khủng bố ngầm, thủ tiêu lẻ tẻ những địch thủ chính trị và đe dọa những ai không
theo VM.
Khi cùng với tướng Tiêu Văn (Trung Hoa),
từ Quảng Châu về Việt Nam, Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ Việt Cách, liên lạc và hội
họp với Jean Sainteny, đại diện Pháp ngày 12-10 và 15-10-1945 tại Hà Nội, để thảo
luận về tương lai chính trị Bắc kỳ. Thấy
thế, ngày 23-10-1945, HCM liền mời Nguyễn Hải Thần họp tay đôi giữa hai bên, và
ký thỏa thuận hợp tác giữa VM và Việt Cách.
Để gây lòng tin nơi các đảng phái theo
chủ trương dân tộc, nhứt là các tướng lãnh Trung Hoa Quốc Dân Đảng đang ở Hà Nội,
HCM và ban chấp hành trung ương đảng CSĐD công bố GIẢI TÁN ĐẢNG CSĐD NGÀY
11-11-1945 và thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư [Mác-xít] do Trường
Chinh Đặng Xuân Khu làm tổng thư ký. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A: 1939-1946, Houston: Nxb Văn Hóa, 1996,
tt. 286-287.). Tuy vậy, theo lời HCM, “dù là bí mật, đảng [CSĐD] vẫn lãnh đạo chính quyền và nhân dân.” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb.
Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 161.)
Ngày 23-12-1945, HCM họp cùng đại diện
Việt Cách và VNQDĐ tại số 40 đại lộ Gia Long (Hà Nội), dưới sự chủ tọa của tướng
Tiêu Văn trong phái bộ Trung Hoa sang Việt Nam giải giới quân Nhật, ký thỏa thuận
gọi là “hợp tác tinh thành”, đại khái là từ ngày 1-1-1946, một chính phủ liên
hiệp sẽ được thành lập do HCM làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch. Nội
các gồm VM (2 ghế), Việt Cách (2 ghế), VNQDĐ (2 ghế), Dân Chủ (2 ghế), độc lập
(2 ghế). Ngày 6-1-1946 sẽ tổ chức bầu cử
quốc hội. VNQDĐ giữ 50 ghế, Việt Cách 20
ghế. Các đảng cam kết không gây hấn với
nhau. Đây là kiểu hòa giải hòa hợp bịp
bơm của HCM nhằm phỉnh gạt các đảng phái theo chủ trương dân tộc nhằm vượt
thoát qua giai đoạn khó khăn lúc đó.
3.-
ĐẢNG LAO ĐỘNG
Chiến tranh giữa Việt Minh với Pháp bùng
nổ ngày 19-12-1946. Lúc đầu VM thua chạy
về nông thôn, vào bưng biền hay lên rừng núi. Mùa thu năm 1949, Mao Trạch Đông
(Mao Zedong) cùng đảng CS thành công ở Trung Hoa và thành lập nhà nước Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) hay Trung Cộng ngày 1-10-1949.
Được tin nầy, HCM liền cử hai đại diện đến
Bắc Kinh xin viện trợ vào cuối năm 1949.
Sau đó HCM bí mật đến Bắc Kinh ngày 30-1-1950. Lúc đó, MTĐ đang ở Moscow (từ 16-12-1949 đến
17-2-1950) để thương thuyết với Joseph Stalin.
Hồ Chí Minh phải làm kiểm thảo trước Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi), xử lý
công việc bộ Chính trị đảng CSTH. (Trần Đĩnh, Đèn Cù, California: Người Việt
Books, 2014, tr. 49.) Không biết khi
qua cầu viện nhà Thanh năm 1788, bà thái hậu nhà Lê có hành động như HCM, kiểm điểm
trước kẻ thù truyền kiếp của dân tộc?
Theo yêu cầu của HCM, do phía Trung Cộng chuyển đạt, Stalin chấp thuận
cho HCM qua Moscow. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The
University of North Carolina Press, 2000, tr.
17.)
Khi gặp HCM, Stalin nói rằng: “Đảng Cộng Sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô
hoàn toàn nên viện trợ cho cuộc đấu tranh chống Pháp của các đồng chí. Song, chúng tôi đã trao đổi với các đồng chí
Trung Quốc, công việc viện trợ chiến tranh chống Pháp của Việt Nam chủ yếu do
Trung Quốc phụ trách thích hợp hơn...” (Một nhóm tác giả, Hồi ký những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc
viện trợ Việt Nam chống Pháp, Bắc Kinh: Nxb Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc,
2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, đăng lại trên tạp chí Truyền Thông Montreal, Canada, số 32 và
33, Hạ-Thu 2009, tr. 45.) Như thế có
nghĩa là tuy thừa nhận nhà nước VMCS, nhưng Liên Xô vẫn chưa giúp đỡ gì cả.
Hồ Chí Minh phải quay qua cầu cạnh Trung
Cộng, Nhờ sự giúp đỡ về mọi mặt của
Trung Cộng, lực lượng VM lớn mạnh và bắt đầu phản công dần dần. Từ đó, “viện
trợ quân sự, vũ khí đạn dược vào như nước.” (Đặng Văn Việt, Người lính già Đặng Văn Việt, chiến sĩ đường
số 4 anh hùng (hồi ức), TpHCM: Nxb. Trẻ, 2003, tr. 179.) Ngoài viện trợ, CSTH còn bổ nhiệm cả cố vấn
quân sự từ trung ương xuống đến cấp tiểu đoàn cho bộ đội VM.
Một năm sau khi nhờ viện trợ của Trung Cộng,
HCM qua Nam Ninh (Trung Cộng) ngày 5-2-1951, vừa chúc mừng Tết nguyên đán Tân
Mão (6-2- 1951) các lãnh tụ Trung Cộng, vừa cảm ơn đảng CSTH, vừa xin thêm viện
trợ để mở những chiến dịch mới. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập B, Houston:
Nxb. Văn Hóa: 1997, tr. 228.)
Sau cuộc viếng thăm và chúc Tết ở Trung
Cộng trở về, HCM triệu tập Đại hội lần thứ II đảng CSĐD tại xã Vinh Quang, huyện
Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang từ 11 đến 19-2-1951. Trong đại hội nầy, HCM tuyên bố đảng CSĐD hoạt
động công khai trở lại và chia thành ba đảng CS riêng biệt của ba nước Đông
Dương là Việt Nam, Miên và Lào.
Đảng CS Cao Miên là Nhân Dân Cách Mạng
Khmer (Khmer People's Revolution Party).
Đảng CS Lào là Nhân Dân Cách Mạng Lào (Phak Paxaxon Lao tức Lao's People
Revolutionary Party). Còn đảng CSVN từ nay lấy tên là đảng Lao Động Việt Nam
(LĐVN).
Danh xưng nầy được đặt theo ý kiến của
Stalin. (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội, California:
Nxb. Văn Nghệ, 1995, tt. 149-150.) Theo
cách tổ chức của đảng CSTH, lần đầu tiên đảng LĐ lập thêm chức chủ tịch và bộ
chính trị. Bộ chính trị mới thành lập gồm
bảy người. Hồ Chí Minh (chủ tịch), Trường
Chinh Đặng Xuân Khu (tổng bí thư) và các ủy viên là Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt (tức
Hạ Bá Cang), Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh. (http://www.cpv.org.vn). Làm việc cho bộ chính trị là ban bí thư trung
ương và dưới bộ chính trị là ủy ban trung ương đảng LĐ, gồm những đại diện do
các đảng bộ địa phương bầu ra.
Hồ Chí Minh tuyên bố: “Về lý luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ
nghĩa Mác-Lênin. Về tổ chức, đảng Lao Động
Việt Nam theo chế độ dân chủ tập trung.
Về kỷ luật, đảng Lao Động Việt Nam phải có kỷ luật sắt, đồng thời là kỷ
luật tự giác. Về luật phát triển, đảng
Lao Động Việt Nam dùng lối phê bình và tự phê bình để giáo dục đảng viên, giáo
dục quần chúng.” (Hồ Chí Minh toàn tập,
[tập 6], xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr.
174.)
Nhân dịp thành lập đảng LĐ, trong điện
văn gởi đảng CSTH, HCM viết: “Đảng Lao Động
Việt Nam nguyện noi gương anh dũng đảng Cộng Sản Trung Quốc, học tập tư tưởng
Mao Trạch Đông...” (Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, hồi ký. Nhóm tìm hiểu lịch sử, Portland, Oregon xuất
bản, 1991, tr. 357.)
Như thế, tuy không còn giữ tên đảng CS,
nhưng đảng Lao Động vẫn theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông,
dùng kỷ luật sắt, tập trung quyền lực tuyệt đối vào lãnh đạo đảng theo kiểu
Trung Cộng, có nghĩa là tổ chức chặt chẽ và kỷ luật nghiêm khắc hơn cả đảng
CSĐD. Quyền lực càng tuyệt đối thì đảng
Lao Động càng độc tài tuyệt đối hơn nữa.
4.-
TRỞ LẠI TÊN ĐẢNG CỘNG SẢN
Sau ngày 30-4-1975, cộng sản Bắc Việt
Nam kêu gọi sĩ quan, công chức cao cấp Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) trình diện và
chuẩn bị lương thực, để học tập trong ba ngày, hay một tuần hay một tháng tùy cấp
bậc và tùy địa phương. Khi toàn thể sĩ
quan công chức VNCH theo lời kêu gọi của CS, trình diện đầy đủ, thì tất cả bị bắt
giam trên các vùng rừng thiêng nước độc không tuyên án và không thời hạn.
Cộng sản phỉnh gạt để bắt giam trọn gói
sĩ quan, công chức VNCH nhằm mục đích triệt tiêu vĩnh viễn quân đội VNCH, đồng
thời đe dọa, cầm chân gia đình những người có thân nhân bị tù, vì nếu họ vọng động
thì thân nhân của họ khó có cơ hội trở về đoàn tụ gia đình.
Theo lệnh của Hà Nội, từ ngày 15 đến
21-11-1975, đoàn đại biểu Bắc Việt Nam (25 người) do Trường Chinh, ủy viên Bộ
chính trị đảng Lao Động, chủ tịch quốc hội, dẫn đầu vào Sài Gòn họp với đoàn đại
biểu miền NamViệt Nam (25 người) do Phạm Hùng, ủy viên Bộ chính trị đảng Lao Động,
bí thư Trung ương cục miền Nam lãnh đạo.
Vì cộng sản miền Nam hoàn toàn do đảng Lao Động miền Bắc điều khiển, nên
đây chỉ là thủ tục hình thức và hai bên quyết định dễ dàng việc thống nhất về mặt
nhà nước.
Ngày 25-4-1976, cuộc tổng tuyển cử bầu
quốc hội chung cho cả nước được tổ chức.
Kết quả là 492 đại biểu được bầu lên, đại đa số là đảng viên CS, chỉ có
một số rất ít là cảm tình viên CS. Quốc
hội khai mạc ngày 24-6-1976, họp đến ngày 3-7-1976, đi đến các quyết định sau
đây: Đổi tên nước từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam, bầu Tôn Đức Thắng giữ chức chủ tịch nước, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Hữu Thọ làm phó chủ
tịch nước, Phạm Văn Đồng tiếp tục giữ chức thủ tướng, đổi tên thành phố Sài Gòn
thành Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau khi sắp xếp công việc hành chánh, đảng
Lao Động tổ chức đại hội lần thư IV tại Hà Nội từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976,
quy tụ 1,008 đại diện, thay mặt trên 1,5 triệu đảng viên CS toàn quốc. Ngoài việc thông qua các báo cáo chính trị,
phương hướng hoạt động, sửa đổi điều lệ đảng..., đại hội quyết định đổi tên đảng
Lao Động Việt Nam thành đảng Cộng Sản Việt Nam, bầu ban chấp hành trung ương đảng,
bộ chính trị, bỏ chức chủ tịch đảng (trước đây do HCM đảm nhận), đổi chức bí
thư thứ nhứt thành tổng bí thư, và bầu Lê Duẩn giữ chức vụ nầy.
Đại hội IV lần nầy giữ theo nghị quyết
và điều lệ đảng Lao Động trong đại hội lần thứ III năm 1960 tại Hà Nội. Điều lệ đảng Lao Động sau đại hội III có đoạn
viết như sau: “Đảng Lao động Việt Nam lấy
chủ nghĩa Marx - Lenin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của
đảng. Đảng Lao động Việt Nam đi đường lối
quần chúng trong mọi hoạt động của mình.
Đảng Lao động Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ và có kỷ
luật rất nghiêm minh. Tập trung dân chủ
là nguyên tắc tổ chức căn bản của đảng.” (Điều lệ đảng Lao Động do đại hội
toàn đảng Lao Động thông qua. Báo Điện tử đảng Cộng SảnViệt Nam ngày
21-2-2011.) (Internet)
Như thế, đại hội III đảng Lao Động bỏ bớt
phần tư tưởng Mao Trạch Đông của Đại hội II và chưa thêm phần tư tưởng Hồ Chí
Minh như sau nầy. Nói chung, bản chất cốt
yếu không có gì thay đổi. Đảng Lao Động
năm 1951 chẳng khác gì đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1930. Đảng Lao Động năm 1960 chẳng khác gì đảng Lao
Động năm 1951. Đảng Cộng Sản Việt Nam
năm 1976 cũng chẳng khác gì đảng Lao Động năm 1960. Các đảng nầy là một hệ thống cộng sản xuyên
suốt từ năm 1930 cho đến ngày nay. Ồn ào
rùm beng, nhưng cuối cùng đúng như câu thành ngữ quen thuộc là “Đi vô đi ra cũng thằng cha hồi nãy”.
“Thằng
cha hồi nãy” là ai, thì ai cũng biết cả rồi. Khỏi cần minh danh và cũng chẳng cần cải
danh. Cộng sản hay Lao Động, hay tên gì đi
nữa, mà còn theo chủ nghĩa cộng sản thì cũng thế mà thôi. Nghị
quyết 1481 của Quốc hội Âu Châu họp tại Strasbourg (Pháp) ngày 25-1-2006 đã kết
án chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại và các chế độ cộng sản toàn trị
đã vi phạm nhân quyền tập thể. Rõ ràng
như vậy thì còn gì mà bám víu? Có cải
danh cũng chẳng lừa phỉnh được ai thêm một lần nữa.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 5-10-2017)