Mặc Lâm, biên tập viên RFA
“Hịch Tướng Sĩ” được viết vào năm 1285, khi cuộc xâm lăng lần thứ hai của quân Nguyên Mông đe dọa cả nước. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì đây là “bài hịch hiểu dụ các tỳ tướng”. Sau này được gọi là Hịch Tướng Sĩ, nằm trong phần lời nói đầu của “Binh Thư Yếu Lược” do Trần Quốc Tuấn soạn cho tướng sĩ dưới trướng của ông dành để học tập.
Ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông
Những trang sử chống ngoại xâm vàng son nhất của Việt Nam đều do công của Trần Quốc Tuấn lập ra. Trong khi đội quân bách chiến bách thắng của Thành Cát Tư Hãn làm mưa làm gió gần như khắp thế giới thì Việt Nam là một trong ba nước hiếm hoi cùng với Ấn Độ và Indonesia ngăn chặn được cơn hồng thủy Mông Cổ.
Cả ba lần đánh giặc, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn. Năm 1258, Trần Quốc Tuấn chỉ huy đánh chặn quân Mông Cổ ở Hưng Hoá.
Năm 1284, khi quân Nguyên Mông chuẩn bị sang xâm chiếm nước ta lần thứ 2, Trần Quốc Tuấn tổ chức duyệt quân ở Đông Bộ Đầu, đọc “Hịch Tướng Sĩ”, sau đó tổ chức rút lui binh lính để bảo toàn lực lượng.
Tháng 5 năm 1285, Trần Quốc Tuấn cho quân tổng phản công và trực tiếp chỉ huy đánh thắng trận đầu ở A Lỗ; liên tiếp thắng lớn trong các trận: Hàm Tử, Chương Dương và Vạn Kiếp.
Ba năm sau vào tháng 1 năm 1288 quân Nguyên Mông tiếp tục tràn vào xâm lược nước ta. Trong lần tấn công lần thứ 3 này quân nhà Trần chiến thắng trận Vân Đồn. Tháng 4 năm 1288, thắng lớn trong trận Bạch Đằng và trận phục kích ở ải Nội Bàng thuộc tỉnh Bắc Giang ngày nay.
Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tí, tức năm 1300 Trần Quốc Tuấn qua đời. Sau khi ông mất, vua phong ông tước “Hưng Đạo Đại Vương”, cho lập đền thờ ông ở Vạn Kiếp, Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.
Hiểu dụ tướng sĩ
“Hịch Tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo được khắc ghi trên phù điêu mới dựng tại công viên Bạch Đằng (Nha Trang). Ảnh: Trúc Nam Sơn/VietNamNet. Photo: RFA
“Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?”
Trong đoạn đầu của bài hịch, Trần Quốc Tuấn mang khá nhiều điển tích Trung Hoa làm ví dụ cho binh sĩ thấy những tấm gương trung nghĩa của lịch sử phương bắc, nhưng ngay ở đoạn kế giọng văn đã chuyển sang thể văn tự sự nhằm làm cho ba quân dưới trướng hiểu rõ hơn ý của mình. Đây là điểm cốt lõi của nguyên tắc truyền thông mà Trần Quốc Tuấn có thể được xem là người tinh tường trong thời đại bấy giờ: càng dễ hiểu bao nhiêu thì hiệu quả thông tin càng lớn bấy nhiêu.
“Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẳn tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Điếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu ! Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!”
Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ.Hịch Tướng Sĩ, HĐĐV Trần Quốc Tuấn
Ở đoạn thứ ba, Hịch Tướng Sĩ chuyển sang hẳn thể loại “hịch” là cách mà văn chương Trung Đại Việt Nam thường dùng để chiêu tập lòng người. Giọng văn từ chậm đến nhanh, khi hùng tráng lúc thống thiết, khi giận dữ lúc khoan hòa nhưng lúc nào cũng giữ một ý chính: Giặc vừa tàn ác vừa tham lam, muốn đối phó với chúng mọi người phải tận tâm tận lực.
“Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?”
Khơi lòng tự ái dân tộc
Giọng văn đi vào cao trào khi khơi gợi tự ái dân tộc, nêu ra cái nhục quốc sĩ và hệ lụy của những thú ăn chơi mà quên việc nước. Cả đoạn này có khả năng làm cho những ai còn u mê trước sự mua chuộc của giặc phải tỉnh ngộ mà quay về với bổn phận mà đất nước đã giao phó cho họ.
“Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào ! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?”
Hùng tráng, khoan hòa
Tượng Trần Hưng Đạo của điêu khắc gia Phạm Thông dựng vào giữa thập niên 1960 tại bến Bạch Đằng, Sài Gòn. Photo courtesy of Wikipedia. Photo: RFA
Chuyển sang giọng văn nhẹ nhàng và tự sự hơn, đoạn cuối cho thấy cái tâm đầy nhân bản của tác giả. Vừa kêu gọi, vừa chỉ ra điều hơn lẽ thiệt nhằm thuyết phục người nghe bằng những luận cứ xác đáng. Phảng phất trong đó là lời của cha dạy con, thầy chỉ bảo cho trò và cuối cùng mới tới cấp trên ra lệnh cho cấp dưới. Những yếu tố này tổng hợp và quyện lấy nhau một cách khéo léo, thuyết phục người nghe hoàn toàn bằng cái tâm rất lớn của một nhà văn hóa, một hào kiệt đúng nghĩa của mọi thời đại.
“Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?”
Ở đoạn kết thúc, văn phong bất ngờ trở nên nghiêm khắc và đây cũng là nét đặc sắc của bài hịch. Nó cho thấy nguời viết có cái uy dũng cần thiết để nói với ba quân vì vậy tướng sĩ dưới quyền không ai là không phục.
“Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc.Hịch Tướng Sĩ, HĐĐV Trần Quốc Tuấn
Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?
Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.”
Trong kho tàng văn học chống ngoại xâm của Việt Nam có lẽ bài Hịch Tướng Sĩ luôn dẫn đầu mọi thời đại. Không những do nghệ thuật đã đạt đỉnh cao văn học của nó mà yếu tố con người tức tác giả của bài hịch đã chiếm một phần rất quan trọng.
Trần Quốc Tuấn là một trung thần nổi tiếng mặc dù ông dư sức chiếm ngôi do quyền lực và tài năng bao trùm cả triều đình. Sự tận trung với đất nước đã buộc ông phải quên thù riêng của gia tộc mà chỉ chuyên tâm lo chống giặc ngoại xâm. Từ cái tâm trong sáng này, ông đã thu phục nhiều danh tướng tạo nên những chiến thắng hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm như Dã Tượng, Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu cùng hàng chục tướng tài khác.
Phương Bắc tuy nhiều lần xâm lược nước ta nhưng lòng kính trọng trong quân đội của họ đối với danh tướng Trần Quốc Tuấn không nhỏ. Họ gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương và sự kính trọng này đã làm nhụt chí đối phương trong nhiều năm sau khi thất trận.
Miếu thờ Hưng Đạo Vương tại Sài Gòn. Photo courtesy of Wikipedia. Photo: RFA
Trong khi ốm nặng trên giường bệnh vua Trần Anh Tông hỏi ông, nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao? Trần Quốc Tuấn đã trăn trối “Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước".
Trước khi chết ông dặn con "Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau phục".
Những bài học mà Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn để lại cho nhân dân Việt Nam không bao giờ sử dụng hết tài năng kiệt suất và cái tâm kỳ vĩ của ông. Trước bất cứ đe dọa ngoại xâm nào nhất là từ phương Bắc, thì Hịch Tướng Sĩ cùng với những gương sáng mà ông để lại sẽ là cuốn binh thư tốt nhất gối đầu giường cho những người lãnh trọng trách lèo lái đất nước.