Sunday, 25 August 2013

cảm thức vô hình - tôn thất tuệ

A picture of a vast open landscape field, dark blue sky over yellowish and green land.A picture of a vast open landscape field, dark blue sky over yellowish and green land.van Gosh
cảm thức vô hình
 tôn thất tuệ
Hôm kia (Dec 9, 2012) tôi nhận  một email, một thân hữu gởi chung ba người. Chẳng có gì, chị ấy nói đang ở Toronto và tối sẽ trở về Montreal. Tôi không quen chị ấy, không có một ý niệm gì ngoài tin tưởng chị người Huế và dân Đồng Khánh Quốc Học. Bỗng dưng, một nỗi sầu – không đúng vì thiếu chữ; một kinh nghiệm tâm linh? – quấn lấy tôi, nó không đau đớn như móng sắc đau, nhưng thâm sâu lắm. Tôi định thần thì thấy như có cái cảm quan cũ ngày trước nhân khi lần đầu tiên nghe khúc nhạc ngắn Thais của Massenet. Những dòng điện đi từ ngực ra đến đầu ngón tay ngón chân, như một suối nguồn đưa nước về các nhánh sông. Khó tả, nó mang tính chất huyền nhiệm, cọng với tiếng phong linh mơ hồ trong chiều đông.
Mỗi lần nằm mộng  thấy người quen tôi hay nói cho vợ biết để cùng cầu nguyện. Người trong mộng có thể là nhân vật hai đứa đều biết hay chỉ một mình tôi biết trên đời. Có khi là ông đưa thơ, có khi là ông chú, bà cô, có khi là cô bạn học lúc mới lên đệ thất.  Sau giấc mơ tôi thường thức dậy, tiếp tục cười, tiếp tục vui, tiếp tục buồn chốc lác rồi thôi, và chỉ giữ lại nét mặt để kể cho vợ. Nhưng đây, chị ấy tôi chưa biết hình dáng, chỉ là một être, một being, một hiện hữu và không đến từ một giấc mơ.
Tự nhiên tôi hình tượng một con người đi từ Toronto về Montreal;  hai nơi nầy rất xa lạ so với các nơi tôi chưa đến nhưng có nghe nói hay đọc về địa dư. Tàu bay? Tàu điện? xe hơi? Freeway láng bóng hay sần sù? Tuyết phủ hay đá trơn?
Những nét xa lạ ấy không phải là nền tảng của một nỗi suy cảm khó diễn tả. Khắp nơi ở các nước phát triển, phương tiện giao thông gần giống nhau; không cẩm lệ mụ Thôi thì cẩm lệ mụ Cửu Ới. Không McDonald thì Burger King. Trên những con đường quen tôi vẫn có những bâng khuâng rất bâng quơ.
Lên về Atlanta thăm con thăm cháu hay mua thực phẩm, tôi phải dùng freeway 75, một trong hai con lộ chính của sườn đông như freeway 5  ở sườn tây Mỹ. Sau cái ồn ào tấp nập của đảng người bay là con đường tiểu bang chỉ có hai lối ngược xuôi nhưng vẫn được lái 55 miles. Hạ sơn và qui ẩn chỉ trong một ngày, cho nên tôi đều trở về khi chiều xuống chậm, hàng cây ngả nắng làm cho đường nhựa đen hơn. Ai cũng mở đèn an toàn như tối lắm.
Vì chỉ một lối cho nên chậm nhanh tùy xe trước mình. Tôi thường đi sau. Tỉnh lộ GA140 chạy đông tây, có những ngõ rẽ, phần nhiều khá ngắn như những ngõ cụt; khách đi qua khó biết dài ngắn vì cây che khuất, nhà cửa lưa thưa trên những trang trại nhỏ. Nông cơ nông cụ cũ gỉ sét được kéo ra trước nhà làm vật trang hoàng. Đã mấy chục năm nay giới nhà nông đã bỏ nghề, đi làm công ở các hãng xưởng dọc các freeway nhưng vẫn ở nhà cũ còn giữ nguyên thời thịnh nông, với cái vựa (barn), chuồng ngựa, những bành cỏ chờ mục…
Những người làm công ấy chạy trước tôi. Đến một khúc quanh có người đổi hướng, cả đoàn phải dừng lại. Tôi nhìn chiếc xe kia từ tốn vào vùng đất riêng. Xe ấy ra khỏi dòng luân lưu chung. Với tôi đó là một lần chia tay. Nó mang tính chất ngậm ngùi, như những ngày trước tết và sau tết tôi thường lên ga Huế đón đưa chung đoàn người không quen về quê và xa quê để bắt đầu một năm nữa. Tuy là cảnh thương vay, nó vẫn đầy âm hưởng bền dai.
Tôi cảm thấy yên ổn vì những người vừa tách riêng ấy đã về được nhà. Có nơi mấy đứa bé núp sau lùm cây dọa ma và người về giả bộ sợ thật, ngã đùng ra sân để chúng cười sung sướng. Có người đưa tay chùi trán mà hiểu lời dạy của tiền nhân: Que tu gagnes ton pain par la sueur de ton front, trước khi bình thản bước vào home sweet home, để quên đi ban sáng ông chủ đã chửi mình thậm tệ một cách vô lý.
Tôi cảm thấy yên ổn vì nó ứng hiện lời cầu nguyện của vợ chồng tôi vào các thời kinh: xin mọi người được bình an, đi tới nơi về tới chốn. Và tôi hưởng sự bình an để đem con ngựa sắt chạy thêm 40 miles về đến nhà. Vội vã chạy xuống green house đốt lửa cho khói thật nhiều để người đi bên ngoài nhìn vào thấy ấm, mất đi cái  lạnh lùng nêu trong cổ thi: kim dạ hà xứ túc, bình sa vạn lý tuyệt nhân yên. (đêm nay ta ngụ nơi nào, trước mắt cát bằng ngàn dặm, không thấy khói nhà ai nấu cơm chiều).
Tôi vẫn sống trong những cái lẩm cẩm vu vơ, lắm khi quên ăn để chứng nghiệm một bài thơ, để tìm hiểu sự khác biệt và đồng nhất, ví dụ đồng nhất là chống lạnh nhưng vịt thì xuống hồ ngủ trên nước đá mà gà thì chui vào ổ rơm. Tôi vẫn sống trong những cảm nghiệm vô hình đầy tính chất linh khải của một tình người vô lượng vô biên, nhưng dè dặt luôn tự hỏi mình có còn, có có tâm cảm hay không.
Chiều hôm kia, giữa cánh đồng cỏ vàng như lúa chín, giữa cái nắng yếu tranh dành không gian với sương núi, giữa những tiếng phong kinh kêu gọi, tôi vẫn dành tâm cảm cho chị ấy đang còn ở Toronto. (Ước mong) trên đường về Montreal, sau chị có một người. Không phải là kẻ si tình, không phải là kẻ quấy nhiễu rình rập, mà là một hiền nhân, một ange gardien bảo vệ chị, không dùng súng, mà bằng một ý lực tình người. Chị ấy sẽ được bảo vệ. Qu’elle soit protégée.-----