Thursday 1 August 2013

NHỮNG BÀI HỌC CHO TỔNG THỐNG BARACK OBAMA.


Nguyễn Quang Duy

Ông bà ta dạy “đi một ngày đàng học một sàng khôn”, lần này Tổng Thống Hoa Kỳ Obama ở nhà lại học được một sàng khôn.

Bài học đầu tiên là tác phong thực dụng của ông Trương Tấn Sang Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Không như các chính trị gia khác, ông Sang không cần quan tâm đến kiểu đón tiếp ngọai giao, không cần đại bác, không cần cờ xí thảm đỏ, không cần những buổi tiếp tân do Tòa Bạch Ốc chiêu đãi. Cái ông Sang cần là kết quả, là sự hiểu biết khác biệt, là Việt Mỹ tiến đến hợp tác tòan diện, là hòa hợp với người Mỹ gốc Việt, là công khai trao phong bì tận tay Tổng Thống Mỹ.



Kết quả cụ thể đã được nêu rõ trong Bản Thông Báo Chung: nâng cấp quan hệ giữa hai nước Việt Mỹ lên một tầm mức mới. Quan hệ mới này dựa trên các nguyên tắc "tôn trọng Hiến chương Liên Hiệp Quốc, luật pháp quốc tế, hệ thống chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau". Cũng chỉ vì thiếu tác phong thực dụng và phân tích thực tiễn, 67 năm qua chưa ai làm được điều này.

Vấn đề nhân quyền là vấn đề được phía Mỹ đưa ra và thường dẫn đến chỗ bế tắc. Lần này đã được ông Sang thẳng thắn trao đổi với ông Obama. Kết qủa là cả hai bên “tái khẳng định cam kết ủng hộ Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người”.

Về phía Việt Nam việc quảng bá Hiến Chương và Tuyên Ngôn cần được định hướng, không thể tùy tiện phổ biến trong “các cuộc dã ngọai nhân quyền”, gây rối công cộng, vi phạm luật pháp Việt Nam. In ấn các tài liệu cũng cần có giấy phép. Không để các “thế lực thù địch” lợi dụng quyền công dân ảnh hưởng đến độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Ông Sang còn khẳng định “Vấn đề nhân quyền vẫn còn nhiều khác biệt”. Ở Hoa Kỳ, Tổng Thống lúc nào cũng có quyền ký đơn ân xá. Còn ở Việt Nam, để được khoan hồng tù nhân phải biết hối cãi nhận tội, rồi phải biết xin khoan hồng để được Bộ Chính Trị quan tâm cứu xét.

Blogger Điều Cày Nguyễn văn Hải vẫn ngoan cố, thà tuyệt thực đến chết không ký đơn nhận tội. Theo Hiến Pháp 1992 và theo quyết định của Bộ Chính Trị, Chủ Tịch nước như ông Sang không thể ký quyết định ân xá.

Trong cuộc họp ông Sang mời ông Obama sang thăm Việt Nam để tận mắt chứng kiến, nhà nước Việt Nam là nhà nước của nhân dân. Khách của chủ tịch nhà nước sẽ không bao giờ phải gặp thiểu số chống đối. Ông Sang cho biết hai triệu người Mỹ gốc Việt thành công về cả kinh tế lẫn chính trị “vẫn duy trì quan hệ mạnh mẽ với Việt Nam”. Có người còn công khai tuyên bố nhờ có “Đảng” mới được thành người Mỹ gốc Việt. Ngòai kia chỉ ít người “còn chút hận thù” hay “muốn kiếm thêm chút tiền tiêu vặt”. Họ là thiểu số việc gì Tổng Thống phải bận tâm.

Làm Tổng Thống phải mạnh mẽ, phải cương quyết và phải nhanh chóng thì mới làm nên đại sự. Việc thông qua Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có gì khó khăn mà Tổng Thống phải lập đi lập lại hai chữ tham vọng, nào là “nỗ lực vô cùng tham vọng” rồi “mục tiêu tham vọng”. Tháng trước ông Sang ký một lượt 10 văn kiện giữa 2 đảng Cộng sản Việt Hoa. Ký không cần đọc, ký trước tính sau, ký sai thì sửa.

Lãnh đạo là người phải uyển chuyển và chủ động. Theo lịch trình tháng 9 mới thăm Hoa Kỳ, nhưng trong tháng 7 nếu thấy cần là thu xếp sang ngay. Nếu ông Obama thấy cần thông qua Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương thì cứ mang bản nháp ra ông Sang đã sẵn sàng để ký. Ký rồi thực thi là chuyện của phía thừa hành. Làm lãnh đạo phải mạnh mẽ, cương quyết và nhanh chóng như vậy mới được việc.

Lãnh đạo gặp nhau phải có chút quà cáp qua lại, thể hiện văn hóa phong bì. 67 năm về trước chủ tịch Hồ Chí Minh đã gởi phong bì cho Tổng Thống Harry S. Truman nhưng vì không được trao tận tay, nên đã không được trả lời.

Phong bì là món quà đột xuất tạo sự ngạc nhiên cho Tổng Thống Obama nên không cần đưa vào chương trình nghị sự. Quyết định gởi quà là quyết định của Bộ Chính Trị nhằm giáo dục ông Obama và phân hóa thế lực thù địch. Còn quyết định tạo bất ngờ không đưa vào chương trình nghị sự chính là của ông Sang. Mười phút trao quà là chuyện nhỏ. Lãnh đạo chỉ nên nghĩ về chuyện lớn.

Nhờ món quà, Tổng Thống Obama mới biết “Hồ Chí Minh thực sự có cảm hứng nhờ Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp Hoa Kỳ, và những lời nói của Thomas Jefferson. Hồ Chí Minh đã nói ông muốn hợp tác với Hoa Kỳ.” Điều này rõ ràng nhóm cực hữu không biết hay không muốn biết.

Những người cộng sản Việt Nam luôn muốn hợp tác tòan diện với Hoa Kỳ. 67 năm đã trôi qua và nếu cần thêm 67 năm nữa người cộng sản như ông Sang vẫn sẵn sàng kiên nhẫn chờ đợi phía Hoa Kỳ. Phía Việt Nam thời giờ không phải là vấn đề quan trọng và cấp bách. Dân Việt Nam nhẫn nhục quen rồi.

Bài học học khác là 1 giờ Mỹ bằng 2 giờ Việt. Như vậy 45 phút giờ Hoa Kỳ cho buổi gặp gỡ bằng 1 tiếng rưỡi giờ Việt Nam. Cũng như vấn đề nhân quyền giữa 2 nước Việt Mỹ vẫn còn nhiều khác biệt. Tổng Thống Obama cần tôn trọng giờ Việt Nam. Nếu ông Obama cần gặp giới lãnh đạo Việt Nam ông Sang sẽ gởi tặng một đồng hồ “made in Vietnam”.

Bài học này quan trọng vì lãnh đạo Việt Nam đều từ tốn và vô tư. Có biết thế Tổng Thống Obama mới không xúc phạm đến chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Có biết thế, trước ống kính báo chí ông Obama mới kiên nhẫn không ngồi nghĩ hay làm chuyện khác, mới không đưa đồng hồ nhắc nhở đến giờ phải “go home”. Trước ống kính truyền hình làm vậy đã sức mẻ phần nào tư cách của người lãnh đạo Hoa Kỳ.
Bài học về thông dịch cũng là bài học đáng chú ý. Ông Sang cho biết Tổng Thống Obama đã “nhận lời mời thăm Việt Nam trong nhiệm kỳ này”. Lạ một điều khi thông dịch viên dịch ra tiếng Mỹ cho ông Tổng Thống Obama nghe, người thông dịch tỏ ra khá lúng túng, dịch sai, chính thức xin lỗi, rồi dịch lại. Lời tiếng Mỹ khi được dịch lại tiếng Việt lại nghĩa là Tổng Thống Obama hứa sẽ “…cố gắng thăm Việt Nam trước khi hết nhiệm kỳ”. Cách trả lời như vậy ngụ ý ông Obama chưa có ý định, chưa có nhu cầu thực tế để thăm và làm việc với phía Việt Nam.
Nhìn chung chỉ chưa đầy 1 tiếng rưỡi gặp gỡ, Tổng Thống Obama đã học được rất nhiều điều để có thể hiểu mà “Đối Tác Tòan Diện” với phía Việt Nam.
Nhưng bài học lớn nhất mà Tổng Thống Obama học được là chớ có dại mà mời lãnh đạo cộng sản Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ.
Nguyễn Quang Duy
1/8/2013
NHÂN QUYỀN TỐT HƠN SẼ GIẢM THUYỀN NHÂN.
Nguyễn Quang Duy

Rời đất nước đã là một quyết định khó khăn. Ra đi trên một chiếc thuyền thiếu an tòan, thiếu nước, thiếu lương thực, lênh đênh trên biển hằng tháng, không biết bến bờ, không biết sống chết và không biết có được chấp nhận là thân phận của các thuyền nhân. Những người không còn cơ hội để lựa chọn khác hơn.
Là một thuyền nhân tị nạn cộng sản đang định cư tại Úc, xin chia sẻ một số suy nghĩ và nhận định về các làn sóng thuyền nhân đến Úc, một đề tài luôn gây nhiều chú ý và tranh cãi.
Tổ tiên thổ dân Úc đến Úc bằng thuyền. Người Tây Phương đến Úc bằng thuyền. Người tị nạn cộng sản Nga và Đông Âu đến Úc bằng thuyền. Người tị nạn Đông Timor đến Úc bằng thuyền. Người Việt, rồi người Afghanistan, Pakistan, Sri Lanka, Iran, Iraq… đến Úc bằng thuyền. Phải chăng Úc là quốc gia của thuyền nhân?
Vừa rồi, tôi có tham dự một sinh họat cộng đồng, vị quan khách được mời chính là cựu Thủ tướng Tự Do Malcolm Fraser. Ông một ân nhân cộng đồng, giữa thập 1970, trong khi nhiều chính trị gia còn đeo đuổi chính sách Úc châu của người da trắng, ông Fraser đã đứng ra đấu tranh và ban hành chính sách định cư người Việt tại Úc. Ông là một nhà lãnh đạo có tài, có đức luôn sẵn lòng đấu tranh cho những người bất hạnh, cho thổ dân, cho thuyền nhân.
Thế nhưng trong thời gian ông làm Thủ Tướng, số thuyền nhân Việt đến Úc gia tăng, gây ra nhiều tranh cãi và thúc đẩy chính phủ Fraser tích cực hổ trợ xây dựng các trại tị nạn tại Đông Nam Á và nhanh chóng nhận chục ngàn thuyền nhân đến Úc định cư.
Năm 1989, khi các trại tị nạn cộng sản Đông Nam Á đóng cửa, thuyền nhân phải qua thanh lọc, lại một lần nữa con số thuyền nhân Việt đến Úc đột ngột gia tăng. Đến năm 1992, chính phủ Lao Động Paul Keating phải ban hành luật giữ các thuyền nhân trong các Trung tâm để thanh lọc và cứu xét các hồ sơ xin tị nạn.
'Thuyền nhân thế hệ mới'

Đến đầu thập niên 2000, một làn sóng thuyền nhân mới từ Nam Dương hay Mã Lai đã đổ xô đến Úc. Đa số các thuyền nhân xuất phát từ Afghanistan, Pakistan, Iran, Iraq hay Sri Lanka, họ đến Nam Dương hay Mã Lai mượn đường sang Úc. Để đối phó chính phủ Tự Do John Howard cho ban hành Giải pháp Thái Bình Dương giữ thuyền nhân tại hai đảo Nauru và Manus của nước Papua New Guinea, họ chỉ được cấp giấy bảo vệ tạm thời và một số tàu tỵ nạn đã bị kéo ra khỏi hải phận Úc bỏ lênh đênh trên biển.
Chính sách của Chính phủ Tự Do Howard đã bị công luận lên án gắt gao, nhất là khi một số thuyền nhân đã tử nạn do bị Hải Quân Úc kéo ra khỏi hải phận Úc bỏ lênh đênh trên biển. Cựu thủ tướng Tự Do Malcolm Fraser đã phản đối chính sách này bằng cách bỏ đảng Tự Do, ông cho biết đảng này không còn phục vụ lý tưởng tự do mà ông hằng đeo đuổi.
Khi Chính phủ Lao động Kevin Rudd được bầu lên, giải pháp Thái Bình Dương đã bị tức thời bãi bỏ. Nhưng Thủ Tướng Kevin lại không đưa ra được giải pháp thay thế, số thuyền nhân lại tiếp tục gia tăng và đây là 1 trong những lý do ông đã bị bà Julia Gillard đảo chánh.
Chính phủ Julia Gillard đưa ra Giải pháp Đông Timor và Giải Pháp Mã lai nhưng đều bị Tối Cao Pháp Viện Úc phán quyết là bất hợp pháp. Cuối cùng tháng 8-2012 bà Julia đã phải quay lại giải pháp Thái Bình Dương do Chính phủ Tự do Howard đề ra.
Hiện có trên 40,000 hồ sơ thuyền nhân xin tị nạn chưa được cứu xét và từ đầu năm 2013 đến nay đã có trên 15,000 thuyền nhân mới đến Úc. Hằng năm chi phí lên đến hằng tỉ Úc kim là 1 lý do để không ít người Úc đòi hỏi chính phủ phải có một giải pháp mang lại kết quả cụ thể. Ngày 26-6-2013, ông Kevin lật đổ bà Julia.
Đến ngày 19-7-2013, Thủ Tướng Úc Kevin Rudd và Thủ Tướng Papua New Guinea Peter O'Neill đã ký một 'Hiệp định Định cư trong Khu vực'. Ông Kevin cho biết "…bất kỳ thuyền nhân nào đến Úc để xin tỵ nạn sẽ không được tiếp nhận định cư ở Úc…". Theo hiệp định này, những thuyền nhân đến Úc sau khi Hiệp Định được ký kết sẽ bị chuyển đến Papua New Guinea để được cứu xét và định cư tại quốc gia này. Cũng theo hiệp định, trung tâm tạm giữ trên đảo Manus sẽ được mở rộng để có thể chứa 3.000 thuyền nhân.
Hiệp định vừa được thông báo thì ngay ngày hôm sau, ngày 20-7-2013, một cuộc bạo loạn đã xảy ra tại trung tâm tạm giữ trên đảo Nauru. Tòan trung tâm bị đốt phá không còn tiếp tục sử dụng được. Rồi tin tức cho biết những thuyền nhân trong trung tâm trên đảo Manus bị hiếp, bị bạo hành, bị khủng bố,… nhân viên điều hành biết được nhưng không có hành động cụ thể nào…Đảng Đối Lập Tự Do cho rằng Chính Phủ Lao Động sẽ thành lập các lều tị nạn trên Papua New Guinea.
Úc là thành viên đã ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Người Tỵ Nạn 1951 và theo Công Ước này, Úc phải có bổn phận giúp đỡ người tầm trú trong thời gian họ nộp đơn xin tị nạn. Điều kiện tồi tệ và an tòan ở các Trung tâm tạm giữ trên đảo Manus và Nauru luôn là nỗi ưu tư của Cao ủy Liên Hiệp Quốc và của các Tổ chức Nhân Quyền và Người Tị Nạn.
Bởi thế giải pháp Papua New Guinea của Thủ Tướng Kevin Rudd đã gặp ngay phản ứng của các Tổ chức Nhân Quyền và Người Tị Nạn. Giải pháp này có thể bị đưa ra Tối Cao Pháp Viện, có thể sẽ được phán quyết là bất hợp pháp, cũng như các giải pháp đã được chính phủ Lao Động Julia Gillard đưa ra năm 2008.
Khi thuyền nhân đã được nhận là người tị nạn, đương nhiên họ có quyền xin được định cư tại Úc, nhất là những người đã có gia đình đang sinh sống tại Úc. Như vậy giải pháp và tuyên bố của Thủ tướng Kevin có thể chỉ có giá trị xin phiếu cho kỳ tranh cử vài tuần sắp tới.
Rõ ràng vấn đề thuyền nhân là một vấn đề gây nhiều tranh cãi và vẫn chưa có giải pháp cụ thể để giải quyết. Nói thẳng ra vấn đề thuyền nhân phải giải quyết từ gốc, từ nguyên nhân đã tạo ra hiện tượng thuyền nhân.

Không ngừng ra đi


Trường hợp Việt Nam khi đảng Cộng sản còn đó, còn độc quyền chính trị, còn đàn áp nhân quyền thì vẫn còn người tị nạn cộng sản.
Những năm 2006, để gia nhập các tổ chức quốc tế đảng Cộng sản đã phải ngừng tay đàn áp Phong Trào Dân Chủ. Những năm này gần như không có các thuyền nhân Việt Nam đến Úc.
Khi đã được gia nhập các tổ chức quốc tế, đảng Cộng sản lại xuống tay đàn áp và càng ngày càng trở nên tàn bạo hơn. Đảng Cộng sản càng đàn áp thì số người bỏ nước ra đi càng gia tăng. Năm 2010 chỉ 31 người, năm 2010 tăng lên 101 người, đến năm 2012 có 50 người, thì năm 2013 tính đến ngày ông Kevin Rudd thông báo giải pháp mới đã có 759 người Việt đến Úc bằng thuyền.
Đa số thuyền nhân là những người công giáo bị đàn áp do tranh đấu bảo vệ giáo xứ Thái Hà, một số khác bị khủng bố trong các vụ tranh tụng đất đai bị nhà nước trưng thu, cũng có người là thành viên của các tổ chức đấu tranh như Khối 8406.
Để được chấp nhận là người tị nạn, các thuyền nhân phải chứng minh họ lo sợ bị đàn áp, bị hành hạ, bị bắt bớ bị tù đày, vì lý do chính kiến hay vì sự kỳ thị chủng tộc kỳ thị tôn giáo theo điều khoản thứ nhất trong Công ước quốc tế về người tỵ nạn 1951.
Cộng sản Việt Nam sử dụng các điều luật hình sự vu vơ như điều 79, điều 88 và đặc biệt điều 258 để khép những bản án vô lý. Việc nhà báo Trương Duy Nhất và nhà báo Phạm viết Đào bị bắt thì ai viết blog, ai sử dụng Facebook cũng khó tránh khỏi có ngày vào tù.
Chỉ cần tham dự 1 cuộc biểu tình là bị an ninh theo dõi. Chỉ cần diễn đạt chính kiến như nhà báo Nguyễn Đắc Kiên là bị mất việc. Nhiều người bất đồng chính kiến bị từ chối xuất hay nhập cảnh Việt Nam. Những người bất đồng chính kiến bị cô lập kinh tế, bị khủng bố tinh thần, bị kiểm sóat đi lại, bị bạo hành, bi tù đày.
Dân oan bảo vệ đất bị đàn áp. Tín đồ Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài vì không theo các giáo phái quốc doanh bị đối xử kỳ thị. Những hòan cảnh nêu trên đều là những bằng chứng để chứng minh là người tị nạn cộng sản.
Khi đến Úc các thuyền nhân được lập hồ sơ và sau đó được Bộ Di Trú cứu xét. Các đơn xin bị bác, sẽ được Tòa Án Tài phán Tị nạn (Refugee Review Tribunal) cứu xét và phán quyết. Nếu Tòa Án này bác, người tầm trú có thể kháng cáo lên Tòa Án Tối Cao.
Với một hệ thống hành pháp và tư pháp độc lập như thế có đến 90 phần trăm các thuyền nhân đến Úc được chấp nhận là tị nạn chính trị. Tỷ lệ được chấp nhận tị nạn chính trị có thể cao hơn cho các thuyền nhân Việt Nam. Chỉ vài trường hợp thuyền nhân Việt bị bác đơn và tự nguyện xin quay về nguyên quán.
Nhìn chung, thuyền nhân là một vấn đề chưa có giải pháp cụ thể và luôn được tranh cãi. Giải pháp cho vấn đề phải phát xuất từ nguồn đã tạo ra hiện tượng thuyền nhân. Khi nhân quyền đã được tôn trọng, khi quyền mưu cầu hạnh phúc đã được bảo đảm, người dân sẽ không bỏ nước ra đi, hay nếu muốn đi họ sẽ tìm những phương cách an tòan hơn thay vì phải trở thành những thuyền nhân lênh đênh trên biển không biết số phận ra sao.

Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
26/7/2013