Cần Thơ, Cần Giuộc, Cần Giờ…
Cần nào cần… cấp đổi cờ Việt Nam?
Trảng Bàng, Cần Đước, Trảng Bom
Trảng nào lập lại cảo thơm anh hùng?
Bình Tuy, Bình Định, Bình Dương
Bình nào bình… định? Can trường dân oan?
Bảo An, An Lộc, Nghệ An…
An nào an… táng vô thần bất công?
Bình Long, Long Khánh, Vĩnh Long
Long nào long huyệt: Tiên Rồng đừng…giun?
Thanh niên! Xin hãy trực ngôn,
Trổ tài thao lược càn khôn, dân nhờ.
Ý Nga xin phép và đa tạ:
Quý Tác Giả cùng Người Chuyển về
những tranh, hình ảnh đã sưu tầm và chọn lọc cho thơ.
XIN MỜI BẠN
LY CÀ PHÊ CHỐNG CỘNG
Kính tặng Tuổi Trẻ VN Yêu Nước.
Xin mời Bạn ly cà phê buổi tối
Uống cùng tôi, mình chia sẻ thầm thì
Đã làm gì cho công lý? Ích chi:
Chẳng lập chí tuổi xuân thì PHÙ ĐỔNG?
Nấu bằng nước HÁT GIANG: trong, uy dũng,
Cà phê rang với LỜI HỊCH DƯỚI CỜ,
Rồi đem xay cùng những CHIẾN ĐẤU THƠ,
Đun từ Lửa Đấu Tranh TRẦN BÌNH TRỌNG.
Xin mời Bạn ly cà phê chống Cộng
Bên lửa hồng, lời bất dũng quyết KHÔNG!
Trước gia vong KHÔNG tuyệt vọng nãn lòng
Cộng Tàu, Việt? Cộng nào ta cũng chống!
Vì dân tộc, Non Sông chọn đường sống
Phải tâm đồng mà hành động Chị, Anh
Tuổi thanh niên liều lĩnh, chết cũng đành.
Có bản lãnh thực hành, đừng tránh né!
Xin mời Bạn ly cà phê tuổi trẻ
Pha vụng về, xin huynh, muội đừng chê
Cà phê Ý, đắng như mật Đất Quê
Không đường, sữa nhưng thơm lừng hương vị.
Khắp thế giới ta đi, tìm tri kỷ
Làm gì đây trước “ma quỷ” hồng kỳ,
Để cứu nguy, hỡi chí sĩ, nam nhi?
Cùng suy nghĩ, hỡi nữ nhi CHÍNH TRỰC!
Xin mời Bạn chia cùng dân tủi nhục
Hãy cùng tôi thao thức trọn đêm này
Ừ! Đêm nay, mình lấy đêm làm ngày
Từ Móng Cái, Phú Bài, Vinh, Yên Bái…
Từng bươn chải: Huế, Sài Gòn… không ngại:
Từ Đồng Nai, Quảng Ngãi, Huế, Lào Cai…
Cùng Gia Lai, Đại Ngãi tới Đồng Xoài…
Từng khẳng khái chờ ngày sang trang sử.
Xin mời Bạn nhâm nhi từng ngụm, thử
Có đắng như TRANG SỬ NHỤC THÁNG TƯ?
Có mặn như bao dòng lệ chảy dư?
Nhòa huyết sử một Việt Nam cam chịu.
Tôi mời Bạn hương tuyệt thơm: HOÀNG DIỆU,
BÙI THỊ XUÂN, NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN TRI PHƯƠNG,
NGUYỄN PHI KHANH, LÊ LỢI, HỊCH CẦN VƯƠNG,
LÝ THƯỜNG KIỆT, DẠ TRẠCH VƯƠNG*, TRƯNG, TRIỆU
Mời Bạn uống cùng tôi, dù bận bịu
Ta phải LIỀU mới cứu nỗi Quê Cha,
Ta phải LIỀU cho bao triệu dân ta,
“Máu phải đổ, HOA TỰ DO mới nở”*
TRẦN QUỐC TOẢN với trái cam phẫn nộ
Còn bồng con: PHÙNG THỊ CHÍNH* cam go,
Tay cầm gươm đôn đốc lính, dặn dò
Ôi nhi nữ! Khí phách LIỀU ngời sáng!
HOÀNG HOA THÁM, AN DƯƠNG VƯƠNG, CAO THẮNG,
TÔ HIẾN THÀNH, ĐINH CÔNG TRÁNG, HUYỀN TRÂN,
ĐẶNG DUNG, ĐINH BỘ LĨNH, TỐNG DUY TÂN,
TRẦN HƯNG ĐẠO, LÊ LAI, TRẦN NHẬT DUẬT,
Thấm lòng đất, máu anh hùng bất khuất
Công mở mang, giữ đất, quý vô ngần!
Cùng nằm gai, nếm mật, gương tiền nhân
Không khuất tất, tri và hành hiệp nhất!
LÊ QUANG DIỆU, LÊ CHÂN, NGUYỄN THIỆN THUẬT,
PHAN ĐÌNH PHÙNG, NGUYỄN HUỆ, rồi PHẠM BÀNH,
NGUYỄN HOÀNG, LÊ VĂN DUYỆT, LÊ ĐẠI HÀNH,
NGUYỄN TRUNG TRỰC, YẾT KIÊU, PHẠM NGŨ LÃO…
Bao xương máu, gương anh hào dạy bảo
Cớ làm sao giặc vênh váo tràn vào?
Cớ làm sao dân nuốt hận nghẹn ngào,
Đảng lếu láo góp thêm vào tàn bạo?
Tôi mời Bạn, chúng ta cùng đàm đạo
Phải làm sao vùng dậy? Phải thế nào?
Biết cà phê quá đắng, chẳng ngọt ngào
Nhưng cường bạo phải thay bằng CHÍNH ĐẠO?
Đêm tỉnh táo mình bàn nhau: xông xáo
Nào binh thư, nào chiến lược thấp cao
Nào gian lao khởi nghĩa, bao phong trào
Xin mời Bạn vung giùm THANH GƯƠM BÁU!
Ý Nga và Thế Vinh, 19-9-2013.
*Lời của NGUYỄN THÁI HỌC.
*TRIỆU QUANG PHỤC còn được xưng là DẠ TRẠCH VƯƠNG (VUA ĐẦM LẦY > Đầm Dạ Trạch có nhiều rắn, yếu tố chính gây trở ngại cho các cuộc tấn công của giặc).
*PHÙNG THỊ CHÍNH là 1 nữ tướng thời Hai Bà Trưng. Tương truyền bà vừa sanh xong đã dẫn quân đánh giặc, 1 tay bồng con, 1 tay cầm kiếm đôn đốc quân sĩ tiến lên.
Theo wikipidea: http://vi.wikipedia.org/wiki/Gia_Long
*Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (阮福暎 hoặc 阮福映; thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.Triều đại của ông được đánh dấu bằng việc chính thức sử dụng quốc hiệu Việt Nam với cương thổ rộng lớn nhất cho đến thời đó, kéo dài từ biên giới với Trung Quốc tới vịnh Thái Lan, gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa[1]; thay thế các cải cách có xu hướng tự do của triều Tây Sơn bằng nền giáo dục và điều hành xã hội theo Nho giáo khắc nghiệt hơn; định đô tại Phú Xuân. Ngoài ra, ông còn là người mở đường cho các ảnh hưởng của người Pháp ở Việt Nam qua việc mời họ giúp xây dựng các thành trì lớn, huấn luyện quân đội và khoan thứ cho việc truyền đạo Công giáo. Dưới triều đại của ông, Việt Nam trở thành một thế lực quân sự hùng mạnh ở Đông Dương, cùng Xiêm La phân chia ảnh hưởng đối với Chân Lạp.
*Trần Quang Diệu (chữ Hán: 陳光耀; 1760[1] – 1802) là một trong Tây Sơn thất hổ của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông cùng với vợ là nữ tướng Bùi Thị Xuân đã cố sức chiến đấu để bảo vệ vương triều.
Cộng Đồng Công Giáo quốc nội sát cánh bảo vệ nhau