Văn Sinh là một cựu sinh viên Văn Khoa thiên về Triết Đông cho nên tính khí cũng có hơi bất thường. Bất thường ở đây không có nghĩa là “mát dây” mà ưa suy nghĩ về những gì con người không suy nghĩ hoặc những gì mà cả xã hội cho rằng “Ôi dào! Đời là thế, suy nghĩ làm gì cho mệt!”
Vào ngày 29-4-1975 khi còn đang chạy đôn chạy đáo tại Bến Bạch Đằng giữa cơn hoảng loạn cực độ của Sài Gòn thì may đâu gặp một ông bạn thiếu úy hải quân, thấy Văn Sinh còn đang ngơ ngác như con nai vàng, bèn quát “Giờ này mà mày còn ở đây, điếc không sợ súng hả?” Thế là Văn Sinh hối hả phóng lên tàu, theo dòng người di tản tiến ra Biển Đông.
Sau khi định cư vào Mỹ, hai năm vật lộn với tiếng Anh qua chương trình ESL (1), sau đó học bốn năm đại học rồi cũng lấy được bằng kỹ sư điện tử, đời sống tương đối ổn định.
Vì tính khí bất thường cho nên Văn Sinh ưa suy nghĩ về những gì vẩn vơ chẳng hạn như vấn đề thành thực của con người. Câu hỏi “lớn” mà chàng đặt ra là tại sao con người không bao giờ thành thực với nhau mà toàn là những điều giả dối. Giả dối trong cách sống, trong lời ăn tiếng nói đã đành mà còn giả dối ngay cả trong tiếng khóc tiếng cười nữa. Nhớ lại thời thơ ấu Văn Sinh cũng không khỏi bực bội cả với bố mẹ mình. Có một lần ông cụ bà cụ dẫn Văn Sinh đi ăn cơm tại một nhà của bà bạn. Suốt bữa cơm bà cụ cứ khen nức nở, nào là “Anh chị nấu cơm khéo quá! “ Thế nhưng khi về nhà thì cũng chính cụ lại phàn nàn “Canh thì mặn chát. Bún thì khô. Chả thì ướp chưa đậm đà và nướng cháy khét!” Lúc đó vì còn bé cho nên chàng không hiểu gì cả. Thế nhưng bây giờ thì chàng thắc mắc tự hỏi tại sao lúc đó bà cụ không nói thẳng cho chủ nhà biết để lần sau họ rút kinh nghiệm nấu ăn khá hơn? Còn chuyện bà chị nữa. Có một lần người bạn trai mời chị đi chơi. Không hiểu vì lý do gì mà chị trả lời là chị mắc bận cho nên không đi được. Thế nhưng cũng tối hôm đó khi tâm sự với mấy đứa em, chị nói muốn đi lắm nhưng sợ xấu hổ cho nên trả lời là bận. Văn Sinh tức quá nói “Tại sao chị không nói thẳng cho anh ấy biết là chị muốn đi với anh nhưng mắc cở. Chị trả lời như thế làm anh ấy tưởng rằng chị không “thương” anh ấy khiến câu chuyện có thể đi vào đổ vỡ. Tại sao chị không nói thẳng ý nghĩ của mình?”
Còn chuyện cộng đồng ở đây nữa. Người ta khen nhau giả dối, “mặc áo thụng vái nhau” quá nhiều, nhất là các buổi ra mắt sách. Trên sân khấu ông giới thiệu đang hăng hái ca ngợi ông bà tác giả: Đây là một tác phẩm có giá trị nhất. Thơ của bà đây có thể sánh ngang với các thi hào trên thế giới. Truyện ngắn của ông đây là những truyện ngắn hay nhất tại hải ngoại mà tôi đọc được. Không hiểu ông giới thiệu này đã đọc hết mấy ngàn truyện ngắn xuất bản ở hải ngoại chưa mà kết luận như vậy? Còn bên dưới thì khán giả vỗ tay vang dội. Thế nhưng sau khi về nhà, đọc sơ qua vài trang người ta quẳng cuốn sách vào sọt rác rồi làu bàu “Văn thơ dở ẹc như thế mà cũng đòi viết!” Thế là Văn Sinh lại thắc mắc tự hỏi tại sao người ta không can đảm nói ra sự thực? Cứ cái kiểu khen bừa bãi, vuốt đuôi như thế này, các ông bà tác giả nói trên tưởng mình viết văn hay, làm thơ giỏi, lại cho ra thêm dăm ba cuốn sách nữa có phải làm khổ thiên hạ không?
Rồi ngoài xã hội biết bao kẻ “tội lỗi đầy mình” hoặc phi đạo đức thế mà khi gặp nhau, vì sợ đụng chạm, sợ thù oán, người ta cũng cứ bắt tay, nói cười thân thiết, chẳng ai dám nói thật ý nghĩ của mình. Nói tóm lại, cái xấu xa, cái hủ lậu, cái tồi tệ, cái bất nhân, cái hợm hĩnh, cái kiêu căng phách lối, cái sai trái cứ được nuôi dưỡng từ đời này sang đời khác để làm khổ con người. Theo Văn Sinh xã hội muốn tiến lên, muốn hoàn thiện, muốn có đạo đức thì mọi người phải thành thật nói lên ý nghĩ của mình, kể cả khuyết điểm của chính mình để tu sửa.
Hơn ba mươi tuổi rồi mà vẫn chưa vợ con. Có thể vì tính tình thẳng thắn quá mà các cô e ngại chăng? Vì sống độc thân cho nên Văn Sinh chẳng bận bịu chuyện gia đình. Trong những lúc rảnh rỗi thú giải trí duy nhất vẫn là đọc sách và thể thao. Hồi còn ở Việt Nam chàng mê môn bóng tròn nhưng kể từ khi qua Mỹ lại thích môn bóng bầu dục vì cho rằng môn túc cầu có vẻ boring (2) quá.
Hôm nay là ngày Chủ Nhật, cũng như thường lệ, vì vào mùa Super Bowl (3) cho nên Văn Sinh không thể bỏ qua buổi tranh tài nào. Chàng mở máy truyền hình, ngồi dựa ngửa vào chiếc ghế bành để thưởng thức các pha ném bóng, chụp bóng ngoạn mục. Thế nhưng đêm qua đi làm overtime (4) về trễ cho nên sau vài phút mắt chàng nặng trĩu và thiếp đi vào giấc ngủ trưa lúc nào không hay. Vừa chợp mắt, Văn Sinh thấy từ xa ào tới hai người cao lớn, nắm tay chàng chạy như dông như gió. Văn Sinh kinh hãi nhắm nghiền đôi mắt cho đến khi hai người dừng lại. Mở mắt ra, chàng thấy mình đang đứng trước một cổng thành cao vút, hòa vào tận mây xanh. Còn chưa hoàn hồn và cũng chẳng biết đây là nơi nao thì cửa thành xịch mở. Một vị cao lớn, mặt mũi trang nghiêm, sắc phục như một võ quan, bước tới, cúi chào, nói:
-Thưa Đức Ông. Chúng tôi đã nghe nói về đức độ của Đức Ông ở hạ giới. Thành thật là đức tính cao quý nhất trong các tiểu chuẩn đạo đức. Thiếu thành thật thì mọi giá trị dù thiêng liêng cách mấy cũng xụp đổ. Vì Đức Ông là người thành thật hiếm có ở hạ giới nên hôm nay chúng tôi mời Đức Ông tới thăm viếng Vương Quốc Thành Thật của chúng tôi một lần cho biết. Xin lỗi, chúng tôi đã làm Đức Ông kinh sợ.
Chẳng biết ất giáp gì, vả lại trước tình thế này Văn Sinh không còn cách nào khác hơn là bước theo vị sứ giả vào bên trong. Đi được một đỗi chàng lấy lại bình tĩnh. Trước vẻ hiền từ, cung kính và hiếu khách của vị sứ giả, chàng mạnh dạn lên tiếng hỏi:
-Tại sao gọi đây là Vương Quốc Thành Thật ?
Vị sứ giả kính cẩn đáp:
-Thưa Đức Ông, vương quốc này do một vị ở Đông Phương lập cách đây năm ngàn năm. Vị này nổi tiếng là dám nói lên tất cả sự thật về mình, về vợ mình, con mình và về cả ông vua nữa. Nhưng khi nói lên sự thật về ông vua thì nhà vua nổi giận, chém đầu. Do uy đức rúng động Trời Đất đó mà ngài lập được vương quốc này. Tất cả những người thành thật ở hạ giới khi chết, nếu có lời nguyện sẽ được thoát sanh về đây. Nói tóm lại đây là vương quốc của những người thành thật chung sống với nhau. Chính vì toàn dân là người thành thật cho nên bao nhiêu khuyết điểm, bao lỗi lầm đều được phơi bày cho nên Vương Quốc mỗi ngày mỗi tiến bộ, mỗi đẹp. Lần hồi Đức Ông sẽ thấy.
Giống như những người phải bỏ nước ra đi định cư vào một xứ lạ. Mỗi khi thấy người đồng hương từ trại tiếp cư tới hoặc trong nước mới qua, người ta đều háo hức mời về nhà đãi đằng để tỏ lòng hiếu khách và hỏi han đủ điều. Ở vương quốc này cũng vậy. Văn Sinh được một gia đình khẩn khoản mời, dĩ nhiên là ăn uống linh đình, hỏi han đủ chuyện ở dưới trần gian. Sau bữa tiệc, bà chủ nhà mời khách qua phòng bên cạnh để vui chơi. Là vợ một ông bác sĩ nhiều tiền lắm của, không biết làm gì vào lúc xế chiều cho nên nổi hứng muốn trở thành ca sĩ. Bà sắm một dàn máy Karaokê tối tân ở nhà tập luyện và thường xuyên trình diễn ở các buổi sinh hoạt hội đoàn, ra mắt sách. Nhiều khi bà còn cho tiền người ta để được hát trong các Show văn nghệ ở địa phương. Để biểu diễn cái giọng oanh vàng của mình, bà hát luôn một lúc ba bản. Mỗi khi bà hát xong một bản thì tiếng vỗ tay đôm đốp nổi lên. Cuối cùng thì Văn Sinh được mời lên phát biểu ý kiến với tư cách của vị khách quý. Dù tin tưởng đây là Vương Quốc Thành Thật, tất cả mọi người sẽ hoan hỉ lắng nghe lời nói trung thực, nhưng chàng vẫn cẩn thận rào trước đón sau:
-Thưa bà, đây là Vương Quốc Thành Thật vậy bà có cho phép tôi nói thật ý nghĩ của mình không?
Nở một nụ cười duyên dáng và tin tưởng, bà chủ nhà nói:
-Xin anh cứ tự nhiên. Chúng mình đều là người trí thức cả mà.
Được lời như cởi tấm lòng, chàng hăng hái nói:
-Thưa bà, về bữa tiệc của bà thì tôi thật cám ơn. Nhưng còn giọng hát của bà thì thành thực mà nói…nó nặng như cái búa tạ vậy. Nếu bà hát để ru con thì thằng cu hoặc con bé cũng khóc thét lên mà thức dậy! Theo tôi nghĩ bà nên trở về cái thiên chức tề gia nội trợ thì tốt hơn. Xin để cái nghề hát này cho các cô ca sĩ chuyên nghiệp. Hát như thế này, bà Thái Thanh mà nghe được chắc bà ấy té xỉu mất!
Nghe Văn Sinh nói thế mặt bà chủ nhà xụ hẳn xuống. Còn thực khách thì chưng hửng nhìn chàng, rồi nhìn bà chủ nhà, không ai nói với ai nửa lời. Kể từ giờ phút đó bữa tiệc trở nên ảm đạm như một đám ma.
Ngày hôm sau, cũng do lời giới thiệu của vị sứ giả, Văn Sinh được mời tham dự một buổi ra mắt thơ. Trên sân khấu ông giới thiệu đang hăng say ca ngợi tác giả. Nào là từ nhỏ bảy, tám tuổi đã biết làm thơ. Thiếu niên đã tham gia vào các thi văn đoàn tỉnh nhà. Qua tới đây thường xuyên cộng tác với rất nhiều tờ bào ở địa phương. Thơ của tác giả đây đã được đăng trên nhiều đặc san của các hội ái hữu v.v…Và ngày hôm nay, tác giả cho ra đời một tập thơ, một tác phẩm có tầm vóc lớn ở Vương Quốc. Kèm theo đó là một cuốn băng phổ thơ của chính tác giả do một số ca sĩ khá nổi tiếng hát. Thời buổi bấy giờ tại Vương Quốc Thành Thật đang có phong trào một số người sau khi làm được vài bài thơ hoặc một tập thơ đã nhờ vả hoặc cho tiền các nhạc sĩ chuyên sống bằng nghề phổ nhạc để phổ những bài thơ đó. Rồi thì chính nhà thơ lại cho tiền để các ca sĩ hát các bản nhạc đó rồi thu vào CD không ngoài mục đích chắp cánh thêm cho thơ của mình. Và Văn Sinh được tác giả trân trọng ký tặng một tập thơ và một CD. Sau khi liếc nhìn qua một vài trang, Văn Sinh nhăn mặt, lắc đầu quầy quậy. Rồi khi được mời lên phát biểu ý kiến với tư cách một vị khách quý từ trần gian tới. Với “kinh nghiệm đau thương” thu thập được từ bữa tiệc trước, chàng e dè nói:
-Kính thưa quý vị. Thật hân hạnh cho tôi được phát biểu trước quý vị. Sở dĩ tôi được mời thăm vương quốc ngày hôm nay cũng chỉ vì đức tính thành thật của tôi. Còn quý vị đây là con dân của Vương Quốc Thành Thật chắc chắn phải yêu chuộng sự thật. Vậy quý vị có sẵn lòng nghe lời nói thành thật không?
Nghe Văn Sinh nói thế tất cả rộ lên với những tiếng cười hả hê để bày tỏ tấm lòng cởi mở, hiếu khách của người địa phương. Họ nhao nhao nói:
-Ôi dào! Như thế thì còn gì quý bằng? Chúng tôi là con dân của Vương Quốc Thành Thật thì chúng tôi phải quý trọng sự thật và nói lên sự thật chứ. Xin ông cứ tự nhiên. Sự thật dù phũ phàng đến đâu chăng nữa chúng tôi vẫn chấp nhận như thường. Đó là tôn chỉ và giá trị của vương quốc này mà.
Nghe đám đông nói thế Văn Sinh vững dạ và cứ thẳng ruột ngựa nói:
-Thưa quý vị. Mới đọc vài bài thơ trong cuốn sách tôi thấy dấu hỏi-ngã tác giả đánh lộn tùng phèo. Chính tả thì còn thua học sinh Lớp Nhất. “diễm tuyệt” thì viết thành “diểm tuyệt”, “viễn mộng” thì viết thành “viển mộng”, “đài các” thì viết thành “đài cát”! Toàn là thơ tặng vợ, chúc mừng thượng thọ, chúc mừng đám cưới, mừng con vừa mới ra trường, mừng thằng cháu nội đầy tháng, mừng vừa thi đậu quốc tịch Mỹ v.v…Hình ảnh trong thơ thì nghèo nàn. Chữ thơ thì mòn vẹt. Ý thơ thì trống rỗng và sáo! Nếu dùng để tặng bạn bè, con cháu, đọc chơi, tán dóc trong các tiệc cưới thì được. Nói thật với quý vị, nếu thơ này đem in thành sách để gia nhập làng văn chương, ra mắt độc giả thì các Cụ Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Khuyến, Bà Đoàn Thị Điểm, các Ông Vũ Hoàng Chương, Phạm Thiên Thư sẽ khóc thét lên mà chết! Đấy là cảm nghĩ chân thật của tôi, xin quý vị bỏ qua cho!
Lời nói của Văn Sinh như trái bom nổ giữa hội trường nhưng không hiểu sao tất cả đều im lặng, im lặng đến nghẹt thở. Rồi tiếng thầm thì nhỏ to giữa người này người kia cứ lan rộng. Người ta liếc nhìn Văn Sinh như nhìn một sinh vật lạ hoặc một gã điên không biết chừng. Còn ông tác giả thì trông thật thảm hại. Ông ta đứng chết trân như Từ Hải, miệng cười như mếu. Buổi ra mắt sách đang vui như Tết bỗng trở nên căn thẳng, ngột ngạt. Vị sứ giả thấy vậy vội vàng nói lời cáo lỗi với ban tổ chức rồi kéo Văn Sinh ra khỏi hội trường.
Ngày hôm sau, tại một thành phố xa xôi, có lẽ chưa biết gì về những “rắc rối” do Văn Sinh tạo ra cho bà vợ ông bác sĩ, cho nhà thơ vừa mới ra mắt sách cho nên đã hoan hỉ mời Văn Sinh tới tham dự tiệc khai trương của một thẩm mỹ viện. Vì làm nghề thẩm mỹ cho nên bà chủ có nhu cầu sửa sang sắc đẹp. Ở tuổi ngoài sáu mươi nhưng bà lại cố sửa khuôn mặt của bà cho thật trẻ với má lúm đồng tiền và đôi môi cánh phượng. Quan khách hôm đó phần lớn là mấy ông bà chủ báo có đăng quảng cáo của bà trên trang nhất, một số nhà văn, nhà thơ, hội đoàn mà bà có tặng tiền trong các buổi ra mắt sách, hoặc trong các sinh hoạt lễ Tết. Dĩ nhiên là họ khen bà hết mình. Nào là “chị trẻ mãi không gì”, “chị đẹp như cô gái băm mấy vậy đó!” Để chứng tỏ mình trẻ thật, trong khi tiếp khách, bà chủ nhà luôn có động tác, cử chỉ, giọng nói, nhí nhảnh, nhõng nhẽo của tuổi “băm mí”. Văn Sinh ngồi đó mà đỏ bừng cả mặt, đã toan ra dấu cho vị sứ giả để cáo từ. Nhưng ngay lúc ấy vị nữ chủ nhân cảm thấy biểu diễn sự trẻ trung như thế cũng vừa đủ, vỗ tay để quan khách chú ý rồi long trọng nói:
-Thưa quý vị và quý bạn. Hôm nay chúng ta hân hạnh đón tiếp một vị khách từ hạ giới tới thăm. Ở dưới trần gian nước Mỹ nổi tiếng vì giàu có, còn Vương Quốc của chúng ta cũng hãnh diện vì con dân đều là người thành thật, yêu chuộng sự thật và kính trọng sự thật. Sau đây tôi xin long trọng giới thiệu vị khách quý đó và mong ông sẽ cho chúng ta một vài cảm nghĩ thành thật về Vương Quốc để ghi nhớ như một kỷ niệm đẹp.
Với kinh nghiệm đau đớn có từ hai lần gặp gỡ trước, Văn Sinh đã toan theo thói đời, nói lời đầu môi chót lưỡi, khen ngợi giả dối để đẹp lòng tất cả. Gây rắc rối làm chi? Thế nhưng Văn Sinh tự hỏi: Chẳng lẽ vương quốc này là Vương Quốc Giả Dối? Cái bảng hiệu Vương Quốc Thành Thật kia phải chăng chỉ là bảng quảng cáo, còn bên trong thì bán đồ rởm? Thật vô lý! Trần thế là cõi đời ô trọc mà còn biết bao nhiêu người thành thật, bao Hiền-Thánh. Chẳng lẽ cả xứ này không có ai là người thành thật sao? Chính vì suy nghĩ như vậy cho nên chàng chẳng sợ gì mà không nói:
-Xin cám ơn bà chủ, xin cám ơn quý vị đã ưu ái cho tôi được gặp gỡ quý vị ngày hôm nay. Kính thưa quý vị. Trong hai ngày qua, dù chưa đi thăm hết, nhưng tôi nhận thấy đây là một vương quốc đẹp, thật nhân ái và hiền hòa. Tuy nhiên có một điều tôi còn thắc mắc là không biết đây có thật sự là Vương Quốc Thành Thật hay không?
Nghe Văn Sinh nói thế tất cả cùng tranh nhau nói:
-Sao ông nói thế? Đây là Vương Quốc Thành Thật! Chúng tôi là những người thành thật. Điều đó có nghĩa là chúng tôi quý trọng sự thật do người khác nói ra dù đó là sự thật đau lòng đi nữa. Vậy xin ông cứ thẳng thắn. Chúng tôi muốn được lắng nghe người ở thế giới khác nói lời chân thực về vương quốc của chúng tôi.
Nghe khách nói thế Văn Sinh cảm thấy mình có thể gặp hên chuyến này. Chàng nói ngay:
-Thưa quý vị. Ở dưới trần gian chúng tôi đã khổ về nạn sửa sang sắc đẹp qua các thủ thuật bơm, hút, căng, kéo. Tôi tưởng đã lên tới đây rồi thì cần gì phải sửa sang sắc đẹp chứ? Điều đó không có nghĩa là tôi lên án hoặc khắt khe với việc sửa sang sắc đẹp. Người sinh ra trời bắt xấu, người bị thương tật, tai nạn, chiến tranh phá hủy bộ mặt, giải phẫu thẩm mỹ là điều tốt lành. Thế nhưng một bà sáu mươi lăm, giải phẫu để trở thành cô gái băm lăm là một ảo tưởng. Quý vị có thể bơm mông, bơm ngực, căng da mặt nhưng quý vị có thể căng da cổ, căng da tay, sửa cái lưng còng, sửa cái dáng đi lọm khọm, sửa cái giọng nói ồ ề của bà già sáu lăm không? Thật không có gì kinh hoàng hơn khi nghe giọng nói ồ ề của một bà già thốt ra từ miệng cô gái trẻ! Nó giống như bà phù thủy đội lốt cô gái vậy! Hơn thế nữa tại xứ Việt Nam trong bài hát Cô Hàng Cà Phê có câu rất nổi tiếng “Má lúm đồng tiền trông xinh ghê!” Khi ông nhạc sĩ làm bản nhạc này là ông muốn ca ngợi vẻ ngây thơ của cô gái ở tuổi mười chín, đôi mươi. Nay một bà già sáu mươi lăm cũng có má lúm đồng tiền thì…cha mẹ ơi! Chẳng khác nào râu ông nọ cắm cằm bà kia! Quý vị có thấy như vậy không? Nếu thấy vậy xin quý vị bỏ qua cho những lời nói lỗ mãng của tôi.
Khi Văn Sinh nói dứt lời thì mọi người cùng ồ lên. Rồi tiếng ồn ào tắt lịm. Mọi con mắt đều hướng về bà chủ nhà. Bà chủ nhà mặt đỏ gay, ngúng nguẩy bỏ vào trong. Còn thực khách sau đó, không hiểu sao cũng từ từ cáo lui để lại Văn Sinh và vị sứ giả đứng đó ngơ ngác nhìn nhau.
♦ ♦ ♦
Ngày hôm sau khi trời vừa hừng sáng, Văn Sinh mới vừa thức dậy thì vị sứ giả đã bước vào sứ quán. Với vẻ mặt không được vui, ông ta nói:
-Xin Đức Ông tha lỗi cho việc thăm viếng đột ngột này. Đáng lý ra chúng tôi phải lưu giữ Đức Ông lại đây chơi cả tháng trời. Tuy nhiên…
Nói tới đây ông ta dừng lại rồi nói tiếp với giọng nuối tiếc:
-Có vài cú điện thoại khiếu nại của dân chúng nói rằng Đức Ông lên đây với âm mưu… phá hoại sự đoàn kết cộng đồng!
Nghe nói thế Văn Sinh mặt đỏ tía tai. Chàng nổi cáu nói:
-Tôi mà phá hoại cộng đồng à? Ở đây cũng có nạn “chụp mũ” sao?
Vẫn với giọng nói hiền hòa và lễ độ, vị sứ giả đáp:
-Chúng tôi hiểu rõ đức độ của Đức Ông. Dĩ nhiên Đức Ông không bao giờ phá hoại sự đoàn kết cộng đồng cả. Tuy nhiên vì muốn trấn an dân chúng cho nên chúng tôi buộc lòng đưa tiễn Đức Ông. Xin Đức Ông tha lỗi.
Nói xong vị sứ giả từ từ hướng dẫn Văn Sinh ra Cổng Tiễn Khách. Trên đường đi vì quá bực tức trong người Văn Sinh vặn hỏi:
-Tôi hỏi thật ngài. Có phải đây là Vương Quốc Thành Thật hay là Vương Quốc Lừa Dối? Xin ngài nói cho tôi rõ.
Vẫn với thái độ cung kính, vị sứ giả mỉm cười đáp:
-Thưa Đức Ông. Dĩ nhiên đây là Vương Quốc Thành Thật. Là người học rộng, hiểu biết nhiều, quán thông kim cổ hẳn Đức Ông quá rõ con dân của vương quốc này cũng như con người dưới trần gian họ chỉ là phàm phu. Điều đó có nghĩa là họ sống bằng ảo tưởng. Loài vật không không sống bằng ảo tưởng nhưng con người lại sống bằng ảo tưởng. Ảo tưởng là đặc hữu của con người, là niềm hoài vọng thiết tha về những cái gì đó không có hoặc không thực. Ở buổi khai thiên lập địa con người ít sống bằng ảo tưởng. Thế giới càng văn minh, nhu cầu vật chất càng nhiều, con người càng sống với ảo tưởng. Ảo tưởng về sự giàu sang, trí thức, về vẻ đẹp, về tài năng, về đức độ, về quyền uy, về chân lý, về thánh thiện. Chính những ảo tưởng này đã cho con người và cả con dân của Vương Quốc Thành Thật sức mạnh để sống. Cho nên khi một người nào đó nói lên sự thực…tức đạp đổ ảo tưởng của họ thì họ phản kích không ngoài mục đích bảo vệ giá trị con người của họ…dù giá trị này không hề có. Ở cõi trần gian, những người không nói lên sự thực có thể vì hèn nhát, giả dối, song cũng có thể vì độ lượng, hiểu biết. Là con người ai cũng náo nức muốn biết sự thực về người khác nhưng lại dấu nhẹm sự thực về mình. Không có gì ghê gớm cho bằng bị người ta vạch trần sự thực. Ngay cả hàng tu sĩ cũng sẽ nổi điên lên. Họ có thể trả thù chúng ta, chụp mũ chúng ta, giết hại chúng ta nếu chúng ta nói lên sự thực về họ, về tôn giáo của họ. Cho nên cả Thế Giới Ta Bà và Vương Quốc Thành Thật này người ta đang ru ngủ nhau trong ảo tưởng…tức bằng sự lừa dối…để mà sinh tồn, để mà vui vẻ với nhau. Chính vì thế mà ý nghĩa của Vương Quốc Thành Thật không thể dùng lý lẽ thông thường mà phải dùng nhãn giới Sắc-Không của nhà Phật mới có thể hiểu hết được.
Nghe vị sứ giả nói thế, với bốn năm miệt mài trong môn Triết Học Đông Phương ở Đại Học Văn Khoa, Văn Sinh ngộ ra ngay. Chàng quay qua vái vị sứ giả rồi cảm phục nói:
-Sự hiểu biết của ngài quả trời đất khôn lường. Còn sự hiểu biết của tôi chỉ như nắm lá trong rừng.
Vẫn với thái độ khiêm cung, vị sứ giả đáp:
-Xin Đức Ông đừng khiêm tốn. Kiến thức là điều phải có nhưng đức độ thì quý giá hơn nhiều. Chúng tôi rất cung kính với đức độ của Đức Ông. Những lời mà Đức Ông nói hoàn toàn vì lòng thành thật, không vì đố kỵ, không vì thương ghét. Những lời nói đó chưa có kết quả ngày hôm nay, nhưng nó sẽ có kết quả trong mai sau. Thế Giới Ta Bà cũng như Vương Quốc Thành Thật này cũng còn phải huân tập có khi…cả ngàn năm nữa mới có thể tiến tới sự hoàn thiện. Xin đa tạ sự thăm viếng của Đức Ông.
Nói xong vị sứ giả ra lệnh “tiễn khách”. Nhận được lệnh, hai vị cận vệ tiến tới nhắc Văn Sinh lên vai rồi phóng chạy như dông như gió. Khi Văn Sinh đã được đặt vào lòng chiếc ghế bành trở lại thì cũng là lúc chàng tỉnh dậy cùng với những tiếng touch down! touch down! (5) ồn ào vang lên.
♦ ♦ ♦
Vừa dụi mắt, vừa lắc lắc đầu cho tỉnh ngủ, Văn Sinh tắt vội chiếc truyền hình cho đầu óc thanh thản. Hồi tưởng lại giấc mơ, chàng bán tín, bán nghi. Có thể do làm việc quá độ, đầu óc mệt mỏi nên đâm ra mơ mộng, giấc mơ vừa rồi chỉ là chuyện vớ vẩn, hơi đâu mà tin. Nhưng với đầu óc của một triết gia ưa đặt ngược vấn đề, Văn Sinh lại cho rằng có thể có một vương quốc như thế. Ngoài hành tinh này, vũ trụ còn bao nhiêu thứ mà con người chưa hề biết tới? Nhớ lại những buổi thăm viếng trên Vương Quốc Thành Thật mồ hôi trong người chàng toát ra. Chàng tự trách tại sao mình có thể dại dột, nói năng không giữ mồm giữ miệng để chạm tự ái người ta như vậy? Tuy nhiên giờ đây chàng cảm thấy yên ổn là không còn phải đối đầu với bà vợ ông bác sĩ , tác giả tập thơ, bà chủ thẩm mỹ viện nữa.
Cuộc đối đáp với vị sứ giả làm chàng đau đầu. Rồi chàng tự cật vấn cả chính mình. Phải chăng khát vọng về sự thành thực cũng chỉ là một ảo tưởng? Nếu như nó đã là một ảo tưởng thì việc đòi hỏi người ta nói lên sự thực và chấp nhận sự thực cũng là một ảo tưởng? Nếu lý luận như vậy thì chính Văn Sinh trong bao năm qua đã sống với ảo tưởng mà chàng không hề hay biết. Với ý nghĩ mình sống trong ảo tưởng Văn Sinh phá lên cười. Cười một hồi chàng lẩm bẩm: “Có thể mình chỉ là một anh gàn, sống trên mây… từ đó làm khổ mình và khổ người không biết chừng?”
Nhớ lại những rắc rối gặp phải trên Vương Quốc Thành Thật chàng thấy “Đúng rồi”! Chàng nhắc lại một lần nữa “Đúng rồi, trên cái cõi đời ô trọc này, thằng cha nào đòi hỏi người ta phải tôn trọng sự thực, nói ra sự thực về mình thì đúng là một gã điên!”
Kể từ đó Văn Sinh từ giã cái “triết lý thành thật” không còn gàn gàn, dở dở như xưa nữa và sống bình thường như mọi người.
Đào Văn Bình
(Tháng 11, 2013)
|