1. Trí thức NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
Nói tới tên ông, nhiều người Việt nghĩ ngay tới việc ông đỗ hai bằng tiến sĩ, Văn và Luật tại Montpellier, Pháp trong một năm, lúc mới 23 tuổi. Ngoài ra, người ta không nhớ ông đã làm được công nghiệp gì tương xứng với tài năng và công lao học tập! Điều đó không có chi lạ. Ông đã theo “Hồ tặc” đi kháng chiến, và kể từ lúc ấy, đời ông kể như đã đi vào ngõ cụt. Đã có quá nhiều sách báo nói về ông Nguyễn Mạnh Tường và những tháng ngày thê thảm của ông và gia đình ông, dù bản thân ông chưa phải là trái chanh đã hết nước trong tay Cộng. Nếu không đọc cuốn sách Un Excommunié do chính ông viết, chúng ta khó tưởng tượng ông “lưỡng khoa tiến sĩ” này lại bị đau nhục dưới tay “vượn người” như thế! Nhưng vì đâu nên nỗi?
Năm 1936, cậu thanh niên 27 tuổi, với hai bằng tiến sĩ từ mẫu quốc hồi hương, tương lai sáng rỡ như mặt trăng mặt trời. Cậu trở thành giáo sư trường Lycée du Protectorat tức trường Bưởi, rồi cậu mở văn phòng luật sư tại hai biệt thự tại thủ đô Hà Nội. Khi cộng sản cướp chính quyền, cậu hào hứng hiến luôn cả hai biệt thự cho nhà nước. Kháng chiến bùng nổ, cậu không ngại gian lao, xách khăn gói vào Khu Tư, tức Thanh Hóa theo “Bác.”
Chiến tranh tạm ngừng năm 1954, nhà trí thức lúc ấy đã mỏi mệt vì những điều tai nghe, mắt thấy về Đảng và “bác”, nhưng cổ đã vướng tròng, khó bề thoát ra. Trở về Hà Nội, ông được cộng sản ấn vào tay một lô chức tước “phó”, vô danh và… vô thực luôn: Phó chủ tịch Hội Luật Gia Việt Nam, phó Trưởng khoa Đại Học Sư Phạm, thành viên Hội Hữu Nghị Việt-Xô, v…v..
“ Đó là các chức vụ hoàn toàn có tính cách lễ nghi, không hiệu năng mà cũng chằng có thực quyền, đó là những chức vụ mà tôi chỉ là kẻ dư thừa .”
Năm 1956, có phong trào Đòi tự do, dân chủ của các báo Nhân Văn, Giai Phẩm. Báo Nhân Văn đăng bài phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Tường. Ông vạch trần tính chất phản dân hại nước của cộng sản:
“Đảng Viên đảng Lao Động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tính thần dân chủ, xa lìa quần chúng, tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình… ”
Dĩ nhiên, ông cũng còn tin cộng sản có thể sửa đổi được, và ông đề nghị những biện pháp sửa đổi! Ngày nay, dù đã có một tay cộng sản gộc, chính tông, là Boris Yelsin bỏ đảng và tuyên bố: “Cộng Sản không thể sửa đổi ”, nhiều ông trí thức của ta vẫn tin rằng có thể dùng kiến nghị, thư ngỏ… để thay đổi chính sách của Cộng sản. Cộng sản dĩ nhiên không thèm đếm xỉa gì đến những đề nghị của ông Tường; nhưng lãnh đạo Cộng sản lại dương những con mắt cú vọ quan sát, nhằm “chiếu tướng” ông trí thức. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, ông luật sư, giáo sư, kiêm luôn bao nhiêu chức Phó và Thành viên các hội, đọc một bài diễn văn tại cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc, phân tích những khốc hại đẫm máu của việc Cải Cách Ruộng Đất, và đề ra phương hướng để tránh mắc lại! Ông Trí thức lúc ấy chắc vẫn tin là cộng sản mắc “sai lầm”, chứ không phải là chúng chủ tâm và tỉ mỉ hoạch định đủ phương kế để giết người và cướp đất ruộng. Sau bài diễn văn với những đề nghị này, nọ của ông, dây thừng quanh cổ ông được cộng sản xiết chặt lại. Bao nhiêu chức tước vớ vẩn của ông được gỡ sạch. Ông bị đưa ra đấu tố tại trường Đại Học cho học trò ông xỉ vả, mắng mỏ; ông bị ra trước Mặt Trận Tổ Quốc để các “đồng chí” của ông đấu đá. Ông bị các đảng viên đảng Xã Hội, một đảng bù nhìn do cộng sản nặn ra để trang trí cho chế độ, đấu tố ông lần chót. Ông chống trả rất can trường, với lập luận sắc bén của một luật sư có tài. Nhưng rồi ông đau khổ nhận rằng:
“Con cừu thì không thể lý luận với một con chó sói”.
Số phận ông đã được Cộng đảng quyết định: Bỏ cho chết đói giữa một sa mạc hận thù không lối thoát. Ông than thở
“Tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958 đến năm 1990, hơn ba mươi năm dài đằng đẵng! Chìm trong vùng cát của sa mạc tuyệt vọng làm cạn khô dòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn bởi thiếu thốn cô đơn với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn chua cay và vị đắng của mật!” Trong ba mươi năm dài ấy, nhà trí thức sống ra sao?
Ông kể lại:
“Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen sa hoa của những người tư sản. Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn trưa và tố́i. Khẩu phần cơm rau mỗi ngày một ít đi, và đến lúc mỗi ngày chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói.”
Trong cơn khốn cùng như thế, gia đình ông Tiến sĩ “may mắn” có được một con gà mái “mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên ”. Mỗi ngày con gà cho một trái trứng, và mỗi người trong gia đình thay phiên nhau hưởng. Muốn cho gà đẻ trứng, thì phải cho nó ăn. Khốn nỗi người còn sắp chết đói, lấy đâu gạo, bắp cho gà! Nhà trí thức ‘phát huy sáng kiến’: “mỗi ngày, vào lúc hoàng hôn, khi chợ đã vắng người mua bán, tôi lượn quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh không để người qua đường nhìn thấy, mang về nuôi nó”
Thê thảm không còn gì để nói! Nhưng con gà, dù mắn đẻ, tất cũng không nuôi sống nổi cả gia đình của ông tiến sĩ. Ông phải đau khổ, năn nỉ những kẻ có tiền để họ mua những thứ ông có thể vơ vét ở trong nhà: sách vở, quần áo của ông, son phấn , tóc giả của bà, muỗng nĩa trong bếp… Giống hệt tình cảnh của toàn dân miền Nam năm 1975 khi được cộng “giải phóng.” Ba mươi năm vật lộn mỏi mòn, chỉ để khỏi chết đói!
Cộng sản đã trả công cho sự nhiệt thành và công lao hạn mã của ông bằng cái đói và nhục. Nhiệt thành, say sưa, vì khi Cộng mới nổi lên, ông đã đem tất cả nhà cửa hiến dâng cho đảng. Công lao hãn mã, vì ông đã lặn lội sang tận thủ đô Bruxelles của Bỉ, năm 1956, đem tài hùng biện, chứng minh với Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ thế giới, là Bắc cộng có “chính nghĩa” khi dùng súng đạn để “giải phóng miền Nam ” Nhưng xem tư cách và sự phản ứng can trường của ông trong suốt 30 năm bị cộng mưu dìm cho chết, chúng ta ngậm ngùi thương ông hơn là oán giận. Ông đã lạc đường vào lịch sử và bị vây bọc trong hoàn cảnh khó khăn. Không khuất phục được ông, bọn cộng vô học ghen, tức, đầy đọa và hạ nhục ông.
So sánh với những anh “trí thức” hải ngọai ngày nay, từng kinh hoàng bỏ chạy khi cộng sản tới, lại được chứng kiến sự tan rã tận gốc của cái chủ thuyết giết người tàn độc, mà vẫn xun xoe đưa đầu cho cộng sai khiến, chúng ta phải kinh ngạc về sự “khả úy” của các “trí thức” hậu sinh. Ông Nguyễn Mạnh Tường có lẽ đã trả được mối thù với bọn việt cộng bằng cách mô tả sự tàn độc của chúng trong hai cuốn Hồi Ký mà ông để lại cho đời.
Ông đã thảnh thơi từ giã cuộc đời ngày 13 tháng 6 năm 1997.
2. Trí thức DƯƠNG QUỲNH HOA
Bà Dương Quỳnh Hoa sinh trưởng trong tầng lớp thượng lưu của xã hội Việt Nam. Bà theo học y khoa tại Saigon rồi sang Pháp năm 1948 học tiếp và đỗ bác sĩ năm 1953. Ăn phải bả Cộng sản, bà liên lạc với Cộng sản Pháp, gia nhập cộng đảng vào cuối thập niên 1950 và hoạt động cho Cộng trong thời gian ở Pháp từ 1948 đến 1954. Sau 1954, bà về Saigon nằm vùng và do thám cho cộng. Năm 1960, được bọn Bắc cộng giựt dây, bọn theo cộng miền Nam thành lập Mặt Trận Giải Phóng. Bà Hoa là một sáng lập viên của cái Mặt Trận này. Năm 1968, sau vụ đại bại của cộng quân, mụ cùng chồng trốn ra bưng với Việt cộng, và được cho làm Bộ Trưởng Y Tế. Trong thời gian ở trong bưng, đứa con trai nhỏ của mụ đã chết vì bệnh sưng màng não. Chồng bà là Huỳnh Văn Nghị được cộng dụ dỗ cho nhập Đảng; nhưng ông Nghị nhận rõ bộ mặt thật của bọn giải phóng, nên tìm cách khước từ “vinh dự” đó. Năm 1975, sau khi chiếm được Miền Nam, bọn Bắc Cộng ra tay xóa sổ cái Mặt Trận Giải Phóng.
Những anh chị trót bán linh hồn cho quỷ trong Mặt Trận, như các anh Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trương Như Tảng… và bọn lủng lẳng đứng giữa như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung… đều vỡ mặt, tẽn tò như một lũ con nít bị lừa không được ăn kẹo! Chính bà Hoa sau này đã thú nhận việc đi theo Cộng là một ảo tưởng chính trị trong đời bà. Ngày 17 tháng 10 năm 1996, khi được tờ báo Far Eastern Economic Review phỏng vấn:
“ Quel est l’évenement le plus marquant pendant les 50 années passées?”
Bà trả lời:
“L’effondement du mur de Berlin qui a mis un term à la “grande illusion”
dịch tạm: Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua?
Bà DQH: Đó là sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một “ảo tưởng lớn ”
Khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt nam, bà nói:
“Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã hết ”.[I have been a communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communist, and it is a failure - mismanagement, corruption, repression. My ideals are gone”]
Cuối thập niên 1970, bà nói với Nguyễn Hữu Thọ:
“Tôi và anh chỉ là những kẻ bù nhìn, là những món đồ trang sức rẻ tiền. Chúng ta không thể nào phục vụ một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ.”
Khi được phỏng vấn về bọn lãnh đạo Việt cộng, bà lạnh lùng trả lời:
“Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản”.
Trong những câu bà Hoa nói trên, chúng ta nên chú ý đến câu
“Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản…”
Đó chính là một lời thú nhận là:
dù học hành nhiều như bà, được sống trong một nước tự do như nước Pháp, có thừa phương tiện tìm hiểu, nghiên cứu, bà đã không biết gì về chủ nghĩa cộng sản!
Ngày 25/2/2006, người nữ cán bộ cộng sản đã góp công không nhỏ cho cộng sản đặt cái ách khốn cùng trên đầu đồng bào của bà, lặng lẽ bị các oan hồn chết vì giặc cộng, đưa về trước Diêm Vương để nghe phán xét tội lỗi. Cái bạo quyền bà đã hy sinh hết tuổi thanh xuân và tài năng để dựng nên nó, không có được một lời nói về bà. Mang “ảo tưởng ”, tự hiến mình làm “bù nhìn, đồ trang sức rẻ tiền ”, “ không biết sự thật về cộng sản mà vẫn theo chúng” thì kết quả đương nhiên chỉ có như thế.
Các vị trí thức tiền bối như Nguyễn Mạnh Tường, Dương Quỳnh Hoa, do hoàn cảnh lịch sử hoặc do sai lầm nhất thời, đã có lúc theo cộng hay thân cộng. Nhưng khi nhận rõ bộ mặt phản dân hại nước của cộng sản, họ đã có phản ứng quyết liệt. Trí thức Nguyễn Manh Tường đã dõng dạc tuyên bố:
“ Tôi không hề tham gia mặt trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, luôn luôn ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Người trí thức phải đứng về phía nhân dân, chứ không đứng về phía nhà cầm quyền.”
Ông cũng đã can đảm nhận chịu 30 năm đọa đầy thê thảm chứ không đầu hàng cộng. Khi thoát khỏi sự kiềm chế của Cộng sản, ông đã viết hai cuốn sách:
(2) Une Voix Dans La Nuit http://www.viet.rfi.fr/vi%C3%AAtnam/20110918-plan-vii-nguyenmanh-tuong-tieu-thuyet-une-voix-dans-la-nuit-ii-van-de-tri-thuc-v , bày tỏ lập trường của trí thức, và mô tả sự xấu xa tàn độc của Cộng sản. Cuốn Une Voix Dans La Nuit, [chưa xuất bản, được bà Thụy Khuê trích dẫn và bình luận trong Website của RFI] viết về về sự thiết lập chế độ ác ôn cộng sản ở Việt Nam. Ông viết xong vào năm 1993, lúc đã 85 tuổi, chứng tỏ ông trí thức vẫn nặng lòng vì đất nước. Bà Dương Quỳnh Hoa cũng dứt khoát vứt bỏ mọi ưu tiên mà chế độ dành cho bà, để quay về vị trí của người trí thức.
Những trí thức nói trên, nhất là tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, vẫn còn lưu lại trong lòng chúng ta sự ngậm ngùi thương tiếc.
BXCanh
Trí thức bỗng chốc thành sỏi đá, để lót đường cho Việt cộng dẫm nát miền Nam
Thưa quý vị trí thức được đào tạo dưới mái trường của các nước văn minh tiên tiến Pháp, Âu, Mỹ, Úc cùng các quốc gia phi cộng sản trên thế giới. Quý vị là lớp người mà ông bà ta thường có câu ví là “đẻ bọc điều”; là những người khi sinh ra nằm trong bọc như một lớp màng mỏng bao bọc có màu đỏ (điều) mà còn sống sót, không bị chết ngộp, bởi lớp màng bao phủ từ đầu tới chân, thì đứa bé là có số “ chân mạng đế vương” . Sau này sẽ “công thành danh toại, là bậc trí thức khoa bảng, tầng lớp thượng lưu trong xã hội.
Hôm nay kẻ hèn này mạo muội thưa chuyện cùng quý vị: so về học vấn, kiến thức, tri thức… thì kẻ kèn nay chưa đủ tư cách xách dép, đánh giày cho học trò của học trò quý vị. Nhưng về kinh nghiệm thương đau của dân tộc hai lần “bị giải phóng” lần thứ nhất năm 1945 đến 1954 được lính “cụ Hồ giải phóng” lần thứ nhì là 30-4- 75 được lính “của cụ Nguyễn Hữu Thọ giải phóng” biến thành phỏng d…á…i tuột luốc luôn từ đó tới này biế thành quan hầu cận vua.
Nhận diện những khuôn mặt trí thức làm tay sai cho Việt cộng trong cuộc chiến Quốc Gia Cộng Sản để quý vị trí thức trẻ , suy nghĩ trước khi quyết định “đem chất xám” về phục vụ đảng như lời kêu gọi của nghị quyết 36 cùng Ủy Ban về Người Nước Ngoài của nhà cần quyền CSVN.
Trong bài viết hôm nay, kẻ hèn này nêu lên một số những khuôn mặt từ “trí thức miền Nam” bổng chốc trở thành những nùi giẻ của các em bé đánh giành trên đường phố. Giới trí thức này dốc toàn lực “làm thân khuyển mã” cho tập đoàn lãnh đạo CSVN nhưng rồi than ôi!
Trong suốt thời gian cuộc chiến tranh, giới trí thức đã tìm mọi cách, mọi phương tiện, mọi danh từ , tổ chức v.v. để tiêu diệt VNCH và kết quả là 30-4-75:.
-Đứng đầu là danh xưng Mặt Trân Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN) Người lãnh đạo là trí thức Nguyễn Hữu Thọ. Quái thai này được sinh ra bởi cuộc hoang dâm của bộ chính trị CSHN với các tên trí thức miền Nam và nó đã bị, cha nó tên sở khanh bộ chính trị CSHN bóp mủi chết tháng 7 năm 1976. Sau khi đã hút hết sinh khí “chất xám của trí thức” nay biến thành những nùi giẻ vung vãi trong đống rác.
Những nhân vật “trí thức” du học tại Pháp, “nổi đình đám” gồm: Huỳnh Trung Đồng (đã được Diêm Vương gọi từng là chủ tịch Hội Liên Hiệp Việt Kiều ở Pháp),Nguyễn Ngọc Giao (từng tình nguyện làm thông dịch cho phái đoàn nước VNDCCH, tức CSBV trong suốt những năm hoà đàm Ba Lê) BS Phạm Văn Thủ,TS Lê Văn Hảo,Bs Dương Quỳnh Hoa,Ks Dương Thanh Nghị, Trương Như Tảng… và cò nhiều “trí thức tay sai” Việt cộng không kể hết được.
Trong số nhân vật trí thức , thương đau ôm hận suốt đời là nữ bác sĩ Dương Quỳnh Hoa cựu Bộ Trưởng bộ Y Tế của cái chính phủ ma có tên là Chính Phủ Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam. Bà bị tên phản quốc Phạm Văn Đồng “Khóa mổm” suốt mười năm không cho vén môi. Đành ôm hận để cho tập đoàn CSHN tiếp tục lợi dụng uy tín của bà và gia đình, thân phụ bà là GS Dương Minh Thới.Bà với phu nhân từng du học tại Pháp về nước “nhảy núi” kết hôn với bà tại “mật khu” là ông trí thức Dương Thanh Nghị, người đang nằm trên giường bệnh đã đem 3600 cổ vật của nhạc phụ sưu tập suốt đời , nay cống hiến cho nhà cầm quyền thành phố Saigon, để được lãnh bằng khen trước khi nắm mắt.
Nhân vật thứ hai trong chính phủ ma này là ông Bộ Trưởng Tư Pháp,cũng từng du học tại Pháp, tốt nghiệp bằng cử nhân luật về nước, từng Tổng Giám Đốc công ty Đường Việt Nam. Rồi “lên xanh” vào mật khu tận tuỵ làm thân trâu ngựa cho CSHN sai khiến. Sau khi chính phủ của ông (quái thai sinh ra) bị cha nó bóp cổ liệng vào hố rác, những nùi giẻ trí thức có miệng nhai thực phẫm nhưng bị câm. Vì muốn giữ mạng để tiếp tục tiêu thụ thực phẫm nên vắt dò lên cổ chạy sút quần, vượt biên hiện định cư tại Pháp đó là trí thức Trương Như Tảng.
Trong phạm vi bài viết hôm nay xin cống hiến đến quý đọc giả nhà “trí thức” Trương Như Tảng thuộc lớp người “đẻ bọc điều” ông được sinh ra và lớn lên trong một gia đình quyền quý, thuộc giới thượng lưu ở Saigon thời bấy giờ những gia đình ‘danh giá” như gia đình ông thì chỉ đếm trên 10 đầu ngón tay:
Trương Như Tảng
| |
Trương Như Tảng bộ trưởng Bộ Tư Pháp Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, năm 1976 | |
Nhiệm kỳ
|
June 8, 1969 – 1978
|
Sinh
|
|
Trương Như Tảng sinh ra tại Chợ Lớn, trong một trong một gia đình giàu có và thành đạt, gần đúng như sự mong muốn và xếp đặt của cha ông: một bác sĩ, một dược sĩ, một giám đốc ngân hàng và 3 kỹ sư. Sau khi tốt nghiệp trường trung học Chasseloup-Laubat, nơi ông có những người bạn nổi tiếng như Norodom Sihanouk, Dương Quỳnh Hoa, Phạm Ngọc Thảo v.v… ông được gia đình gửi sang Pháp để học ngành dược. Tuy nhiên ông đã bỏ khoa này nửa chừng để chuyển sang học chính trị và luật. Trong thời gian ở Paris, Trương Như Tảng tham gia phong trào chống chiến tranh của Đảng Cộng sản Pháp, vì thế ông bị gia đình cắt viện trợ và phải rửa chén, gọt khoai kiếm tiền sinh sống để có thể tiếp tục con đường vạch ra. Trương Như Tảng cũng từng gặp Hồ Chí Minh vào năm 1946[3]. Năm 1951, ông tốt nghiệp cao học chính trị và cử nhân luật sau đó trở về nước vào năm 1954. (nguồn Vikipedia )
Lược qua một phần nhỏ tiểu sử của nhà “trí thức” TNT ,kẻ hèn này khẩu phục tâm phục sự thành đạt mà thân phụ ông đã dầy công vun trồng được môt gia đình “đại phú đại hào” rất hiếm hoi của thời bấy giờ.Nhưng ông đã chọn cho ông một hướng đi đầy chông gai mà cũng quá nhiều gian ác. Thân phụ ông chọn cho ông một hướng đi con đường đầy hoa mộng, thênh thang rộng mở, cho ông lên thiên đàng. Nhưng ông đã chọn con đường xuống địa ngục là làm tay sai cho CSBV để giết hại thân nhân đem tai ương cho dân tộc.
Khi ông bị bắt giam ở nha cảnh sát thân phụ vào thăm và có lời:
"Con à, ba không thể hiểu được con. Con đã bỏ tất cả. Một gia đình êm ấm, hạnh phúc, giầu có - để đi theo bọn cộng sản. Chúng sẽ không cho lại con được mảy may những gì con đã bỏ đị Rồi sẽ thấy. Chúng sẽ phản bội con và con sẽ khổ suốt đời." (5)(nguồn hồi ký TNT do Minh Võ điểm sách, người viết tô đậm và đánh nghiêng)
Sau khi tốt nghịệp từ Pháp về ông đã được chính phủ VNCH trọng dụng ông như trọng dụng những nhân tài khác nhằm mục đích đem kiến thức, tài năng để phục vụ quốc gia, dân tộc nhưng nhà trí thức đã phản bội sự ưu ái của chính phủ Miền Nam:
“Sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ông được cử làm tổng giám đốc Công Ty Đường Việt Nam, một công ty quốc gia lớn với trên 5000 nhân viên. Trong thời gian này theo ông cho biết (2) ông đã hoạt động ngầm qua hai tổ chức thân cộng là "Phong trào Tự Quyết" và "Ủy ban bảo vệ Hoà Bình" do bác sĩ Phạm Văn Huyến, cha của nữ luật sư Ngô Bá Thành, điều khiển. Năm 1967, do sự "phản bội" của Ba Trà, một cán bộ cộng sản khác, hành tung của ông bị bại lộ và ông bị cảnh sát quốc gia bắt giam. Nhờ có Trần Bạch Đằng (3) thu xếp với người Mỹ về trao đổi tù binh, ông được phóng thích cùng với vợ của Trần Bặch Đằng để ra bưng hoạt động hẳn cho cộng sản cho đến năm 1976. (nguồn tài liệu nêu trên)
Nhà trí thức TNT “nhảy núi” ra bưng biền hoạt động cho Mặt Trận Dân Tọc Giải Phóng Miền Nam(quái thai của CSBV đẻ ra) và ông ta đã trở thành bộ trưởng bộ Tư Pháp của cái chính phủ Công Hoà Miền Nam Việt Nam, nhưng trong hồi ký “Thằng Việt Cộng “ do ông viết đã không thấy ông nhắc tới ông làm gì trong chức vụ bộ trưởng của ông. Ông đã vô tình hay cố ý bỏ sót điểm quan trọng trong hoạt động “kháng chiến” của chính phủ của ông mà mục tiêu chính là lật đổ chính phủ VNCH mà ông cùng phe đảng, đồng bọn của ông đã làm theo lời dạy của bộ chính trị CSHN và Trung Ương Cục Miền Nam:
Ngày 8 tháng 6 năm 1969 Trương Như Tảng được chỉ định vào chức vụ bộ trưởng bộ Tư Pháp của "chính phủ lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam", do Huỳnh Tấn Phát, một đảng viên cộng sản kỳ cựu, làm thủ tướng. Gần 6 năm trời, từ 8-6-1969 đến 30 tháng 4 năm 1975, trong cuốn hồi ký không hề thấy tác giả nói ông làm gì trong cái bộ đó và nó hoạt động ra saọ (4) Đó chính là một điểm khôi hài nhất của cái gọi là chính phủ kia, đồng thời cũng là một lỗ hổng to tướng của cuốn hồi ký. (nguồn như đã nêu trên)
Chắc có lẽ chức bộ trưởng Tư Pháp “hữu danh vô thực” trong cái chính phủ bù nhìn của Huỳnh Tấn Phát tất cả điều hành đều nằm trong tay của Trung Ương Cục Miền Nam dưới sự “chỉ đạo” từ bộ Chính Trị CSHN. Cho nên ông ta cảm thấy xấu hổ không dám viết ra trong hồi ký của ông, đó là điều dể hiểu. Sau ngày đại tang của dân tộc đa số tướng tá chính khách… viết hồi ký không ngoại mục đích : chạy tội và cái ta qua lớn hơn trách niệm đối với quốc gia, dân tộc. Cũng có những vị thì nguyện ôm xuống tuyền đài, không hề để lại một bút tích nào cho hậu thế, làm sử liệu để rút kinh nghiệm tìm một hướng đi cho tương lai.
Đó là điều thiếu sót rất lớn và là trọng trách của những nhân vật có gắn liền đời mình với thời cuộc, với lịch sử thời gian dù ngắn hay dài !!! Trường hợp nhà trí thức Trương Như Tảng không không ngoại lệ. Nhà trí thức Trương Như Tảng tỉnh giấc “Nam Kha” nên đã :
“Vì đã tỉnh mộng, hết tin tưởng ở đảng nên khi được mời làm thứ trưởng bộ Thực Phẩm và Tiếp Tế, ông đã từ chối khéo. Cảm nhận được sự bất mãn của ông, chính Võ Văn Kiệt, lúc ấy là bí thư thành ủy Saigon, đã tìm cách giải thích và khuyến dụ ông nhận một chức nhỏ hơn tại miền Nam. Nhưng ông đã lợi dụng sự tin cẩn của Kiệt để tính chuyện chuẩn bị vượt biên. Ngày 25 tháng 8 năm 1979 ông xuống thuyền làm "thuyền nhân' và hơn một tuần sau thì được một tầu hàng Singapore chở tới đảo Galang, thuộc Indonesia, bắt đầu cuộc sống tha hương” (nguồn nêu trên)
Thưa với trí thức Trương Như Tảng cùng với những trí thức từng làm thân “trâu ngựa” cho CSHN, theo định luật cũng như đức công bằng khi một tòng phạm cùng thủ phạm, can tội giết người cướp của thì cả hai cùng đồng tôi như nhau:
Ngày 30-4-75 , khi đoàn quân của Mặt Trận Giải Phòng Miền Nam với lá cờ nửa xanh nửa đỏ sao vàng, tiến vào thủ đô Saigon. Sư kinh hoàng lo sơ của dân chúng khi nghe doàn quân “giải phóng”cũng giống như đoàn quân xâm lược của Đức Quôc Xã tiến vào Do Thái, hay đoàn quân của Tần Thủy Hoàng “tốm thâu Lục Quốc”.
Sự lo sợ của quần chúng từ Nam vĩ tuyến là điều có thật lính “Giải Phóng” của các ông tiến tới đâu thì dân chúng bồng bế nhau bỏ chạy về một phương trời vô định, Không biết đi đâu điểm đích là chổ nào miểm là vùng Quốc Gia , nơi đó không có quân giải phóng, nơi đó không có cán bộ cộng sản là dân chúng tìm đến…!!! Nhưng đoàn quân của ông bộ trưởng Trương Như Tảng, nó tàn ác quá, tàn sát nhân dân Việt không thua gì quân của Hitler tàn sát dân Do Thái.
Những trại tập trung “cải tạo” của quân “Giải Phóng CSVN” còn tàn ác hơn lò hơi ngạt của Hitler vì nó giết người ngay tức khắc, không đau đớn, không quằn quại. Trại “cải tạo” vói hình thức hành hạ, con người hơn súc vật, bọn cán bộ”quản giáo” hành hạ quân cán chính VNCH, đau đớn chết dần chết mòn, chết không cò máu để chảy, không còn nước mắt để rơi, và nếu còn sống sót sau khi thả về con người như chết chưa chôn, có xác nhưng không còn hồn…
Hơn cả vài trăm ngàn sinh linh đã chết trên đường trốn chạy sự tàn ác của đoàn đoàn quân xâm lược CSVN, hoăc chết trong rừng sâu,hoăc chết dưới lòng đại dương làm mồi cho cá. Đàn bà, con gái bị hải tạc hãm hiếp, cướp bóc. Người dân bất hạnh không chạy thoát được, họ đã bị tước đoạt tất cả những gì họ có, tài sản, ruộng vườn nhà cửa , kể cả tánh mạng bị đe doạ… Họ đã cam tâm cuối đầu chịu đựng cách thống trị tàn bạo nhất trong lịch sử dân tộc trên 38 năm qua và còn tiếp tục…
Điều nguy hại cho dân tộc, cho tổ quốc là mãnh gian san mà tiền nhân hy sinh xương máu, gầy dựng, gìn giữ nay lần lược mất dần mất mòn vào tay Tàu Cộng do sự hiến dâng của tập đoàn thái thú CS Việt Nam mà ông Trương Như Tảng cùng đồng bọn của cái chính phủ Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam cùng mặt trận Giải Phóng dày klhuyển mã ra công đóng góp cho đoàn quân xâm lược tàn sát nhân dân miền Nam.
Thưa ông với trách nhiệm to lớn dối với một ông bộ trưởng trong “CÁI” chính phủ ma của các ông bà, mà theo quan điểm của ông thì nó sẽ “công bằng hơn tố đẹp hơn, tự do hơn nhân ái hơn chính quyền của Nguỵ Saigon” nhưng ông đã vở mộng và đã nhìn nhận thân phụ ông khi vào thăm ông đã nói đúng:
“Ông cho rằng trước kia ông cùng với một số trí thức miền Nam khác vốn tin mình tranh đấu cho một miền Nam có một chế độ riêng, và thi hành chính sách hòa hợp hoà giải với phe quốc gia. Nhưng sau 30 tháng tư ông thấy những lời hứa hẹn, cam kết của những Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ (trang 283-284) chỉ là giả dối. Chỉ một năm sau chiến thắng đảng đã hoàn tất việc thống nhất đất nước, nghĩa là giải tán chính phủ lâm thời cộng hòa miền Nam của nhóm các ông. Không có hòa hợp hòa giảị Không có chính phủ ba thành phần. Mà chỉ có đảng, một đảng duy nhất, từ danh xưng đảng Lao động đã đổi ngay sang "đảng Cộng sản Việt Nam". Hơn 300.000 người (con số tối thiểu của ông đưa ra) bị bắt giữ, không có xét xử và không biết ngày về, trong đó có anh em ruột thịt, bà con thân thích, bạn bè của ông, hay của những người tai to mặt lớn trong Mặt trận, kể cả con rể của luật sư Trịnh Đình Thảo, người bạn vong niên của ông.
Sau khi Saigon thất thủ, Trương Như Tảng có dịp liên lạc với gia đình thì được biết cha ông mới qua đời, con gái ông đã được phu nhân tổng thống Thiệu bảo trợ cho đi du học ở bên Mỹ, con trai ông cũng đã sang Pháp, còn mấy người anh em ông thì bị đi "học tập cải tạo", trong đó có một người cho đến khi ông viết xong cuốn hồi ký (1985) vẫn còn ở trong tù. Ông buồn rầu nhớ lại lời cha ông nói lúc vào thăm ông trong nhà tù của tổng nha cảnh sát quốc gia năm 1967 (nguồn như nêu trên)
Thưa trí thức Trương Như Tảng người xưa thường khuyên rằng “đánh kẻ chạy đi, không nên đánh kẻ chạy lại” ...Nhưng cũng tùy trường hợp để áp dụng; Trường hợp của ông và đồng bọn của ông đã tình nguyện trở thành tội đồ của dân tộc: Tội bất hiếu với chính tứ thân phụ mẫu và anh em trong gia đình ông chính ông đã thành lập chính phủ để chính phủ đó đã đem quân chiếm đoạt tài sản và mạng sống của chính người thân của ông, cũng như tội bất trung với toàn dân mà chứng tích còn rành trước mặt, nhưng các ông đã thể hiện tình thần phục thiện mà tội ác đã gây ra cho chính đồng bào ruột thịt như thế nào??? Không lẽ chỉ viết hồi ký thôi sao??? Tội ác gây ra thì trách nhiệm phải gánh lấy mới là anh hùng trong trời đất mới không hổ danh hai chử TRÍ THỨC.
Bài viết với mục đích không phải khơi lại đống tro tàn để tìm đóm lửa hắt hiu sắp tắc, nhưng để nêu lên một, những ...trí thức đã mê muội “ăn phải phân Việt Cộng” ra thân khuyển mã tiếp tay cho CSHN chiếm đoạt miền Nam gây tan thương cho dân tộc. Để làm tấm gương cho “bọn” trí thức đã cam tâm nhục mạ người quân nhân của QLVNCH cũng chính phủ Miền Nam và đã, đang ,tiếp tục đánh giày cho lãnh đạo CSVN bằng lưởi. Hảy thức tỉnh đi những trí thức hải ngoại, hiện đang trong cơn mê loạn vô minh.
Võ Long Ẩn