Tuesday, 18 February 2014

DẤU HỎI NGÃ

DẤU HỎI NGÃ
Như đã trình bày trong một bài trước đây [1], một từ tiếng Việt chỉ mang một trong số sáu thanh. Thanh là yếu tố định bậc cao thấp trong thang âm sáu bậc của tiếng Việt hiện đại, và là yếu tố cần và đủ để tạo thành ý nghĩa khu biệt của một từ. Sáu bậc cao thấp đó được cụ thể hoá một cách dễ hiểu bằng sáu tiếng sau đây: ngang (hoặc không) - huyền - ngã - hỏi - sắc - nặng. Phân biệt bốn thanh khác không có khó khăn gì, nhưng hai thanh hỏi và ngã thì cần nhiều công phu. Từ nghỉ và nghĩ chẳng hạn, chỉ khác nhau ở một dấu hỏi hay ngã mà làm nên sự khác biệt về ý nghĩa của hai từ đó. So sánh hai câu dưới đây để thấy sự khác biệt giữa hai thanh hỏi và ngã làm nên sự khác biệt ý nghĩa của từ:
  1. Thôi, đừng nghĩ ngợi làm gì cho mệt xác !
  2. Thôi chứ, đã hết giờ nghỉ mệt rồi !

Cho nên lầm lẫn dấu hỏi ngã trong những trường hợp như thế sẽ thay đổi hẳn ý nghĩa của từ trong một câu. Phân biệt dấu hỏi và ngã là một việc tương đối dễ dàng đối với người nói giọng bắc, nhưng lại là một việc cần thiết cho những ai nói giọng trung và nam - nghĩa là người phát âm giọng tiếng Việt từ phía nam Thanh Hoá vào trong vùng tây nam bộ. Ðối với những người - đàng trong - thì phân biệt hỏi ngã dựa trên phát âm là chuyện khó chính xác, vì số từ ngữ tiếng Việt mang dấu hỏi và ngã là một khối lượng khá lớn [2]. Do vậy, nếu nắm được một số những quy tắc hoạt động của thanh hỏi và thanh ngãthì sẽ giúp giải quyết những khó khăn về dấu hỏi - ngã.
Trong bài này chúng tôi cố gắng hệ thống hoá lại những nét chính của chính tả dấu hỏi ngã trong tiếng Việt. Vì việc phân biệt hỏi ngã có khác nhau giữa hai loại từ vựng trong tiếng Việt, chúng tôi sẽ chia bài thành hai phần chính: trước hết là phân biệt hai nhóm từ vựng trong tiếng Việt, sau đó mới tìm hiểu cách phân biệt hỏi-ngã trong từng nhóm loại từ vựng này.

NHẬN BIẾT MỘT TỪ   TIẾNG VIỆT
Chúng ta biết rằng từ vựng tiếng Việt là tập hợp từ những nguồn khác nhau: nguồn thứ nhất là những từ ngữ rất lâu đời của cộng đồng ngôn ngữ Việt cổ thuộc họ ngôn ngữ Nam A¨; nguồn thứ hai là những từ ngữ vay mượn từ một ngôn ngữ khác, hoặc là từ tiếng Hán (tức là tiếng Hoa nói vào đời Hán), hoăc là từ một ngôn ngữ phương tây gần đây [3]. Như vậy thì một từ  tiếng Việt có thể là một từ "thuần Việt" (hay có khi còn gọi là tiếng nôm), cũng có thể là một từ Hán Việt, hoặc là một từ mới vay mượn từ một ngôn ngữ khác. Mỗi loại từ  trên có những nét tính cách khác nhau về thanh. Nhận biết được một từ là thuộc nhóm từ nôm hoặc từ Hán Việt sẽ giúp giải quyết được một số khá nhiều những trường hợp cần phân biệt dấu hỏi ngã. Nhưng làm thế nào để phân biệt được đâu là một từ thuần Việt và đâu là một từ Hán Việt hoặc một từ vay mượn ?
  1. Từ thuần Việt trước kia thường gọi chung đây là những "tiếng nôm", nói trại từ "tiếng nam", tức là tiếng của người nước Nam - để phân biệt với tiếng nói của người phương Bắc, tức là người Hán. Ðó là những từ có thể chuyển đổi thanh theo quy luật hài thanh, hoặc là những từ láy âm theo phép hoà phối ngữ âm. Chẳng hạn, từ nở, nóng, hỏi là những từ thuần Việt, vì chúng có thể tạo thành những từ láy âm: nở nang, nóng nảy, hỏ han. Một từ như đã, chẳng, dẫu là những từ thuần Việt, vì chúng có thể chuyển thanh điệu mà vẫn giữ nguyên ý nghĩa: đà, chăng, dầu.
     
  2. Từ Hán Việt là những từ đã vay mượn từ vốn từ vựng tiếng Hán từ cả gần hai nghìn năm trước đây, khi nhà Hán bên Trung Hoa sang đô hộ xứ mình. Số từ Hán Việt đã chiếm quá nửa số vốn từ của chúng ta hiện nay. Có thể nhận biết một từ Hán Việt hay không là nhờ mấy cách như sau:
     
    1. Nếu một chữ hay một tiếng có thể ghép với các tiếng như nhất (một), hữu (có),  (không), bất (chẳng), thì từ ấy phải là từ Hán Việt. Vậy thì từ nhân, ích, đạo, bình là những tiếng Hán Việt vì chúng có thể kết hợp có ý nghĩa với bốn tiếng trên kia: nhất nhân, hữu ích, vô đạo, bất bình.[4]
       
    2. Nếu một chữ hay một tiếng có nghĩa nhưng không thể đứng một mình làm thành một từ được mà chỉ có thể làm thành một thành phần của từ mà thôi, thì đó là một chữ Hán Việt. Ví dụ: những tiếng quốc (nước), gia (nhà), sơn (núi),  (sông), nhất (một), nhị (hai),& thường chỉ ghép chúng với một tiếng khác chứ không thể dùng riêng rẽ được. Chẳng hạn, để nói ý "hai quả núi", người Việt không thể nói nhị núi hoặc hai quả sơn; cũng thế, có thể viết là nhất gia, sơn hà, nhị nhân... nhưng không thể nói một gia, núi hà, hai nhân. Vậy thì những tiếng quốc, gia, sơn hà, nhân, nhất, nhị là những tiếng Hán Việt.
       
    3. Nếu gặp một chữ hoặc một tiếng mà ta không hiểu nghĩa, nhưng ta lại biết rằng chúng có thể ghép chung với hai từ mà lại có cùng ý nghĩa, thì đó là một tiếng Hán Việt. Ví dụ: ta gặp từ trường sinh mà ta không biết tiếng trường là gì, nhưng biết là nó ghép chung với hai tiếng khác (trường dạ, trường kỉ), thì có thể đoán biết là trường là một tiếng Hán Việt có nghĩa là "dài"; hoặc là đọc đến mấy chữ tác nghiệp, ta không hiểu tác là gì, nhưng biết là có sáng tác, tác giả, thì đoán biết tác là một tiếng Hán Việt, có nghĩa đại khái là "làm ra cái gì đó".
       
    4. Nếu một tiếng nào đó mặc dù quen dùng riêng rẽ trong lời nói hằng ngày, nhưng lại thấy chúng thường ghép trong ít nhất là hai từ Hán Việt, thì tiếng hoặc chữ đó là một tiếng Hán Việt. Ví dụ: tiếng học là một từ quen dùng. Tiếng này có thể gặp trong những từ Hán Việt như học sinh, đại học, học vị. Vậy thì tiếng học là một tiếng Hán Việt. Thí dụ khác: tiếng chúng có thể gặp trong các từ Hán Việt như quần chúng, chúng sinh..., vậy thì chúng cũng là một tiếng Hán Việt.
       
  3. Từ vay mượn: là những từ ngữ vay mượn từ vốn từ vựng của các ngôn ngữ khác, cụ thể là các ngôn ngữ phương tây. Từ khi giao tiếp với phương tây đến nay, tiếng Việt đã đưa vào kho từ vựng của mình những tiếng như xà phòng, (áo) sơ mi, xi măng, (dầu) xăng, cao bồi, (trái) bom, phim, (xe) ô tô, cuốc (xe), (bà) đầm, (bánh) quy, (nhà) băng, két (bạc), (kinh) xáng. Những tiếng vay mượn này hoặc được phiên âm trực tiếp từ một từ ngữ phương tây (xi măng <cement>, bom <bombe>, phim <film>, ô tô <auto>, băng <banque>), hoặc được đọc trại âm theo lối phát âm của người Việt (xà phòng <savon>, sơ mi <chemise>, xăng <essence>, cao bồi <cow boy>, cuốc <course>, đầm <dame>, (bánh) quy <biscuit>, két <caisse>, (kinh) xáng <chaland>). Những tiếng vay mượn này được cố gắng Việt hoá, cho nên cũng mang tất cả các thanh của tiếng Việt.
     
DẤU HỎI NGÃ ÐỐI VỚI TIẾNG THUẦN VIỆT
Một tính cách rất nổi bật của tiếng Việt là tính cách hoà phối ngữ âm giữa hai thành phần của một từ kép mà chúng ta thường gọi là từ láy. Những từ có hai âm tiết láy với nhau khi một hay nhiều thành phần âm tiết của hai âm tiết đó lặp lại giống hệt âm kia (gọi là điệp âm), hoặc kết hợp với âm kia theo một trật tự nào đó. Một vài thí dụ về từ láy: vui vẻ, xinh xắn, khô khan, đẹp đẽ... Hiện tượng láy từ có tác dụng trước hết là sự cân đối, sự hài hoà giữa các âm tiết của từ. So sánh hai câu dưới đây:
       2a     Căn nhà này khá rộng.
       2b     Căn nhà này khá rộng rãi.
Cả hai câu nói đều đúng cách nói thông thường. Nhưng khi nói rộng rãi như trong câu 2b thì nghe êm ái hơn, dễ nghe hơn, và do đó được chuộng hơn.

Xem thế thì hoà phối ngữ âm là sự kết hợp hài hoà giữa thành phần của một từ với một từ khác để tạo thành sự cân đối nhịp nhàng. Hoà phối ngữ âm có thể thực hiện ở cả bốn thành phần âm tiết của từ:

         Láy âm đầu: lững lờ, lờ vờ, lụng thụng
         Láy âm chính: đo đỏ, gồ ghề, chúm chím, nhõng nhẽo
         Láy âm cuối: mũm mĩm, hầm hập, ươn ướt
         Láy thanh: thênh thang, vàng vọt, lả lơi, ngả ngớn
Ở đây chúng ta chỉ chú ý đến sự hoà phối ngữ âm về mặt thanh điệu. Sự phân bố cân phương này được gọi là luật hài thanh [5]. Luật hài thanh được thể hiện qua hai hiện tượng liên quan đến hoạt động của thanh điệu tiếng Việt:
  1. Trước hết là sự hài thanh giữa hai âm tiết của từ láy: đây là sự phân bố cân đối giữa các thanh giữa hai âm tiết của một từ kép thành từng đôi một trong mỗi nhóm dưới đây:

           Nhóm thứ nhất (thanh bổng): ngang - hỏi - sắc 
           Nhóm thứ nhì (thanh trầm): huyền - ngã - nặng 

    Theo bảng trên đây, hai từ thuộc nhóm thứ nhất có thể mang một trong ba thanh:
     
    • Ngang - hỏi: lửng lơ, thơ thẩn, sang sảng
    • Hỏi - sắc: lở lói, ngả ngớn, vắng vẻ, gắng gỏi,
    • Ngang - sắc: diêm dúa, nghe ngóng, mang máng, líu lo, thối tha
    Ba thanh thuộc nhóm thứ nhì được phân bố kết hợp như sau:

    • Huyền - ngã: ầm ĩ, lờ lững, vòi vĩnh, ỡm ờ, thẫn thờ,
    • Ngã - nặng: kĩu kịt, nũng nịu, nhão nhoẹt, hợm hĩnh, đẹp đẽ
    • Huyền - nặng: mờ mịt, vàng vọt, lặng lờ, mặn mà
       
  2. Luật hài thanh còn thể hiện cả trong hiện tượng chuyển thanh điệu của một số từ. Tiếng Việt có nhiều từ biến đổi thanh mà vẫn không đổi ý nghĩa sang một từ khác. Hiện tượng chuyển đổi thanh trong tiếng Việt cũng theo phép hài thanh, nghĩa là các từ chuyển thanh theo hai nhóm mà Lê Ngọc Trụ (1959) tóm lại thành hai mô hình mà ông gọi là tan - tán - tản và lãi - lời - lợi. Phép chuyển thanh này như sau:

    Ðổi thanh theo mô hình tan - tán - tản (nhóm ngang - hỏi - sắc). Dưới đây là một số trường hợp thường gặp:
     chăng - chẳng lén - lẻn rảy - rưới
     chưa - chửa lỏm - lóm túa - tủa / toả
     không - hổng thoáng - thoảng há miệng - hả miệng
     phản - ván ham - hám nói hở - nói hớ
     tan - tản bấu - bâu vểnh mặt - vênh mặt
    Ðổi thanh theo mô hình lãi - lời - lợi (nhóm huyền - ngã - nặng). Dưới đây là một số trường hợp thường gặp:
     đã - đà ngỡ - ngờ chậm rãi - chẫm rãi
     lời - lợi cội - cỗi ướt đẫm - ướt đầm
     dẫu - dầu còi - cỗi đen sậm - đen sẫm
     cũng - cùng đỗ - đậu xoã tóc - xoà tóc
     (sông) Nhị - (sông) Nhĩ thõng - thòng ăn ruỗng - ăn ruồng
  3. Ngoài ra, có một số từ Hán Việt và tiếng thuần Việt dường như có liên quan, gần gũi với nhau [6]. Những trường hợp vay mượn qua lại như thế cũng tuân theo phép hài thanh của tiếng Việt, nghĩa là cũng theo một trong hai mô hình tan - tán - tản và lãi - lời - lợi. Dưới đây là một vài thí dụ về sự giao tiếp ngôn ngữ như thế:
     huyền - ngã - nặng ngang - hỏi - sắc
     cưỡng - gượng thiểu - thiếu
     trữ - giữ thố - thỏ
     đãi - đợi xả - xá
    Biết được tính cách của luật hài thanh thì chúng ta có thể nêu lên thành luật gọi là "luật hỏi-ngã của các tiếng nôm" như sau:
     Luật 1khi hai tiếng có thể láy được với nhau thì hễ một tiếng mang dấu ngang (không dấu) hoặc dấu sắc thì tiếng kia phải mang dấu hỏi; ngược lại, hễ một tiếng mang dấu huyền hoặc dấu nặng thì tiếng kia phải mang dấu ngã.
     Luật 2một từ có thể chuyển thanh điệu sang ngang hoặc sắc thì chắc chắn là mang dấu hỏi (theo mẫu tan - tán - tản); ngược lại, một tiếng có thể chuyển sang thanh huyền hoặc thanh nặng thì chắc chắn là có dấu ngã (theo mẫu lời - lãi - lợi).
    Hai luật hỏi ngã này có thể giúp giải quyết được một số khá lớn các trường hợp mà người viết đang còn phân vân không biết nên bỏ dấu hỏi hay dấu ngã. Chẳng hạn, khi phải viết câu dưới đây, người nói giọng đàng trong có thể phân vân không biết bỏ dấu hỏi ngã thế nào:
           3a     Chị  gói thịt  ra rồi ngao ngán thơ dài.
    Có thể dùng phép hài thanh (ngang hỏi sắc-huyền ngã nặng) để tìm ra được rằng: tiếng Việt có nói mở mang (làm cho rộng ra) theo luật ngang-hỏi-sắc, và có mỡ màng (có nhiều chất dầu, mỡ) theo luật huyền-ngã-nặng; lại cũng có thở than (than vãn chuyện gì) mà không có *thỡ (viết với dấu ngã). Vậy câu 3a bỏ dấu hỏi ngã như sau:
           3b    Chị mở gói thịt mỡ ra rồi ngao ngán thở dài.
    Một thí dụ khác là khi viết câu dưới đây:
           4a    Ðứa bé đa ăn no rồi mà vân chưa chịu đi ngu.
    Chúng ta biết là từ đã ở đây phải bỏ dấu ngã vì cũng có thể nói đà mà câu vẫn không đổi nghĩa. Từ vẫn mang dấu ngã vì phó từ này không có thể nhầm lẫn với từ vẩn - Có nghĩa là chất cặn bẩn, hoặc từ vẩn vơ (có nghĩa là tâm trạng không dứt khoát) theo luật ngang-hỏi-sắc. Từ ngủ ở cuối câu thì chỉ có thể láy thành ngủ nghê theo luật ngang-hỏi-sắc, nên phải mang dấu hỏi. Vậy thì câu 4a được viết hoàn chỉnh như sau:
           4b    Ðứa bé đã ăn no rồi mà vẫn chưa chịu đi ngủ.
     
  4. Ngoài ra, cũng nên biết thêm là người Việt - nhất là người miền Nam - hay nói gộp các tiếng hai âm tiết thành một trong những trường hợp sau đây: phải không > phỏng, bà ấy > bả, ở bên ngoài ấy > ở ngoải, hôm ấy > hổm, năm ấy > nẳm, hồi ấy > hổi [7]. Tất cả những tiếng nói gộp trên đây đều mang dấu hỏi. Vậy thì có luật 3 như sau:
     
     Luật 3 Các tiếng nói gộp âm đều mang dấu hỏi

  5. Trong kho từ ngữ tiếng Việt hiện đại còn có một nhóm nhỏ những từ ngữ nước ngoài nhưng đã được chuyển sang giọng đọc tiếng Việt. Các tiếng vay mượn thường được phiên chuyển sang thanh hỏi: moả (< moi), xừ luỷ (< lui), đi rỏn (< ronde), sở cẩm (< commissaire de police), làm cỏ vê (< corvée). Vậy có thể nêu thành luật cho loại từ ngữ này như sau:
     
     Luật 4các tiếng vay mượn từ tiếng nước ngoài và đã chuyển sang giọng tiếng Việt, thì thường viết với dấu hỏi.

DẤU HỎI NGÃ CỦA TỪ HÁN VIỆT
Như đã nói ở trên, nhận biết được một từ Hán Việt sẽ có lợi rất lớn là phân biệt được một phần khá lớn những từ mang dấu hỏi ngã thuộc nhóm từ Hán Việt. Giở từ điển Hán Việt, ta có thể thấy là:
(1) Những từ Hán Việt bắt đầu bằng các phụ âm d, l, m, n. nh, ng, v thường viết dấu ngã [8]. Có khoảng 180 từ Hán Việt mang dấu ngã. Ví dụ:

 Phụ âm d: dã, dĩ, dũ, dữ. 
 Phụ âm l: lão, lễ, lỗ, lữ
 Phụ âm m: mão, mãnh, mẫn, mỗ
 Phụ âm n: não, nễ, nỗ, nữ
 Phụ âm ng: ngã, ngỗ, ngũ, ngữ 
 Phụ âm nh: nhã, nhĩ, nhũ, nhữ
 Phụ âm v: vẫn, vĩ, viễn, vũ

(2) Ngoài những trường hợp kể trên, các từ Hán Việt khác bắt đầu bằng các phụ âm khác đều viết dấu hỏi, trừ những lệ ngoại sẽ nói ở dưới. Ví dụ về các từ Hán Việt có dấu hỏi:

Nguyên âm: ả, ảo, ẩn, yểu, uẩn, uỷ.

Phụ âm 
b bảo, bỉ, bỉnh, bổng, bửu
c/k/q cảo, cổ, củ, kỉ, kiểu, quả, quản, quảng, quỷ
đầu ch chỉ, chiểu, chuẩn, chủng, chử
đầu đ đả, đẩu, để, điểu, đổ 
gi giả, giảo, 
h hảo, hỉ, hổ, hủ
đầu kh khả, khẩu, khổ, khởi
ph phả, phỉ, phổ
s sỉ, sổ, sửu
t tả, tảo, tể, tỉ, tổ, tử
th thải, thổ, thủ, thưởng
tr trảo, trảm, triển, trưởng
x xa, xả, xảo, xỉ, xử

Nhóm thứ nhì này có khoảng 30 trường hợp ngoại lệ, cần nhớ thuộc lòng. Dưới đây là bảng liệt kê các từ đó với những thí dụ về từ ghép đặt trong ngoặc:
Phụ âm 
b bãi (bãi thị, bãi nại), bĩ (bĩ vận), 
c cữu (linh cữu), cưỡng (cưỡng đoạt) 
đ đãng (khoáng đãng), đễ (hiếu đễ), đỗ (Ðỗ thị)
h hãm (hãm hại), hãn (hãn hữu), hoãn (hoãn binh), hĩ (một tiếng đệm), hỗ (hỗ trợ), hỗn (hỗn hợp, hỗn mang), huyễn (huyễn mộng), hữu (bằng hữu)
k kĩ (ca kĩ, kĩ thuật, kĩ xảo)
ph phẫn (phẫn nộ), phẫu (giải phẫu)
d quẫn (quẫn bách), quỹ (quỹ đạo, quỹ tích, thủ quỹ)
s sĩ (bác sĩ, viện sĩ), suyễn (suyễn tức, suyễn yết) 
t tiễn (tiễn biệt), tĩnh (tĩnh mịch), tuẫn (tuẫn tiết)
th thuẫn (mâu thuẫn), thũng (phù thũng)
tr trãi, trẫm, trĩ (ấu trĩ), trữ (dự trữ, lưu trữ, tích trữ)
x xã (xã hội, xã tắc)

Từ hai điểm trên, chúng ta có thể nêu lên hai luật hỏi ngã dành cho tiếng Hán Việt như sau:
 Luật 5các từ Hán Việt có phụ âm đầu d, l, m, n, nh, ng, v đều có dấu ngã.
 Luật 6các từ Hán Việt khác có thanh hỏi. Trừ khoảng 30 trường hợp ngoại lệ.
Tóm lại, viết dấu hỏi ngã tiếng Việt cho dù phức tạp nhưng vẫn có những lề luật từ tự thân tiếng Việt. Những mẹo luật mà Nguyễn Ðình và Lê Ngọc Trụ đã phát hiện và được nhắc đến ở đây chẳng qua chỉ là những phát hiện những quy luật ẩn dấu trong hoạt động ngôn ngữ mà thôi. Ðể có thể áp dụng sáu "luật hỏi ngã" trên đây, cần đến công phu thực tập đều đặn trong một thời gian đủ để chiêm nghiệm những quy luật được thể hiện qua thực tiễn ra sao.
Trong tình hình dạy và học tiếng Việt tại hải ngoại hiện nay, việc phân biệt dấu hỏi và dấu ngã là một công việc khó khăn. Nhưng đây cũng lại là một việc cần thiết vô cùng, vì đó là một trong những công việc cần thiết để nâng cao trình độ hiểu biết về chuẩn mực ngôn ngữ của tiếng Việt. Có thể là chuyện viển vông khi nói đến chuẩn mực ngôn ngữ ở hải ngoại lúc này, nhưng đây lại là nhu cầu chính đáng của lớp trẻ ngày càng đòi hỏi phải nhìn lại cho rõ đâu là chuẩn mực ngôn ngữ. Ðó cũng chính là mục đích của chính tả vậy [9].
Ðoàn Xuân Kiên
Luân Ðôn (1998)
* Bài đăng trong tập san Ðịnh Hương 21 (1998)

Tài liệu:
  • Lê Ngọc Trụ (1959): Chánh Tả Việt Ngữ. (bản in kì 2). Sài Gòn: nxb. Trường Thi
  • Nguyễn Ðình (1939): Luật Ngã Hỏi, tạp chí Tao Ðàn (Hà Nội), bộ mới, số 8, ngày 16.6.1939
  • Phan Ngọc (1982): Chữa Lỗi Chính Tả Cho Học Sinh. Hà Nội: nxb. Giáo Dục
Ghi chú:
[1] Ðoàn Xuân Kiên, "Bàn về việc đánh dấu thanh tiếng Việt", in trong tập san Ðịnh Hướng số 17 (mùa thu 1998), tr. 109-121.

[2] Tiếng Việt hiện đại có khoảng 2000 từ mang dấu hỏi, và khoảng trên 1000 từ mang dấu ngã.

[3] Nói về hiện tượng vay mượn thì cần chú ý riêng đến vốn từ ngữ mượn từ tiếng Trung Hoa do người Hán đem sang từ khi họ đô hộ nước Việt cổ. Trong một thời gian dài cả nghìn năm, tiếng Hán đã trở thành một thứ ngôn ngữ chính thức trong xã hội Việt. Ðến khi nước ta giành lại nền độc lập (năm 939) thì tiếng Hán vẫn là thứ văn tự chính thức trong hành chính và giáo dục. Vì thế mà chúng ta gọi kho từ ngữ Hán dùng tại nước mình là tiếng Hán Việt. Chỗ đứng của tiếng Hán Việt trong kho từ ngữ tiếng Việt hiện đại rất là đặc biệt, khác hẳn với một số nhỏ những từ ngữ mượn từ các ngôn ngữ phương tây về sau: đã từ lâu đời rồi, ngôn ngữ văn hoá của người Việt không thể thiếu vốn từ Hán Việt. Chỗ đứng của tiếng Hán Việt trong tiếng Việt trong chừng mức nào đó tương tự như tiếng Latin trong các ngôn ngữ Ấn-Âu vậy. Trước đây, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam toan loại bỏ chỗ đứng của từ Hán Việt. Nay thì họ lại rơi vào một quá khích khác, là dùng nhiều từ Hán Việt đến mức làm cho tiếng Việt nhiều khi tối tăm, nặng nề. (Báo Nhân Dân có thừa những dẫn chứng cụ thể về chuyện này). Chúng ta không sùng bái nhưng cũng không thể có thái độ kì thị đối với tiếng Hán Việt. Vả chăng, số vốn từ vựng Hán Việt trong tiếng Việt hiện đại chiếm đến khoảng 60% từ ngữ, thì thái độ chính đáng của bất cứ ai quý trọng tiếng Việt là cần phải học hỏi và trau giồi vốn từ Hán Việt.
[4] Cần lưu ý là trong lối nói thông thường hiện nay có khi chúng ta nói bất kể nhưng đây là trường hợp nói sai quy tắc, vì kể không phải là từ Hán Việt.
[5] "Luật" này đã được một nhà giáo trẻ -tên là Nguyễn Ðình- tìm ra đầu tiên. Ông gửi đăng trên tạp chí Tao Ðàn số 8 bộ mới (1939) một bài báo mà ông gọi là luật ngã hỏi. Về sau ông Lê Ngọc Trụ đã phát triển thêm và gọi đó là luật bổng trầm (1943). Cũng Lê Ngọc Trụ đã khai triển thêm về những lề lối chuyển thanh âm của tiếng Hán Việt, và hoàn chình các mẹo luật chính tả tiếng Việt trong tập Chánh tả Việt ngữ (1952).
[6] Các nhà Hán ngữ học (như Vương Lực) đã dò tìm trong một số từ ngữ Việt rất gần với giọng phát âm của người Hán, và đã đưa ra giả thuyết là tiếng Hán cổ có thể cũng vay mượn một số từ của Giao Châu trong thời kì người Hán sang đô hộ.
[7] Gs. Lê Ngọc Trụ cho rằng có một ngoại lệ là hỗi (dấu ngã), vì ông cho rằng đó là nói gộp âm của "hồi nãy đến giờ". Các bạn miền Nam của chúng tôi thì lại cho rằng khi nói hổi, họ nghĩ đến "hồi đó tới giờ". Vậy thì có một biệt lệ ở đây hay chăng?
[8] Ðể cho dễ nhớ, có thể học thuộc lòng câu sau đây: "mình nên nhớ là viết dấu ngã ", trong đó các âm đầu đều mang phụ âm của các từ Hán Việt có dấu ngã.
[9] Chính tả nghĩa là viết (tả) cho đúng (chính), nghĩa là viết đúng theo một mẫu mực nào đó được xã hội công nhận và quy định làm mực thước cho mọi người phải tuân theo.

  1. DẤU HỎI NGÃ TRONG TIẾNG VIỆT.


    Bài viết này nhằm mục đích đóng góp một vài qui luật về dấu hỏi ngã của tiếng mẹ đẻ Việt Nam chúng ta. 



    Văn hóa Việt Nam của chúng ta vô cùng phong phú, một trong những nguồn phong phú vô ngàn mà trên thế giới không ai có, đó là ý nghĩa về dấu hỏi ngã. Thật thế, dấu hỏi ngã trong tiếng Việt đóng một vai trò quan trọng, viết sai dấu hỏi ngã có thể làm đảo ngược ý nghĩa và có khi vô cùng tai hại cho văn chương và văn hóa Việt Nam. 
    Xin dẫn chứng vài trường hợp như sau:

    Danh từ "nhân sĩ", chữ "sĩ" phải được viết bằng dấu ngã để mô tả một vị chính khách có kiến thức văn hóa chính tri. Nhưng nếu vô tình chúng ta viết "nhân sỉ", chữ "sỉ" với dấu hỏi thì ý nghĩa của danh từ "nhân sĩ" sẽ bị đảo ngược lại, vì chữ "sỉ" với dấu hỏi có nghĩa là sỉ nhục và như vậy sẽ bị trái nghĩa hoàn toàn.

    Một chữ thông thường khác như là động từ "sửa chữa", nếu bỏ dấu hỏi ngã sẽ có nhiều ý khác nhau: sửa chữa(sửa dấu hỏi, chữa dấu ngã) tức là chúng ta sửa lại một cái gì bị hư hỏng, thí dụ sửa chữa xe hơi. Nhưng nếu cho dấu ngã vào thành chữ "sữa" và dấu hỏi trên chữ "chửa" tức có nghĩa là sữa của những người đàn bà có thai nghén. 

    Người sai lỗi nhiều nhất về viết sai dấu hỏi ngã là người miền Nam và Trung. May mắn nhất là người thuộc miền Bắc, khi sinh ra là nói và viết dấu hỏi ngã không cần phải suy nghĩ gì cả. Nhưng khốn nỗi có khi hỏi họ tại sao chữ này viết dấu hỏi chữ kia lại đánh dấu ngã thì họ lại không cắt nghĩa được mà chỉ nở một nụ cười trên môi... 

    Dấu hỏi ngã được căn cứ vào ba qui luật căn bản: Luật bằng trắc, chữ Hán Việt và các qui luật ngoại lệ. 

    A. LUẬT BẰNG TRẮC TRONG TỪ LẮP LÁY.
    Từ lặp láy tức là từ mà trong đó một chữ có nghĩa nhưng chữ ghép đi theo chữ kia không có nghĩa gì cả và hai chữ bắt đầu cùng một vần.

    Thí dụ:

    Vui vẻ: chữ "vui" có nghĩa mà chữ "vẻ" lại không nghĩa, cả hai cùng bắt đầu bằng vần V.
    - Mạnh mẽ: chữ "mạnh" có nghĩa nhưng chữ "mẽ" lại không hề mang một ý nghĩa nào hết, 
    cả hai cùng bắt đầu bằng vần M.
    ... Tương tự như các chữ: lặng lẽ, vẻ vang... 

    Dấu hỏi ngã trong từ lắp láy phải theo qui luật bằng trắc sau:

    Luật bằng:
    Một chữ có dấu huyền hay dấu nặng trong từ lặp láy thì chữ đi kèm dù đứng trước hay đứng sau phải được viết bằng dấu ngã (huyền nặng ngã)
    Thí dụ
    Mạnh mẽ: chữ mạnh có dấu nặng (đứng trước), do đó chữ mẽ phải viết dấu ngã
    .
    Sẵn sàng: chữ sàng có dấu huyền (đứng sau) thì chữ sẵn phải là dấu ngã. 
    ... Tương tự như các trường hợp: lặng lẽ, vững vàng, ngỡ ngàng...

    Luật trắc
    Một chữ không dấu hay có dấu sắc trong từ lặp láy thì chữ đi kèm dù đứng trước hay đứng sau phải được viết bằng dấu hỏi (không sắc hỏi).

    Thí d
    Vui vẻ: chữ vui không dấu (đứng trước), thì chữ vẻ phải là dấu hỏi. 
    Hỏi han: chữ han không dấu (đứng sau), như thế chữ hỏi phải có dấu hỏi.
    Hớn hở: chữ hớn có dấu sắc, thì chữ hở phải là dấu hỏi. 
    Vớ vẩn: chữ vớ là dấu sắc thì chữ vẩn phải có dấu hỏi. 
    ... Tương tự như: hở hang, mắng mỏ, ngớ ngẩn... 
    B. CHỮ HÁN VIỆT 
    Văn chương Việt Nam sử dụng rất nhiều từ Hán Việt, chúng ta hay quen dùng hằng ngày nên cứ xem như là tiếng Việt hoàn toàn. Thí dụ như các chữ thành kiến, lữ hành, lãng du, viễn xứ,... tất cả đều do chữ Hán mà ra. 

    Đối với chữ Hán Việt được sử dụng trong văn chương Việt Nam, luật về đánh dấu hỏi ngã được qui định như sau: 
    Tất cả những chữ Hán Việt nào bắt đầu bằng các chữ D, L, V, M và N đều viết bằng dấu ngã.
    Ngoài ra, các chữ Hán Việt khác không bắt đầu bằng năm mẫu tự này sẽ được viết bằng dấu hỏi. 
    Thí dụ
    Dĩ vãng: hai chữ này phải viết dấu ngã vì dĩ vãng không những là hán tự mà còn bắt đầu bằng chữ D và V. 
    Vĩ đạivĩ có dấu ngã vì chữ vĩ bắt đầu với mẫu tự V. 
    Ngẫu nhiên: chữ ngẫu dấu ngã vì áp dụng qui luật Hán Việt nói trên (N đứng đầu).


    - Lưỡng nghi: chữ lưỡng dấu ngã vì chữ L đứng đầu.

    - Tư tưởng: chữ tưởng phải viết dấu hỏi vì vần T đứng đầu (T: ngoài qui luật trên)
    ... Tương tự như: lữ hành, vĩnh viễn,..
    Để dễ nhớ khi sử dụng luật Hán tự, chúng ta nên học thuc câu:

    "Dân LVận Mệnh Nước...=> Ngã"

    C. CÁC QUI ƯỚC KHÁC
    1. Trạng từ (adverb) 
    Các trạng từ thường viết bằng dấu ngã. 
    Thí dụ: 
    - Thôi thế cũng được. Trạng từ cũng viết với dấu ngã. 
    - Xin anh đừng trách em nữa. Trạng từ nữa viết với dấu ngã. 
    - Chắc anh đã mệt lắm rồi. Trạng từ đã viết với dấu ngã. 
    2. Tên họ cá nhân: 
    Các họ của mỗi người được viết bằng dấu ngã. 
    Thí dụ: 
    Đỗ Đình Tuân, Lữ Đình Thông, Nguyễn Ngọc Yến... Các chữ Đỗ, Lữ, Nguyễn đều viết bằng dấu ngã vì đây là danh xưng họ hàng. 

    3. Thừa trừ
    Một qui ước thừa trừ ta có thể dùng là đoán nghĩa để áp dụng theo luật lặp láy và bằng trắc nói trên. 
    Thí dụ: 
    - Anh bỏ em đi lẻ một mình: Chữ lẻ viết dấu hỏi vì từ chữ lẻ loi mà ra. Chữ loi không dấu nên chữ lẻ viết với dấu hỏi. 
    - Anh này trông thật khỏe mạnh: chữ khỏe ở đây có dấu hỏi vì do từ khỏe khoắn mà ra, khoắn dấu sắc thì khỏephải dấu hỏi. 
    D. KẾT LUẬN
    Văn chương là linh hồn của nền văn hóa, viết sai dấu hỏi ngã có thể làm sai lạc cả câu văn, đó là chưa kể đến nhiều sự hiểu lầm tai hại cho chính mình và người khác cũng như các việc trọng đại. Không gì khó chịu cho bằng khi đọc một cuốn truyện hay nhưng dấu hỏi ngã không được chỉnh tề. 

    (Trung Chánh bổ sung và chỉnh lý từ tài liệu sưu tầm)
  2. #2
    Status : Dòng Đời Đang Ngoại tuyến
    Ngày tham gia : Feb 2012
    Bài viết : 146

    BLOGGER CHÊ THỦ TƯỚNG THUA HỌC TRÒ CẤP 1 VÌ VIẾT SAI CHÍNH TẢ

    Tin Saigon - Nhà báo Đỗ Hùng, đồng thời là một blogger đã có phát hiện thú vị, khi căn cứ vào chữ viết tay của Thủ tướng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, và cho biết nhân vật này rất nhiều lần viết sai chính tả và còn thua cả học trò lớp 1. Những hình ảnh chụp và phổ biến trên mạng cho thấy Nguyễn Tấn Dũng thường xuyên lẫn lộn giữa dấu ngã và dấu hỏi. Nhà báo Đỗ Hùng căn cứ vào hai bằng chứng, một là bút tích của ông Dũng ghi vào sổ vàng truyền thống của Trung Đoàn Không Quân 923, nơi đương sự đến thăm vào ngày 26 Tháng Giêng.
    Hai là bút tích của ông Dũng ghi ngoài bì thư tháng 12 năm 2010 gởi ông Tư Kiên, một ân nhân từng cứu mạng ông Dũng trong chiến tranh. Phát hiện của nhà báo Đỗ Hùng ngay lập tức được lan truyền rất nhanh trên các trang mạng lề trái và trên mạng xã hội facebook. Từ đây nhiều người còn nhận thấy không chỉ viết sai dấu hỏi và ngã, Nguyễn Tấn Dũng còn viết sai chính tả nhiều chữ khác nữa. Trên trang Blog của mình, blogger nhà báo Trương Duy Nhất cho biết bút tích ghi trong sổ lưu niệm sau khi thị sát Trung Đoàn Không Quân 923, Nguyễn Tấn Dũng viết sai rất nhiều chỗ, chưa kể đến việc viết hoa tùy tiện vô lối trong khi tên đệm của chính mình lại không biết viết hoa. Ngay cái dấu chấm câu cũng đặt không đúng chỗ.

    Nhà báo Trương Duy Nhất phê bình và cho rằng một đoạn vài câu ngắn tẹo mà sai be bét thua đứa học trò cấp 1 tiểu học, đã ngồi tới cái ghế Thủ tướng, việc viết chưa sạch lỗi chính tả sơ đẳng như thế là hết sức phản cảm và tệ hại, và khuyên Thủ tướng nên chịu khó dành chút ít thời gian đi học lại, văn phòng chính phủ nên mở lớp bổ túc kèm dạy lại cho Thủ tướng sửa những lỗi chính tả rất đỗi sơ đẳng vỡ lòng này. Tưởng cũng nên nhắc lại, hồ sơ cá nhân của Nguyễn Tấn Dũng cho biết đã tốt nghiệp đại học Luật ở trong rừng.

    SBTN
  3. #3
    Status : Dòng Đời Đang Ngoại tuyến
    Ngày tham gia : Feb 2012
    Bài viết : 146

    Thủ tướng viết chưa sạch lỗi chính tả

    Phát hiện thú vị của Mít Tờ Đỗ (Đỗ Hùng): Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng viết sai chính tả.



    Ghi trong sổ lưu niệm sau khi thị sát đoàn không quân Yên Thế (trung đoàn 923, quân chủng phòng không- không quân) mới đây, Thủ tướng Dũng viết sai tùm lum: chữ “bảo vệ” viết thành “bão vệ”, chữ “của đảng” thành “cũa đãng”,“Thủ tướng” thành “Thũ tướng”, “chính phủ” thành “chính phũ”.

    Rồi những lỗi viết hoa tùy tiện vô lối như “Trung Đoàn”, “Nhà Nước”, "Thủ Tướng", "Tổ Quốc", "Anh hùng"…

    Trong khi cái chữ đệm “Tấn” ở dòng họ tên của ông lại không biết viết hoa.

    Ngay cái dấu chấm câu cũng đặt không đúng chỗ.

    Một đoạn vài câu ngắn tẹo mà sai be bét thua… đứa học trò cấp 1!

    Đây không phải là những lỗi sơ ý và cũng không phải lần đầu. Theo Mít Tờ Đỗ, anh theo dõi lâu rồi và thấy ông Dũng rất… chuộng dấu ngã (~).

    Trong một bì thư gửi ông Tư Kiên (Phan Trung Kiên), đồng đội đồng thời là ân nhân cứu mạng từ thời chiến tranh, Thủ tướng Dũng cũng viết sai chữ “gửi” thành “gữi”, và một vài lỗi ngớ ngẩn khác (nguồn: facebook Mít Tờ Đỗ)

    Người Nam nhiều nơi hay mắc lỗi này, không phân biệt được dấu hỏi (?) với dấu ngã (~), cũng như người Bắc nhiều nơi không phân biệt được chữ n với l, ch với tr…

    Biết vậy. Nhưng đã ngồi tới cái ghế Thủ tướng, việc viết chưa sạch lỗi chính tả sơ đẳng như thế là hết sức phản cảm và tệ hại.

    Tôi nghĩ, Thủ tướng nên chịu khó dành chút ít thời gian đi học lại. Văn phòng chính phủ nên mở lớp bổ túc kèm dạy lại cho Thủ tướng khắc phục những lỗi chính tả rất đỗi sơ đẳng vỡ lòng này.

    Việc tưởng nhỏ nhưng không nhỏ. Thủ tướng gì mà viết mấy dòng cũng chưa sạch lỗi chính tả, sai tùm lum, sai be bét thua cả đứa học trò cấp 1.

    Mấy việc lớn tầm chính sách vĩ mô thì các Phó thủ, bộ ngành hay các bộ phận chuyên gia, trợ lý, thư ký chi đó có thể làm giúp cũng chẳng ai biết. Nhưng những việc thế này thì không thể để ai cầm tay viết hộ được.

    (Nguồn ảnh từ báo Tiền Phong và Vnexpress)

    Theo Trương Duy Nhất