1. Khung
trời của Ý.
Ý, tức Ý Tưởng. Ý Niệm. L’ univers des Idées. Cũng như tôi, quý
bạn nào theo Ban Triết trước 1975 chắc còn nhớ Platon (khoảng 427-347 BC) –là đệ
tử của Socrate và sư phụ của Aristote, cả ba đều là những triết gia lừng danh
thời cổ đại Hy Lạp– và lý thuyết và tư tưởng đặc sắc của ông. Tác phẩm đồ sộ của
Platon viết theo thể đối thoại (dialogues), dài ngắn khác nhau (từ 22 trang trong
Criton đến 418 trang của Les Lois), ghi lại những bài giảng dạy của
Socrate về đủ vấn đề: khoa học, toán học, công lý, lý luận, siêu hình, đạo đức,
thẩm mỹ, chính trị, luật pháp, giáo dục, tình yêu, nghệ thuật… Đối thoại –làm nẩy
sinh nhu cầu khai triển và tranh luận– cũng là hình thức kịch nghệ (hay tiểu
thuyết và phim ảnh trong thời hiện đại) mà người Hy Lạp rất ưa chuộng, cùng với
thi ca và triết học, và chúng ta không ngạc nhiên khi thấy, trong văn học Cổ Hy
Lạp, được vinh danh song song với Homère, Socrate, Platon, còn có những kịch
tác gia lẫy lừng như Sophocle (tác giả vở Antigone
bất hủ), Euripide, hoặc Aristophane.
Bên cạnh lý thuyết Ý Niệm,
Platon còn chủ trương rằng mọi sự hiểu biết, hay học hỏi, thực ra chỉ là kết quả
của hồi niệm (réminiscence). Nói cách khác, linh hồn đã gặp gỡ Ý Tưởng vào một giai
đoạn nào đó trong tiền kiếp. Tất cả học thuật và kinh nghiệm, như thế, chỉ là
việc nhớ lại những Ý Tưởng qua sự gợi ra bởi những bản sao bất toàn của Ý trong
thế giới tri giác (monde des sens). Ví dụ, vẻ đẹp thể xác nơi một người làm nhớ
lại trong linh hồn tình nhân những kỷ niệm hạnh phúc bất tử về Cái Đẹp lý tưởng
đã bắt gặp từ muôn thuở trước. Trong Phédon,
Platon nói rõ hơn, nguồn gốc của mọi Cái Đẹp phải là “một vẻ đẹp khởi thủy mà
chỉ sự hiện diện thôi cũng đủ làm đẹp mọi sự vật trong một mối thông giao nào đó”.
Từ Cái Đẹp Platon dẫn đến quan niệm Tình Yêu.
Socrate xem tình yêu là một ước muốn –ước
muốn điều mình không có, rồi từ đó những điều tốt (bon) và đẹp (beau). Platon còn
đi xa hơn, tình yêu khởi đầu là một quyến rũ xác thịt, rồi thèm khát tinh thần,
hoàn toàn tách biệt khỏi thế giới hữu giác (sensible), để trở thành tình yêu thuần
Ý Tưởng. Giống như, một cách khác, trong Paul Claudel, nhà thơ Công giáo hiện đại
Pháp, tình yêu tạo vật là nẻo đường dẫn đến sự tôn thờ Đấng tạo hóa. Vì thế,
trong văn chương và trên thực tế, có một hình thức tình yêu gọi là tình yêu mang tên Platon, “amour
platonique” (không phải tình yêu đơn phương, hoặc tao nhã, amour courtois thời Trung Cổ Âu Châu), bảo đảm duy nhất cho Cái Đẹp
lý tưởng, theo nấc thang từ dưới lên: tình yêu thể xác ® tình yêu trí thức (vs
nhục dục) ® tình yêu đạo đức ® tình yêu tuyệt đối. Có
thể nói amour platonique là tình yêu
lý tưởng, trong tâm hồn, không chung đụng xác thịt. Đó là, trên thực tế, tình yêu
nổi tiếng của thi hào Pétrarque và Laure, thi hào Dante và Béatrice, thế kỷ
XIV. Đó là, về mặt văn chương, chàng quý tộc Félix de Vandenesse và góa phụ Mme
de Morseauf, trong Le Lys dans la vallée
của Balzac, Ngọc và “chú tiểu” Lan trong Hồn
Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng, hay “nhà cách mạng lãng mạn” Dũng và Loan trong
Đôi bạn và Đoạn tuyệt của Nhất Linh v.v...
Và nhất là Thúy Kiều khi tái hồi Kim Trọng với câu nói bất hủ, bất ngờ: “Chữ trinh còn một chút này“. Đó là, nói
một cách khác, sự khắc khoải đi tìm và
vươn lên Cái Đẹp vô biên, đích thực, chưa hề bị ô uế bởi thân xác, màu sắc, hay
bất cứ ảnh hưởng phù phiếm nào của cuộc đời,
và lúc ấy linh hồn người sẽ vượt qua thực thể, để trở về với cội nguồn vĩnh cửu,
tuyệt đối, với sự hài hòa toàn vẹn và đồng nhất căn bản.
Khắc khoải, vì sao? Như Platon
viết trong Phèdre, ở mỗi linh hồn con
người có hai cỗ xe ngựa chạy ngược chiều giằng co nhau, một hướng về trời cao,
một kéo trở lại mặt đất. Có nghĩa là muốn với bắt Cái Đẹp tuyệt đối là một cố gắng
phi thường và không bao giờ dễ dàng. Rồi từ Cái Đẹp ấy, linh hồn tìm về Sự Thật
và Điều Thiện. Cả ba Ý Niệm ấy đồng hiện hữu, liên kết với nhau, và, như mặt trời
chói lọi, tỏa chiếu xuống trần gian những tia vàng vọt, mờ nhạt của khung trời
vĩnh cửu Chân Thiện Mỹ đích thực, tuyệt đối, bất biến.
2. Mỹ thuật và Triết học:
Học thuyết Platon không bao gồm một hệ thống
thẩm mỹ hoàn toàn được thiết lập, mà chỉ là những nét chấm phá, gợi ý. Và tâm lý
của nghệ sĩ hoặc của công chúng nhường chỗ cho những nhận xét khác nhau về vai
trò đạo đức trong từng bộ môn nghệ thuật.
Hình như trong tư tưởng của
Platon, Thi ca chiếm ghế danh dự, với điều kiện là kỹ thuật (làm thơ) phải phối
hợp với nguồn hứng cao cả. Về thi hứng, Platon viết trong Phèdre, Triết học (philosophie,
nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa “tôi yêu thích sự khôn ngoan”) sẽ cấu tạo cho Thơ hứng
cảm vĩ đại nhất, phong phú nhất, giàu sang nhất.
Tuy nhiên Âm nhạc, bằng khí cụ,
lời ca, hay khiêu vũ (Platon cho khiêu vũ cũng là một cách thể hiện âm nhạc) giữ
vai trò chủ yếu trong Quốc gia (như dân tộc Lào, ghi chú của tác giả KT): Đó là “pháo đài” chống giữ Đô Thị (Cité, cổ ngữ đồng nghĩa với quốc gia, cf
République, IV). Âm nhạc làm dịu
phong tục, tập quán. Nhưng bắt buộc nó phải đơn giản tuyệt đối và nhịp điệu phải
được tẩy lọc tối đa.
Và, một điều quan trọng nữa: âm
nhạc phải hoàn toàn lệ thuộc vào và phục vụ cho Chính Trị và Đạo Đức. Chúng ta
hiểu, Đạo Đức Chính Trị. Không thể có Chính Trị tách rời Đạo Đức, như của một Tần
Thủy Hoàng, một Hitler, một Staline hoặc một Hồ Chí Minh. Trong Les Lois, thực vậy, Platon nhận xét về âm
nhạc của một số nước thuộc miền Tiểu Á (Asie Mineure) Cổ Đại: ông chối bỏ âm nhạc
của dân xứ Lydie vì tính cách thở than, làm suy yếu tinh thần (như dòng nhạc phản
chiến của Trịnh Công Sơn và Phạm Duy thời chiến tranh Việt Nam), chê bai âm nhạc
của dân xứ Ionie vì tính cách dâm dật, quá ủy mị. Ông chỉ muốn giữ lại âm nhạc
của xứ Dorie có tính cách chiến đấu, hùng tráng, hay của xú Phrygie hiền hòa, đem
bình an đến mọi người.
Còn những bộ môn nghệ thuật khác?
Platon rất kỵ thuật hùng biện, ngụy biện, cái bề ngoài giả dối, giả tạo, có tính
lừa gạt, và cho là không xứng đáng được gọi là đối tượng nghệ thuật. Vì vậy, dưới
mắt ông, Hội Họa có vẻ nguy hiểm nhất trong các bộ môn nghệ thuật. Trong Les Lois, ông khuyên chúng ta cố gắng tìm
thấy trong Hội Họa lý tưởng của cha ông ngày xưa, ví dụ những tuyệt phẩm trong các
đền thờ Ai Cập Cổ, vì tất cả chiếu lên một sự thật khắt khe. Vốn bảo thủ và thích
những nét vẽ có tính cách tôn giáo, thần thánh uy nghi, ông ghét sự đổi mới, những
phương pháp và kỹ thuật tân hội họa với những bức tranh nhìn xa thấy mơ hồ có một
ý nghĩa nào đó, nhưng khi đến gần những màu sắc trộn lẫn với nhau cho thấy những
khối dị dạng “không giống ai”.
Kịch Nghệ, Điêu Khắc, Kiến Trúc,
trái lại, là những bộ môn nghệ thuật mang những nét đẹp của nguyên tắc tối cao:
Cái Đẹp, ở bất cứ nơi đâu, cũng được định nghĩa bởi sự hài hòa và đo lường đúng
đắn, nhưng không có tính toán học hay khoa học khô khan và máy móc, mà như một
sự thỏa mãn, vui sướng đối với sản phẩm của Thẩm Mỹ. Sự thỏa mãn ấy là một cảm
xúc tinh tế nối kết với sự tìm kiếm trí thức bất vụ lợi.
Tóm lại, triết lý về Nghệ Thuật
trong Platon chính là ý tưởng về tính siêu việt (transcendance), trái ngược với
quan niệm của đệ tử Aristote –người đã,
trong Politique VII, cho rằng tất cả đều
ở trong chúng ta và lý tưởng chính là con người, và Nghệ Thuật là một sáng tạo,
chứ không phải sự hồi niệm từ kiếp trước qua khung trời của Ý. Đối với Platon, Cái
Đẹp không tự dưng mà có ở mức đời sống. Nghĩa là không ở trần gian. Nó ở trên và
ở ngoài thế giới này. Phải cố gắng hết sức để trở về với Bản Thể hoặc Ý Tưởng.
Phải nắm bắt Ý Niệm căn bản của sự vật để có thể cảm nhận cái đẹp sâu kín của
chúng. Nếu không, chúng ta không bao giờ có thể hiểu thấu cái gì hết. Cái Đẹp
tuyệt đối không thể sờ thấy được, nhưng chính vì đó mà con người phải thử mọi cách
để đến gấn nó. Những ai đã thấy nó gần nhất sẽ chính là những người mà chúng ta
phải ngưỡng mộ vì sự hoàn hảo về hình thức của nét vẽ hay âm thanh của họ. Và
Platon nhắc lại: Tồn cổ thường chân chính trong lãnh vực của Cái Đẹp, còn Canh
tân luôn luôn là một sự lừa dối. Bởi vì kinh nghiệm của mười ngàn năm không thế
thay thế được.
3. Trở về trần gian:
Học thuyết Platon có ảnh hưởng
to lớn trên thời Trung cổ và Phục Hưng với
đông đảo “đệ tử Tân Platon”, néo-platoniciens,
khởi đầu là triết gia Ai Cập Plotin, thế kỷ III sau TC, rồi các nhà đạo đức và
thần học Công giáo, hai Thánh Augustin và Thomas d’Aquin, những nhà tư tưởng và
triết gia, như phái Khắc Kỷ (Stoïciens), những danh nhân và thi nhân, kể cả
khoa học gia nổi tiếng Galilée, người đã nối kết tư tưởng của Platon với tương
lai của khoa học và con người, và nhà danh họa Léonard de Vinci, tác giả của
hai tuyệt phẩm La Cène (Tiệc Ly) và La Joconde v.v...
Đọc Platon tôi không khỏi nghĩ đến
những bậc kỳ tài trong thiên hạ về các bộ môn nghệ thuật, qua bao thời gian và
không gian, mà những tác phẩm tràn đầy Cái Đẹp, Sự Thật và Điều Thiện, dù sao, dưới
mắt Platon, chỉ là những hình bóng phản chiếu ánh sáng bất diệt tự khung trời
Chân Thiện Mỹ tuyệt đối. Chỉ là hình bóng trần gian mà đã hấp dẫn đến thế kia,
thì thử hỏi anh sáng Chân Thiện Mỹ tự trời Platon phải siêu tuyệt như thế nào.
Về thi ca, tôi nghĩ đến
Virgile, Horace của Latin, Pétrarque và Dante của Ý, Goethe của Đức, Shakespeare
của Anh, Victor Hugo của Pháp, Nguyễn Du của Việt Nam. Tôi nghĩ đến một người mà
tài năng thật đa dạng, Michel-Ange, điêu khắc gia, họa sĩ, kiến trúc sư, và thi
sĩ Ý.
Tôi nghĩ đến, dưới góc nhìn khiêm
nhường khác, hai thi sĩ Bích Khê và Đinh Hùng, cũng đã ít nhiều, vô tình hay cố
ý, bắt chước “sư phụ” Platon khi nhớ lại, qua sắc đẹp của mỹ nhân trần thế,Vẻ Đẹp
tuyệt vời và tuyệt đối trong khung trời của Ý:
Ô tiên nương ! Nàng lại ngự nơi
này?
Nàng ở mô ! Xiêm áo bỏ đâu
đây?
. . . . . . . . .
Nàng là hương hay nhan sắc lên
hương?
Mắt ngời châu rung ánh sóng
nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa
ngọc
Đêm y huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn
môi. . . . . . .
(Bích Khê, “Tranh lõa thể”)
Ở bên em, ôi biển sắc rừng hương!
Em lộng lẫy như một ngàn hoa sớm,
Em đến đây như đến tự thiên đường
...
. . . , . . . .
Ôi mắt xa khơi! Ôi mắt dị kỳ!
Ta trông
đó cả trời ta mơ ước,
Ta thấy đó, một vừng đông thuở
trước,
Cả con đường sao mọc lúc ta đi,
Cả chiếu sương mây phủ lúc ta về,
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương
nhớ!. . . . . .
(Đinh Hùng, “Kỳ nữ”)
Nay đến trước xin yêu, hồn khép nép,
Tự trời xanh rơi xuống để gần
em
. . . . . . . .
Hãy yêu tôi vì tôi làm nên mộng,
Hãy yêu tôi vì tôi dệt nên trời
Em đi trong trời mộng đó em ơi!
Theo gió nhẹ bay cao hồn vũ trụ. . . . . .
(Đinh
Hùng, “Xin hãy yêu tôi”)
Về âm
nhạc, tôi nghĩ đến biết bao nhạc sĩ tài danh từ cổ chí kim, đặc biệt Beethoven,
và của ông, những bản nhạc tuyệt tác làm đắm say lòng người, và bản đàn Appassionata,
sonate 23, mà tôi mê mẩn vì vẻ đẹp nhuốm màu Platon của Tình Yêu thần thánh, dù
tan vỡ. Nghe nỗi khổ đau tột cùng, mà vẫn đằm thắm, của tình yêu nát tan mà tôi
tưởng tượng đã chết theo mùa thu phai úa, trên đôi môi hững hờ, bởi những chia
lìa, mất mát, và phản bội –dàn trải ngút
ngàn qua suốt bản sonate, trên từng
phím đàn thánh thót, đứt quãng, chìm xuống như từng giọt lệ ngân. Bản đàn, cuối
cùng, đưa tâm hồn về với bình an muôn thuở. Tôi nghĩ, một người nếu thực sự đã
nghe sonate Appassionata một lần rồi
sẽ không còn muốn oán thù ai nữa. Và tôi đọc ở đâu đó, Lénine có nói rằng nếu cứ tiếp tục nghe bản nhạc
này ông ta sẽ không hoàn thành nổi cuộc cách mạng vô sản.
4. Lê Văn Khoa:
Thực
điên rồ nếu so sánh Beethoven với một nhạc trưởng Việt Nam , Lê Văn
Khoa. Nhưng nói đến Beethoven không khỏi làm tôi nhớ Lê Văn Khoa về mức độ ngưỡng
mộ đồng nhất cho cả hai trong hồn tôi. Lê Văn Khoa, nhạc sĩ, nhạc trưởng quốc
gia, và mãi mãi là quốc gia, của VNCH, người qua các bài viết, hay tác phẩm CD,
DVD, chứng tỏ quan niệm chân chính về Cái Đẹp, Sự Thật và Điều Thiện trong
khung trời của Ý mà Platon đã nhắc, mà chỉ những nghệ sĩ trung thực và nhân bản
mới đạt đến, mà người Cộng sản tàn ác, dã man như loài thú rừng, và đám nghệ sĩ
nô lệ, vong thân, vô chính nghĩa, phi quốc gia, sắt máu (“thề phanh thây uống máu quân thù”) của họ, không bao giờ có thể nắm
bắt được.
Lê Văn Khoa, mà Nhóm Thân Hữu chúng tôi sẽ
tiếp đón vào trưa ngày 24/5 sắp đến, và ra mắt đồng hương Portland với bài thuyết
trình mang đầy ý nghĩa thực tế: “Vai trò của âm nhạc trong thời đại chúng ta”.
Lê Văn Khoa, người đã hòa âm phối khí bản quốc thiều VNCH để cho ban nhạc phủ tổng
thống Ukraine
trình tấu một cách xuất sắc. Lê Văn Khoa, người đem tình tự quê hương Việt Nam
và chính nghĩa vào trong âm nhạc, tương tự, phần nào, thiên tài Chopin đã mang
vũ điệu dân tộc Ba Lan vào những bản Polonaises tuyệt diệu.
Lê Văn Khoa, vị nhạc trưởng tài hoa, cần được
đồng hương chúng ta đến xem, thấy, và nghe.
Và tin. Để tránh vài ngộ nhận, thắc mắc, xì xèo này nọ của vài đồng hương, có
khi bị tưởng lầm là giáo sư “hòa hợp hòa giải” Lê Xuân Khoa. Vì chính vì thế, hôm
nay tôi phải lạc đường vào khu rừng Triết học quên lãng, viết bài này để vinh
danh ông và những nghệ sĩ quốc gia chân chính khác đã từ chối cộng tác với bạo
quyền, và đồng thời kính mời đồng hương đến tham dự, một cách đông đảo.
Đến tham dự, quý đồng hương chỉ mất vài tiếng
đồng hồ phù du trong ngày thứ bảy, nhưng ngược lại được cả niềm vui tinh thần
phơi phới dài lâu. Niềm vui mà, theo gót Platon tôi mạnh dạn hứa hẹn, tâm hồn
quý vị –tạm xa lánh những phiền muộn, nhọc nhằn– sẽ bắt gặp trong khung trời Chân
Thiện Mỹ và Nghệ Thuật không có trên cõi trần gian này.
GHI
CHÚ
Bài viết này dựa
trên sách của:
- P.M Schuhl, Platon et l’art de son
temps, PUF, 2ème édition, 1952
- René Huyghe, L’art et l’âme,
Flammarion, 1961
- Denis Huisman, L’Esthétique, PUF,
1961
- Israël Knox,
The Aesthetic Theory of Kant, Hegel and
Schopenhauer, N.Y, 1936
Tiến sĩ Kim Thanh Nguyễn
Kim Quý
Đại diện Nhóm Thân Hữu Lê
Văn Khoa tại Portland