Kính thưa quý thính giả, Vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, đất nước VN sản sinh ra một nhà quân sự có tài kinh bang tế thế, và cũng là một nhà thơ nổi tiếng, được giới văn đàn xem là nhân vật kiệt xuất của Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn cả, đây là một kẻ sĩ có tư tưởng tích cực nhập thế và quyết cống hiến cuộc đời mình cho đất nước và dân tộc. Cụ đã để lại hậu thế rất nhiều bài thơ, trong đó có bài Hàn Nho Phong Vị Phú, đặc biệt là hai câu thơ bất hủ:
"Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông!"
Trong tiết mục "Danh nhân nước Việt" tối nay, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Uy Viễn tướng quân Nguyễn Công Trứ" của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh.
"Vòng trời đất, dọc ngang, ngang dọc,
Nợ tang bồng, vay trả trả vay.
Chí làm trai, nam bắc đông tây,
Cho phỉ sức, vẫy vùng trong bốn bể".
Bốn câu thơ theo thể "hát nói" mang khí phách hào hùng nói trên là của cụ Nguyễn Công Trứ. Và xin đọc thêm một số câu khác trong bài "Kẻ sĩ" của Cụ như sau:
"Cầm chính đạo, để tịch tà, cự bí,
Hồi cuồng lan, nhi chướng bách xuyên.
Rồng mây khi gặp hội, ưa duyên,
Đem quách cả, sở tồn làm sở dụng.
Trong lang miếu, ra tài lương đống,
Ngoài biên thùy, rạch mũi can tương.
Làm sao cho bách thế lưu phương,
Trước là sĩ, sau là khanh tướng."
Nguyễn Công Trứ tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, sinh ngày 19/12/1778 tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cha là Nguyễn Công Tấn, đậu cử nhân năm 24 tuổi, làm tri huyện Quỳnh Côi, về sau làm tri phủ Tiên Hưng, Thái Bình.
Khi quân Tây Sơn ra Bắc chiếm thành Thăng Long, Nguyễn Công Tấn đứng lên khởi nghĩa cần vương, nhưng không thành nên ông đưa gia đình về quê dạy học. Triều đình Tây Sơn mấy lần mời ông ra làm quan nhưng ông đều từ chối.
Mẹ Nguyễn Công Trứ là con gái quan Quản nội thị Cảnh Nhạc Bá, người xã Phụng Dực, huyện Thượng Phúc, tỉnh Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội).
Gia đình Nguyễn Công Trứ có 6 anh em, gồm 3 trai, 3 gái. Trong số con gái có một người rất thông minh, giỏi thơ văn, được gọi là Năng Văn nữ sĩ. Năm 19 tuổi, chồng chết, bà nhất định không tái giá, được vua Minh Mạng ban danh hiệu "Trinh tiết khả phong".
Từ thuở nhỏ, Nguyễn Công Trứ đã sống trong cảnh nghèo, nhờ quyết chí học hành nên đến năm 1819 thi đậu Giải nguyên và được bổ đi làm quan.
Năm 1820, Nguyễn Công Trứ giữ chức Hành Tẩu ở Quốc sử quán. Sau đó liên tiếp giữ các chức vụ Tri huyện Đường Hào, Hải Dương (1823), Tư nghiệp Quốc tử Giám (1824), Phủ thừa phủ Thừa Thiên (1825), Tham tán Quân vụ, thăng Thị lang Bộ hình (1826).
Năm 1828, Cụ được thăng Hữu tham tri Bộ hình, sung chức Dinh điền sứ, chuyên việc khai khẩn đất hoang. Năm 1832, Cụ được bổ nhiệm chức Bố Chánh sứ Hải Dương, thăng Tham tri Bộ binh, Tổng đốc tỉnh Hải An...
Sau nhiều thăng trầm trên quan lộ, năm 1845 Cụ làm Chủ sự Bộ hình. Năm 1846, Cụ giữ chức Quyền Án sát Quảng Ngãi và năm 1847, được thăng làm Phủ doãn phủ Thừa Thiên.
Năm 1848, Cụ được vua Tự Đức cho về hưu.
Do chính sách hà khắc của nhà Nguyễn dưới triều vua Gia Long và Minh Mạng, nên giặc giã liên tiếp xảy ra. Dù là quan văn nhưng Nguyễn Công Trứ nhưng phải nhiều lần cầm quân dẹp loạn.
Năm 1827, Cụ dẹp loạn Phan Bá Vành ở Nam Định.
Năm 1833, Cụ dẹp loạn Nồng Văn Vân ở Tuyên Quang.
Năm 1835, Cụ dẹp giặc Khách và sau đó có công rất lớn trong cuộc chiến Việt - Xiêm (1841-1845). Đến năm 1858, khi thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, tuy đã 80 tuổi nhưng Cụ vẫn cố xin vua cho đi đánh giặc.
Cụ Nguyễn Công Trứ mất ngày 14/11/1859, hưởng thọ 81 tuổi.
Trong thời gian làm quan, cụ Nguyễn Công Trứ có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh ra các huyện Kim Sơn (nay thuộc tỉnh Ninh Bình), Tiền Hải (nay thuộc tỉnh Thái Bình) vào những năm cuối thập niên 1820.
Cụ cũng lập trường học và thương xã ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và phát triển kinh thương. Những hoạt động của Cụ trong lãnh vực kinh tế được dân chúng các vùng Kim Sơn và Tiền Hải ghi nhớ. Tại nhiều nơi trong hai vùng này đều có đền thờ Nguyễn Công Trứ để tưởng nhớ công ơn của một vị quan rất thanh liêm chính trực.
* * *
Nhắc đến cụ Nguyễn Công Trứ, người ta thường nhắc đến tài thi văn của Cụ, nhưng trên hết vẫn là tư tưởng "trung quân ái quốc" và khí phách lỗi lạc của một sĩ phu Việt. Cụ từng "lên voi xuống chó", từ một vị quan lớn bị cách chức, đày đi làm lính thú ở tiền đồn heo hút. Nhưng dù làm quan hay làm lính, trong bất cứ cương vị nào, Cụ cũng vẫn quyết tâm đóng góp sức mình cho đất nước, được thể hiện qua rất nhiều bài thơ gây xúc động lòng người. Mảnh đất Thái Bình là nơi Cụ ra đời và cũng là nơi ghi đậm dấu ấn mở mang cõi bờ bằng cách lấn biển đắp đê, mang lại sự trù phú và ấm no cho đồng hương của mình.
Thế nhưng không chỉ là một quan văn có tài kinh bang tế thế, Nguyễn Công Trứ còn là một danh tướng với biết bao chiến công dẹp trừ phiến loạn, mang lại an bình cho dân chúng. Cụ cũng chưa bao giờ thua một trận nào, kể cả trong những năm giao chiến khốc liệt giữa hai nước Việt – Xiêm trên lãnh thổ Cam Bốt.
Chính vì thế, một văn thần võ tướng như cụ Nguyễn Công Trứ, chỉ với hai câu thơ đầy ngạo nghễ "Đã trót sinh ra trong trời đất/Phải có danh gì với non sông?" đã đủ xứng đáng được con cháu Việt tộc lập đền thờ để vinh danh một kẻ sĩ suốt đời vì dân vì nước, và cho đến lúc cuối đời vẫn tình nguyện cầm quân chống giặc Pháp xâm lăng đất nước!
Việt Thái