Sunday 19 April 2015

Câu chuyện về một người lính

Lời giới thiệu: Tôi được đọc câu chuyện về cựu trung úy Đỗ Lệnh Dũng đã khá lâu, cách đây cũng trên 10 năm dưới cái tên “Chuyện người Đỗ Lệnh Dũng”, lúc đó mới chỉ là  “chuyện viết từng kỳ” vì tùy theo cái hứng có thể nói khá bất tử “không lường trước” của  Lê Thiệp, tôi hãnh diện lắm vì mình lại được ông bạn và cũng là ông anh “tin yêu” giao bản thảo với lời nhắn “ông muốn làm gì thì làm”. Bài đã được đăng nhiều kỳ và khán giả rất say mê khi tôi còn phụ trách tờ báo của người Việt tại Nhật. Đến năm 2006, thì nhận được truyện ký “Đỗ Lệnh Dũng” từ tác giả. Với cảm nghĩ đã có xem qua, tôi không mấy chú ý đến nội dung quyển sách mà sau này tôi mới biết là đã được “hiệu đính” khá cẩn thận và phong phú khác hẳn so với “chuyện viết từng kỳ”. Mấy hôm trước nhận được bài viết dưới đây từ một thằng bạn, tôi bị lôi cuốn theo rồi đọc lại quyển sách và cũng cảm thấy bất ngờ vì mình say mê đọc lại với tốc độ quá nhanh đúng như tên bạn nhận định: “Một tốc độ đọc khá nhanh so với tuổi về chiều….”.
Xin mời quí vị theo dõi bài tóm tắt dưới đây của Nguyễn Hữu Nghiêm và sau đó nếu có ….. điều kiện xin quí vị vào thẳng
Truyện ký “Đỗ Lệnh Dũng” của Lê Thiệp
Tủ sách Tiếng Quê Hương phát hành
P.O.Box 4653 – Fall Church
VA 22044 - USA
Vũ Đăng Khuê                               

Câu chuyện về một người lính   
          
 Phải chờ đến  8 năm kể từ khi  quyển sách được xuất bản, và sau khi tác giả là nhà văn nhà báo  Lê Thiệp qua đời vì  chứng bệnh nan y thì tôi mới có dịp đọc “Đỗ lệnh Dũng”.  Một phần vì cuộc sống khá bận rộn, và phần khác tôi đã đọc sơ qua phần giới thiệu về tác phẩm này được đăng tải trên vài tờ báo địa phương khi quyển sách ra mắt độc giả.  

Đó là câu chuyện về một ông sĩ quan cấp Úy tên là Đỗ lệnh Dũng bị Việt Cộng bắt trên chiến trường, bị ở tù một thời gian rồi được phóng thích, sau đó được sang định cư ở Hoa kỳ. Tôi nghĩ chắc quyển sách này cũng giống như hồi ký của các người tù cải tạo mà tôi đã đọc trước đó. Như  “Đại học máu” của Hà thúc Sinh, “Đáy địa ngục” của Tạ Tỵ, “Thép Đen” của Đặng chí Bình… nên  thấy chưa cần phải tìm đọc vội. Cứ thế mà tôi lần lữa hẹn năm này cho đến năm khác cho đến cách nay mấy tháng trước.  Một người bạn tâm giao thấy tôi thích đọc sách nên gửi mua tặng cho một số sách trong đó có quyển Đỗ lệnh Dũng.  Thôi cứ xem đó là một duyên may, dù đến có hơi muộn màng.  Lúc còn trẻ, dù có bận rộn cách mấy, một quyển sách tôi có thể đọc xong trong vòng hai, ba hôm. Bây giờ  lớn tuổi, nhịp độ đọc sách của tôi chậm lại rất nhiều.  Cho nên khi cầm quyển sách gần 400 trang, tôi hơi ngại ngần một chút, không biết bao giờ mới đọc xong. Nhưng qua ngòi viết tài hoa của nhà văn Lê Thiệp, quyển sách đã lôi cuốn  tôi ngay từ trang đầu cho đến trang cuối.  Vì vậy mới ba đêm là tôi đã  đọc xong quyển sách. Một tốc độ đọc khá nhanh so với tuổi về chiều của tôi.

   Quyển truyện  kể lại một  câu chuyện rất thật của một cựu trung uý tên là Đỗ lệnh Dũng. Qua gần 400 trang sách tác giả đã ghi lại cuộc đời của nhân vật chính  từ những ngày sắp bước chân vào quân trường, những tháng ngày trong binh nghiệp, lúc sa cơ bị bắt trong trận đánh cuối cùng ở Đồng Xoài, Phước Long, rồi  bị đày ải trong các trại tù CS, cuối cùng được phóng thích và sang đoàn tụ với thân nhân tại Hoa Kỳ. Quyển sách được viết ra không nhằm mục đích vinh danh, đề cao  cá nhân hay viết  về tiểu sử nhân vật Đỗ lệnh Dũng. Nhưng là câu chuyện về những nghiệt ngã, oan khiên của  những người dân Việt Nam,  mà Đỗ lệnh Dũng là một trường hợp điển hình,  đã phải gánh chịu suốt mấy mươi năm trong và sau cuộc chiến tương tàn của hai miền Nam, Bắc. Và cũng qua quyển sách này chúng ta có thể hình dung được phần nào mức độ khốc liệt của cuộc chiến lúc bấy giờ.  Xen vào giữa các chương, tác giả cho vào các tin tức, tài liệu cập nhật hoá tình hình chính trị, quân sự, xã hội của cả 2 miền trong  thời chiến tranh và cả sau khi miền Nam bị thất thủ. Nhờ đó mà độc giả dễ dàng nắm bắt được bối cảnh không gian và thời gian của câu chuyện.

 Nhân vật chính Đỗ lệnh Dũng thể hiện nhân dáng điển hình của người lính chiến miền Nam. Cầm súng chiến đấu vì bổn phận, trách nhiệm chứ không phải vì hận thù, thích bắn giết nhau. Bản chất của họ là những người nhân ái, giàu tình cảm.  Khía cạnh nhân bản này đã được biểu hiện bởi người lính Đỗ lệnh Dũng khi anh ngậm ngùi kể lại: “...Có lần chúng tôi bắt được hai tù binh từ Bắc xâm nhập. Họ trẻ quá, hiền lành quá như những cậu học trò trung học. Tôi có thể làm tình làm tội họ, hoặc nữa là bắn họ. Tôi đã rùng mình trong suy nghĩ rằng mình có quyền định đoạt cái chết của người khác..”

   Nhưng không vì thế mà người lính miền Nam chiến đấu thiếu hăng say, thiếu dũng cảm, can cường. Và cũng vì muốn là một người lính đúng nghĩa,  Đỗ lệnh Dũng đã  từ bỏ  một chức vụ an nhàn, tùy viên cho một ông tỉnh trưởng, để xin ra được tác chiến  cùng với các đồng đội của mình.   Khi được giấy chấp thuận  sang Hoa kỳ thăm gia đình, thay vì ở lại Sài Gòn chờ ngày ra đi , nhưng vì tình chiến hữu, đồng đội ông đã trở về thăm đơn vị của mình lần cuối, để rồi bị kẹt lại trong trận đánh mở màn cho cuộc tấn chiếm miền Nam một thời gian không lâu sau đó. Để rồi đến khi bị bắt làm tù binh, bị kẻ thù ngược đãi, hành hạ, ông thản nhiên chấp nhận, chịu đựng, không lời oán trách.

   Khi bị bắt cầm tù, không phải phía đối phương tất cả đều là những kẻ hiếu chiến, khát máu. Đâu đó chúng ta vẫn còn thấy lấp lánh điểm sáng của lương tri, của tình người ở những người lính miền Bắc“...Không ngờ một sĩ quan trẻ tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt lại thuộc và hát vọng cổ hay như vậy. Những người lính ngồi chồm hổm phía ngoài đôi khi nổi hứng quăng thuốc lá cho tụi tôi, và có lần một người xông vào giữa đám tù vừa đi vừa chìa bao thuốc lá quăn queo mời. Anh ta nghênh ngang vừa đi vừa nói: “-Sợ đéo gì. Kỷ luật thì kỷ luật, ông đéo sợ...” 

Thật ra họ cũng chỉ như là những con ngựa bị che mắt, nạn nhân của sự lừa phỉnh, dối trá: “Em tin là anh kể chuyện thật. Nhưng như vậy thì tụi em bị lừa, lừa từ lúc mới đẻ ra cho đến khi lớn, bị lừa cho đến già. Cả đời bị lừa, cả nước bị lừa.”

   Quyển sách mở đầu với trận đánh tấn chiếm Đồng Xoài, Phước Long vào những ngày cuối năm 1974. Trận chiến này đã mở màn cho cuộc cưỡng chiếm miền Nam mấy tháng sau đó và cũng là trận chiến kết thúc cuộc đời binh nghiệp của Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng.  Trận đánh rất khốc liệt từ lúc mở màn,  quân trú phòng chiến đấu thật dũng cảm,  nhưng dần  dần trở nên yếu thế  vì sự chênh lệch quân số và vũ khí giữa hai bên:

“Và người lính thám báo nhảy hẳn lên khỏi hàng bao cát, quay khẩu M72 bắn. Chiếc T54 trúng đạn chao sang một bên nhưng vẫn chầm chậm lăn về phía hàng rào, pháo tháp trên với nòng đại bác 100 ly hướng về phía chúng tôi. Tôi nhìn thấy họng đại bác khạc lửa và sau đó là tiếng nổ. Người lính M72 lãnh nguyên trái đạn, chiếc áo giáp bay ra như bươm bướm, trắng cả một khoảng giao thông hào.
Tôi không thấy thịt xương của anh ta, có lẽ cả người bị đạn 100 ly đẩy tuốt đi tận đâu. M72 không đủ sức hạ T54 vì chiến xa của địch đã được cải tiến thành xe hạ thấp và có độ nghiêng khiến đạn M72 bị trượt đi.”
…………………………………………………………………………………………………
“…Vừa lui cui chạy dọc theo phía bao cát tôi thấy hai nghĩa quân đang đứng ôm M16 hướng ra ngoài. Một trái 122 ly nổ giữa sân, đất cát bắn tung toé. Chiếc cột cờ gãy ngang, lá cờ vẫn vướng vào dây rách lỗ chỗ. Người nghĩa quân quay sang nói với tôi:
- Tội lá cờ, để em ra lấy.
Tôi chưa kịp cản thì anh ta đã lao ra giữa sân. Một trái 122 ly nữa nổ tung. Người nghĩa quân ngã gục trên lá cờ và chỉ một giây sau đó, xác anh bật tung lên vì trái lựu đạn của anh có lẽ đã tuột kíp nổ. Người nghĩa quân nằm đó bất động, cờ tẩm máu đỏ rách bươm quấn lấy đầu anh….”

Những cái  chết thật bi hùng của người lính chiến VNCH. Sau đó Đồng Xoài thất thủ và trung úy Đỗ lệnh Dũng bị giặc bắt khi trên đường tháo chạy. Và từ đó ông bắt đầu những năm tháng bị giam cầm đày ải trong ngục tù CS được mỹ từ hoá bằng tên trại cải tạo. Trong những ngày đầu bị cầm tù, ông ngồi tưởng nhớ lại những ngày tháng trước của mình. Ở đây tác giả Lê Thiệp đã dùng kỹ thuật flashback khá tài tình. Đây là con dao hai lưỡi, nếu dùng một cách khéo léo sẽ làm cốt truyện thêm sinh động, nhưng ngược lại nếu vụng về sẽ làm người đọc dễ bị lầm lộn về thời gian, không gian, không biết chuyện nào xảy ra trước, chuyện nào xảy ra sau.  

Nhưng quyển sách không chỉ toàn là những máu lửa giết chóc trong chiến tranh, những đày đoạ tàn bạo của ngục tù và cai tù CS. Trong quyển sách không thiếu những đoạn văn thật đẹp, thật ướt át đầy tình cảm. Như  cuộc tình đầu tiên:

“Dung siết nhẹ tay tôi không nói năng gì. Tôi ngửi thấy mùi thơm của hơi thở. Tôi nghe thấy cả tiếng tim mình hay tiếng tim Dung đang đập. Đá ở bãi Ô Quắn nhiều và lớn. Hai đứa mò mẫm, tôi đưa tay cho Dung níu, kéo nàng lên.

Sóng biển rì rào đập vào đá, bọt tung trắng xóa. Đêm thẫm mầu ngoài xa. Khi tôi hôn nàng, mới đầu Dung như muốn đẩy tôi ra nhưng ngay sau đó, tay nàng vòng qua cổ tôi. Hai đứa hôn nhau như thể đã chờ đợi từ kiếp nào. Môi Dung nóng bỏng, đượm vị mặn của biển. Tôi lùa tay trong tóc nàng. Dung từ từ ngả người trên tảng đá, hai tay xỏa ra, ngực phập phồng trong chiếc áo pull xanh mầu lá chuối. Tôi chống tay cúi xuống. Mặt nàng lung linh trong đêm, như thật, như mơ, như từ cõi xa xăm nào hiện về, tôi nhẹ nhàng và rồi chúng tôi quấn lấy nhau. ..”

Nhưng rồi cuộc tình cũng không vẹn tròn, đôi tình nhân phải chịu cảnh ly tan, chia lìa theo vận mệnh đau thương của đất nước.  Anh bình thản chấp nhận, cũng như đã chấp nhận cái số phận nghiệt ngã của định mệnh dành cho mình.  Tuy nhiên cuối cùng anh cũng có được một người con gái thật lòng yêu thương anh, cảm thông những khổ đau, bất hạnh mà anh đã phải gánh chịu. Nếu cuộc tình thời trẻ tuổi thật sôi nổi, cuồng nhiệt thì mối tình sau cùng này, sau những đau thương, bão tố của cuộc đời, thật dịu dàng, đằm thắm. Dịu dàng, đằm thắm như người con gái đã cùng với anh đi suốt cuộc đời còn lại, từ khi anh còn bị cầm tù cho đến sau khi anh được phóng thích.

“Chúng tôi ngồi như vậy khá lâu, tay Thu úp lên tay tôi. Cả hai không nói năng gì. Một niềm hạnh phúc tươi mát lan khắp người, tôi như không còn là tôi nữa. Tôi quên hết những đoạ đày. Tôi coi thường những đau khổ đã trải. Từ bàn tay mát rượi của Thu tôi thấy mình đã thực sự hồi sinh, đang ngoi lên, trồi lên để sống lại…”

Sau khi ra khỏi tù một thời gian thì ông kết hôn, tìm được việc làm, đời sống gia đình tương đối ổn định. Những tưởng sẽ sống nốt cuộc đời còn lại ở mảnh đất quê hương khốn khổ. Nhưng rồi vì tương lai của con, không muốn chúng bị nhồi sọ bởi một nền giáo dục nặng về tuyên truyền, giáo điều, nhẹ về kiến thức, luân lý,  anh cùng vợ con đành phải ngậm ngùi lià bỏ quê hương mến yêu để đi sang miền đất tự do Hoa kỳ,  đoàn tụ với những thân sau nhiều năm chia cách.

Đóng quyển sách lại, tôi không khỏi bâng khuâng nghĩ ngợi. Số mệnh của Đỗ lệnh Dũng cũng là số phận của tất cả người dân VN gắn liền với vận mệnh ngả nghiêng, tăm tối của đất nước. Dù sao anh còn có được một kết cục có hậu, được sang miền đất tự do, nhưng còn nhiều người khác, mang số phận nghiệt ngã, bi thương cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt. Và cũng như nhiều người khác, Đỗ lệnh Dũng chỉ muốn là con người bình thường, chẳng bao giờ muốn là một anh hùng. Khi mặc áo lính anh chỉ mong làm tròn bổn phận của người lính chiến, chiến đấu để bảo vệ non sông và có trách nhiệm với đồng đội, chiến hữu. Như chuyện cứu mạng Đại Úy cố vấn Sam Graves, anh  chỉ xem  không có gì ghê gớm, vì đó là bổn phận của tôi, và hơn nữa vì chính mạng sống của tôi và binh sĩ dưới quyền”.Điều này thấy thật rõ nét ở những giòng chữ cuối cùng của quyển sách.  Sau khi dự buổi lễ nhằm tuyên dương những anh hùng Mỹ quốc, mà anh là một  trong số người được tuyên dương bởi những công trạng trong trận chiến VN,  khi trở về phòng anh đã tâm sự với người vợ yêu thương :” Anh đâu có muốn làm anh hùng…Anh chỉ muốn một đời sống giản dị, bình thường, không bắn giết, không súng đạn. Ước ao đó từ hồi nhỏ nhưng rồi cả đời anh là chiến trận, là tù đày, là khổ nhục. Làm anh hùng để làm gì? “. Điều anh thật lòng mong muốn là được sống bình yên trong một xã hội công bằng, nhân bản, tôn trọng quyền làm người. Đó cũng là ước nguyện chung của những người dân Việt trong đó có những người đang bị đày ải, cầm tù vì đã dám lên tiếng nói tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền. Nhưng biết đến bao giờ.
                                                                    
Nguyễn Hữu Nghiêm