Wednesday, 8 April 2015

Đọc lại Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng - Nguyễn Ngọc Chính

“… Còn em, một học trò, mà tàn ác nhất là học trò trường cô dạy, hai bàn tay trắng không biết đếm tiền, chỉ biết đánh lộn, đánh vỡ hết những gì làm mình thất vọng khổ đau, với vòng tay học trò không bao giờ ôm giữ nổi đời cô”.
(Thư của học trò Nguyễn Duy Minh gửi cho cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm
trong Vòng tay học trò)


Gần 70 tuổi đầu mà còn ngồi đọc lại Vòng tay học trò (VTHT) của Nguyễn Thị Hoàng kể ra thì cũng hơi lạ. Tôi biết nhiều người sẽ nhíu mày khi đọc cái tít của entry này, thậm chí có thể còn phê phán: ‘Ông già không nên nết!’. Xin hiểu cho tôi, đọc lại VTHT vào lúc này không phải đơn thuần để giải trí, mục đích chính là vì muốn tìm lại hình ảnh của Mai Tiến Thành, bạn học của tôi từ năm Đệ Ngũ trên Ban Mê Thuột.

Gia đình tôi phải di chuyển từ Đà Lạt sang Ban Mê Thuột vì lý do thuyên chuyển công vụ của bố. Chúng tôi ở căn nhà số 31 Lý Thường Kiệt, gần ngã tư Lý Thường Kiệt – Ama Trang Long. Ngay góc đường có tiệm ăn Tàu tên Mỹ Cảnh và phía đối diện bên kia đường Lý Thường Kiệt là tiệm bán đồ phụ tùng xe hơi mang bảng hiệu  Lê Đức Viên. Thực ra thì ngay trên đường Lý Thường Kiệt có tới 3 tiệm bán phụ tùng xe hơi nằm kế nhau: Lê Đức Viên, Tô Hoa và Quảng Thành.

Tô Hoa là tiệm của người Tàu còn Lê Đức Viên và Quảng Thành lại là của hai chị em ruột chọn cùng nghề cung cấp phụ tùng xe hơi. Chắc chắn giữa 3 cửa hàng cửa hàng gần sát bên nhau đã có một sự cạnh tranh gắt gao trong việc cung cấp đồ phụ tùng xe hơi ở một tỉnh nhỏ như Ban Mê Thuột.
Tiệm Quảng Thành do hai ông bà chủ mang cùng tên Huệ đứng kinh doanh. Họ có 4 người con (3 gái 1 trai) và cậu con trai thứ duy nhất là Mai Tiến Thành, nhân vật chính của entry này. Sinh trưởng trong một gia đình tương đối khá giả ở tỉnh lẻ, Thành thuộc loại ‘quý tử’, tư chất khá thông minh nhưng sức học trung bình. Riêng về việc ăn chơi, Thành được xếp vào loại ‘xuất sắc’ nếu so với các bạn đồng trang lứa đệ nhất cấp mới lớn.

Thành có khuôn mặt ‘không được đẹp trai cho lắm’. Trong lớp chúng tôi vẫn thường gọi đùa hắn là Fernandel, một danh hài trong các phim của Pháp được ưa chuộng vào thời đó. Fernandel có khuôn mặt… dài như mặt ngựa, chỉ cần nhìn vào khuôn mặt đó cũng đủ làm người ta phải cười. Thậm chí có người còn kể khi Fernandel đi dự đám tang người bạn, ông giữ khuôn mặt buồn bã nhưng những người xung quanh phải bấm bụng cười thầm vì càng làm nghiêm ông càng biến bộ mặt thành hài hước.

Có kể hết cái xấu của Thành mới làm nổi bật lý do tại sao cậu học trò Nguyễn Duy Minh lại được cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm để mắt đến và thành công trong chuyện tình cảm. Thành còn có tướng đi ‘chữ bát’ nên bạn bè thường gọi là Thành ‘dẹo’. Mai Tiến Thành ngày còn ở Ban Mê Thuột là thế đấy nhưng lên đến Đà Lạt lại trở thành ‘guest star’ trong cuốn phim VTHT.

Chúng tôi ở phố nên hàng ngày phải đi xe đạp đến trường. Con đường từ trường về nhà có một con dốc thoai thoải đổ xuống ngã sáu, vòng xuay lớn nhất Ban Mê Thuột, nơi được người địa phương gọi là Cột đèn ba ngọn. Đơn giản chỉ vì ở đó có một cột đèn với 3 ngọn đèn neon tỏa sáng các hướng mỗi khi thành phố lên đèn.

Thành luôn là kẻ thích ‘chơi trội’ trong đám học sinh chúng tôi. Trên đường từ trường về thả dốc hắn thường không dùng hai tay cầm guidon mà cứ để chiếc xe tự nhiên trôi và khi cần điều chỉnh chỉ dùng thân mình nghiêng qua, nghiêng lại! Có hôm cao hứng Thành còn đứng thẳng trên yên xe, hai tay dăng ngang giữ thăng bằng, cứ thế chiếc xe đạp trôi dốc chẳng khác gì diễn viên xiếc.

Trò suspense này chỉ riêng Thành có thể biểu diễn được trước những con mắt “trầm trồ” xen lẫn “hồi hộp” của đám bạn cùng lớp và cả người đi đường. Tôi chưa bao giờ thấy Thành gặp tai nạn trong những màn biểu diễn ngoạn mục này. Tôi cũng chưa bao giờ dám đi xe đạp bỏ hai tay chứ không nói gì đến việc dám dứng trên yên xe như làm xiếc!

Thành thuộc loại nhỏ con nhưng không nể một ai, dù đó là kẻ to xác. Hắn sẵng sàng đánh lộn với những bạn cùng trường chỉ vì địch thủ… nhìn thấy ghét! Nhiều khi hắn chỉ cố đấm địch thủ một quả đích đáng rồi sau đó bỏ chạy vì biết còn đứng lại thì thế nào cũng no đòn. Võ thì chẳng có miếng nghề nào để phòng thân nhưng lại ưa đánh lộn! Nhân vật Minh trong VTHT cũng là tay giỏi đánh lộn. Nguyễn Thị Hoàng mô tả một cuộc đánh lộn như sau:

“…Gần đến nhà, dưới chân đồi, Minh bị một bọn choai choai chận đường. Một thằng trong bọn nghênh chiến trước:
— Ê, Minh, mày bao nhiêu tuổi?
Minh ném sách vở xuống bãi cỏ, tóm lấy ngực thằng kia:
— Bằng tuổi cha mày.
Minh tát thằng kia một bạt tai và rút cái khóa xe bằng sắt quay một vòng vù vù:
— Tao làm gì thấy kệ tao, mắc gì đến tụi bây? Đồ chó săn.
Rồi Minh bỏ đi. Nhưng thằng kia ngáng chân Minh lại. Cuộc vật lộn xảy ra. Hai đứa ôm nhau quật túi bụi giữa sườn đồi đầy rác thông và cỏ ướt cho đến khi có bóng giáo sư trực thấp thoáng ở sân cỏ. Chúng nó buông nhau ra, làm ra vẻ tỉnh bơ và mỗi đứa đi về một phía…”.

Ngoài bản tính hiếu động, Thành cũng có những nét đặc biệt của một cậu học sinh với những mơ mộng của thời mới lớn. Hắn có cả một quyển sách chép lại các bài thơ trữ tình của các nhà thơ tiền chiến như Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh, Tế Hanh… Bên cạnh đó là những bài thơ của các tác giả đương thời như Nhất Tuấn, Nguyên Sa, Nguyễn Tất Nhiên…

Một đặc điểm nữa của Thành là tài ăn nói: thao thao bất tuyệt mà lại có duyên, nhất là với phái yếu. Thế nhưng, kiểm điểm lại thành tích khi còn ở Ban Mê Thuột, tôi có thể quả quyết Thành chưa có một mối tình nào để… vắt vai. Các cô nghe Thành nói chuyện thì thích nhưng có lẽ chọn làm người tình thì họ e ngại cái miệng dẻo quẹo. Phải lên đến Đà Lạt Thành mới lọt vào mắt xanh của cô giáo Trâm và có thể coi đây là mối tình đầu.

Chúng tôi học chung với nhau từ lớp Đệ ngũ (lớp 8 ngày nay) tại trường Trung học Ban Mê Thuột. Năm Đệ tứ có lần tôi thấy trên bàn học của Thành treo tấm ảnh hình chiếc xe Puch, một loại xe gắn máy ‘thời thượng’ vào lúc đó. Hỏi ra mới biết cu cậu được treo giải 1 chiếc Puch nếu thi đậu Trung học đệ nhất cấp.

Năm ấy Thành đỗ nhưng không thấy chiếc xe ở đâu, thay vào đó hắn được gia đình gửi lên Đà Lạt tiếp tục học Đệ tam tại trường Trần Hưng Đạo. Và đó cũng là nơi Thành bước vào tiểu thuyết VTHT dưới cái tên Nguyễn Duy Minh qua ngòi bút của Nguyễn Thị Hoàng.

 
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng
VTHT là một tiểu thuyết gồm 11 chương, dựa vào những tình tiết có thật giữa cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm (Nguyễn Thị Hoàng) và cậu học trò Nguyễn Duy Minh (Mai Tiến Thành). Dĩ nhiên trong tác phẩm này có những đoạn văn được ‘cường điệu hóa’, những cảnh được ‘thi vị hóa’ và những đối thoại được ‘tiểu thuyết hóa’. Những chương đầu tiên của VTHT được in trên Bách Khoa năm 1964 và sau đó được chính thức xuất bản năm 1966.

Nguyễn Thị Hoàng (NTH), sinh ngày 11.12.1939 tại Huế. Theo học trường Đồng Khánh, năm 1957 vào Nha Trang, 1960 vào Sài Gòn học Đại học Văn khoa và Luật. Học hành dang dở, NTH bỏ đi làm và rồi tìm lên Đà Lạt xin dạy học đệ nhất cấp tại trường Trần Hưng Đạo cho đến năm 1966.
VTHT trở thành một trong những best seller khi vừa xuất bản và được dư luận người đọc đương thời chú ý. Nhiều ý kiến phê phán tác phẩm này có nội dung ‘vô luân’ do viết về quan hệ tình cảm giữa một cô giáo trẻ và cậu học trò đệ nhị cấp cùng trường nhưng trên thực tế cô giáo Trâm chỉ dạy đệ nhất cấp còn anh học trò Minh đang học năm cuối lớp Đệ Nhị A (trong VTHT Thành học Đệ Nhất A).

Dưới ngòi bút của NTH, cô giáo Trâm được mô tả là đã từng có một cuộc sống rất ‘hiện sinh’ tại Sài Gòn hoa lệ. “Một tuần như có cả bảy ngày chủ nhật. Một năm vui chơi chỉ như một mùa hè. Nàng thấp thoáng khắp nơi, từ những đám phong lưu phá sản bằng ăn chơi đủ điệu cho đến những bọn nhỏ tuổi bất chấp cuộc đời, hối hả sống, vội vàng yêu, hăng hái nhập cuộc mê cuồng theo kẻ lớn”.

Ngay từ Chương 1, cô giáo Trâm đã có lúc ngồi ‘nhớ lại những tên người trong ký ức như người lính thắng trận kiểm điểm xác chết của phe địch bỏ lại ở chiến trường’. Những người tình lần lượt đến rồi đi như Văn tỉ phú, Marc giáo sư đại học, John sĩ quan Mỹ, Tuấn phi công, Francois ký giả, Hồng nhà văn, Linh con nhà giàu phá sản… Bên cạnh đó còn có ‘một khối thằng sinh viên, một khối thằng học trò choai choai mới lớn say mê của cấm như khoái làm chuyện siêu phàm’.

Họ đều là ‘những xác chết’ khi Trâm bỏ Sài Gòn lên Đà Lạt dạy học. Mỗi tình yêu là một bông hoa đã úa tàn. Mỗi ngày vui là một chiếc lá vàng rơi rụng. Trâm đã chán ngán, đã mệt mỏi, đã lìa xa một nửa con đường lang bạt đó. Trâm đã bỏ cái thành phố Sài Gòn hai mặt sống và chết, mê và chán, xấu và tốt đó. Nàng bỏ đi như một từ khước và lẩn trốn. Từ khước những thú vui buông thả đưa tới lỡ lầm cay đắng, đưa tới trống không giằng dặc tủi hờn. Lẩn trốn những đòi hỏi xôn xao của chính mình, của một bản chất sôi nổi thèm sống, thèm yêu đến tột cùng, đến vô bờ, vô bến.

Tại Đà Lạt, Trâm thuê được ngôi nhà cũ của một linh mục người Pháp gần Viện đại học. Biệt thự hư nát đến độ không ai nghĩ đến chuyện thuê và sửa chữa lại. NTH viết: “Nhưng hôm đến xem nhà, bị mê hoặc bởi vẻ hoang vu và bí mật của tòa nhà với những đám cỏ dầy cao quá đầu, với những cánh cửa hư nát, tường loang lổ, mái sụp nhiều nơi làm nước mưa dội xuống ào ào như thác, Trâm bằng lòng làm ngay tờ giao kèo bỏ tiền ra sửa chữa lại tòa lầu và giá tiền thuê sẽ được trừ dần vào số tiền phí tổn đó. Một mình Trâm tìm thầu khoán, đứng ra điều khiển, sắp đặt mọi việc. Rồi nàng dọn về đó cũng một mình”.

Chương 2 bắt đầu bằng buổi cô giáo Trâm đi coi cấm túc tại trường vào cuối tuần. Học trò bị phạt là những gương mặt các lớp Đệ Nhị, Đệ Nhất thuộc loại ‘đầu trâu, mặt ngựa’ được tác giả mô tả như sau: “…Không thể dùng cử chỉ thường lệ với những đứa học trò đầu trâu mặt ngựa to lớn thế này. Nhưng nếu dùng lời nói, lại rắc rối trong cách xưng hô. Trong đám học trò này, có đứa bằng Trâm, có đứa lớn hơn Trâm nữa về tuổi tác, nhân dáng mà biết đâu về kinh nghiệm sống nữa. Học trò bây giờ, mới nứt mắt đã thuốc lá, cà-phê, rượu trà, đàn bà. Tụi nó khoe khoang và hãnh diện về cái sớm biết của mình, ngang nhiên sống buông thả và bất chấp như một tay chơi sõi đời thực thụ. Vậy Trâm không thể gọi chúng nó là các em như đối với bọn học trò nhỏ của nàng. Nhưng chúng không lớn hơn nàng bao nhiêu nên gọi bằng các anh có vẻ thân thiện và tâng bốc quá… nhanh trí và vui tính, Trâm tìm ngay ra một lối khác, vừa giễu cợt, vừa vô hại:

— Mời… các ngài ngồi xuống”.
“…Gần hai tháng đến dạy trường này, hôm nay là lần đầu tiên nàng không mặc áo len trước mặt học trò. Lần đầu tiên chúng trông thấy thân hình thật của nàng. Không có cái áo khoác ngoài, vẻ nghiêm trang già dặn cũng mất đi. Ở Trâm toát ra cái vẻ trẻ trung tươi mát của trái cây vừa chín, vẻ dịu dàng gợi cảm của người đàn bà trẻ con. Mái tóc đen mướt chải bồng vấn thật cao, chiếc áo màu rêu đá bó sát thân hình thon nhỏ, đôi giày mule trắng gót nhỏ thanh thanh. Trâm biết lối phục sức đó không thích hợp với vai trò mình. Nhưng nàng không thể làm khác. Xõa dài mái tóc, mang guốc hay dép nàng còn cỏ vẻ đơn sơ và bé bỏng hơn nữa. Phải làm cho roam lên, cho già đi một tí. Nhưng nụ cười. Nụ cười thoáng qua đôi môi nhỏ đều, hàng răng nở trắng, qua đôi mắt đen kẻ đuôi vừa tinh nghịch vừa mơ màng. Trong cái lốt ấy, Trâm có tác phong tài tử hơn là giáo sư. Tất cả tố cáo cái vẻ đẹp trẻ trung non nớt và vui tươi không thể nào che giấu của một cô giáo nhỏ tuổi dạy trường con trai của nàng”.

Lần đầu tiên cô giáo Trâm gặp anh học trò tên Minh được người bạn tên Thức dắt đến xin ở trọ: “…Có tiếng xì xào to nhỏ của hai người. Trâm nhận ra giọng Bắc âm ấm của Thức, tên học trò đệ nhất ở nhà đầu kia đường thường đến chơi và mượn sách:
— Gì mà sợ. Cứ tỉnh lên. Tớ nói cho, cậu cứ việc ngồi im.
Giọng kẻ lạ:
— Nếu cô không bằng lòng thì sao?
— Đã biết đâu mà đoán trước.
— Moa ngại làm sao ấy. Cậu có thân với cô không đã?
— Suya mà. Nào, moa gõ cửa lần nữa đây”.
“…Thừa lúc Trâm nghiêng mình sửa một cành glaieul trong bình thủy tinh, Minh ra hiệu bằng mắt với Thức. Thức trở lại vấn đề:
— Thưa cô, xin cô cho biết cô có thể nhận anh bạn đây ở trong nhà được không…
— Nếu chọn, có lẽ tôi sẽ chọn một người vào tuổi em đấy. Nhưng phải giáo sư nào trên trường giới thiệu và người nhà đến gửi gắm đã. Em từ xa lạ đến, biết đâu vào đâu. Phải có người lớn đến nói với tôi một tiếng, rồi sẽ liệu.
“Minh hấp tấp:
— Thưa cô, em sẽ đưa bác em lại xin cô…
— Thế gia đình em ở đâu?
— Dạ, ở trên Kontum kia.
— Xa thế, mình em xuống học đây… Vậy ra…

Trên tực tế, gia đình Thành ở Ban Mê Thuột, xứ Buồn Muôn Thuở, chứ không phải ở Kontum. Không biết vì lý do gì NTH đã đổi ‘xuất xứ’ của Minh nhưng điều đó không quan trọng. Cô giáo Trâm có những nhận xét ban đầu về tên học trò xin được ở trọ nhà cô:

“…Trông nó có vẻ bạo dạn quen thuộc với không khí phòng khách và lối nói chuyện vui vẻ của cô giáo. Nhưng hai bàn tay nó cứ hết đặt lên nhau lại để duỗi trên mặt bàn rồi buông xuống. Có lúc Trâm chợt thấy ngón tay cái và ngón giữa của nó chụm lại, như sắp sửa búng tróc một cái. Nhưng khi nó nhìn lên Trâm, hai ngón tay nó rời nhau ra ngay. Trâm nghĩ, lỏi con này thuộc loại nghịch đây. Nhưng nét mặt nó có vẻ dại khờ, non choẹt và ngơ ngẩn thế nào. Thỉnh thoảng nó lại lắc mạnh đầu để hất mấy vệt tóc lòa xòa xuống như vừa dưỡng rẽ. Chiếc áo chemise màu xanh nhạt hơi ngắn, trên túi áo có thêu tên trường bằng chữ đỏ. Những dấu hiệu đó làm nó có vẻ trẻ con hơn trước mắt Trâm. Nó thuộc loại mới bỏ thời thơ ấu để bắt đầu làm con trai vừa lớn, Trâm nghĩ…”.

Trâm cần gì ở Minh? Có lần cô nói với Ngữ, người tình cũ ở Sài Gòn theo Trâm lên tận Đà Lạt: “Tôi đã nói, tôi không cần gì cả. Đia vị. Tiền bạc. Bề ngoài. Không. Tôi chỉ cần một thứ, một thứ tìm mãi không hề có, hoặc có mà không thể giữ mãi được với mình: tình thương…”.

Tôi nghĩ, đối với Trâm cũng như NTH, tình yêu mà họ cần không phải là thứ tình ‘hai chiều’, họ chỉ ‘yêu’ tình yêu của họ mà không cần biết đến phía bên kia. Họ là típ phụ nữ thích làm collection về tình yêu. Thế cho nên, những người tình dù có yêu họ thắm thiết nhưng đến một lúc nào đó họ cũng lạnh lùng chia tay để tìm một đối tượng khác cho “bộ sưu tập tình yêu”.

Người phụ nữ thường chưng diện để kẻ khác chiêm ngưỡng, nhất là để thu hút sự chú ý của đàn ông. Ở nột loại phụ nữ thứ hai, họ lại quan niệm làm đẹp chỉ để phục vụ cho chính bản thân mình. Cô giáo Trâm thuộc loại thứ hai, cộng thêm với quan niệm yêu chỉ để là giàu cho bộ sưu tập tình cảm của mình, tôi nghĩ những người như cô thuộc loại ‘vị kỷ’. Hóa ra cô giáo Trâm, hay NTH, là một típ phụ nữ rất khó để đàn ông chinh phục, trừ khi chính đương sự… bị khuất phục.

Ngữ tìm đến Trâm đúng vào lúc cô đang ở phòng Minh để săn sóc anh học trò đang say rượu.  Trên giường, Minh nằm thiêm thiếp, cả thân hình lấp dưới những lớp chăn dày, chỉ còn cánh tay trái vươn ra ngoài, buông thõng xuống đất. Đôi mắt Minh nhắm nghiền, nhưng làn mi còn nhẹ nhàng rung động trong trạng thái chập chờn mê tỉnh.

“…Trâm trút dầu vào lòng bàn tay, gỡ nhẹ mền chặn trên ngực Minh và cúi xuống. Nàng mở hạt nút ở cổ áo chemise của Minh và luồn bàn tay tẩm dầu vào trong đó. Minh chợt mở mắt. Hai con ngươi sáng dịu ánh lên một thoáng rồi làn mi cong đen từ từ khép lại. Minh mấp máy môi muốn nói điều gì, nhưng rồi nó xoay người, quay mặt vào vách, dúi đầu vào mặt gối.

“Trâm lần nhẹ bàn tay trên làn da ngực nóng rực của người con trai. Rồi Trâm nhìn thấy mơ hồ và kỳ lạ, từng ngón tay mình chập chạp rời khỏi khuôn ngực áo trắng nõn đó. Rồi cũng bàn tay nàng mà trong phút đó Trâm tưởng như của một người thứ hai cài kín hột nút áo Minh và kéo chăn đắp lại như cũ. Trâm cúi xuống gọi nhỏ:

— Minh, em khoẻ chưa?
“Ngữ đứng lặng người một lúc trước cảnh tượng êm đềm đột ngột đó. Lâu lắm, anh mới lắp bắp:
— Sao thế chị Trâm?
Trâm gật đầu đáp lại cái chào của Biên nhưng không quay lại nhìn Ngữ, cười gượng:
— Nó… bị trúng gió lúc đi học về. Trời đổi mùa, gió máy thật độc địa”.

Trâm nói dối tỉnh bơ, bàn tay cô đang ở trên bờ vai Minh với hơi ấm từ da thịt người con trai thoát ra từ tấm áo len: “Trâm nghĩ mãi, không hiểu vì sao nó đã uống gần nửa chai rượu. Vì sao nó muốn say, nó tự hành hạ như vậy ngay trong nhà này, nhà của một cô giáo. Có thể Minh buồn vì một chuyện riêng không liên hệ đến nàng. Nhưng vô lý. Tại sao mắt Minh nhìn Trâm kỳ lạ thế. Trong vẻ đau xót. Trâm hiểu cái nhìn đó. Vì đã bao nhiêu đôi mắt con trai, đàn ông nhìn nàng như thế. Nhưng Minh chưa là đàn ông, cũng không còn là một đứa con trai. Dưới mắt Trâm, trong ý nghĩ Trâm, nó chỉ là một đứa bé khác thường, nghịch ngợm mà lãng mạn. Trâm vẫn nhìn và tưởng như thế từ khi nó đến xin ở trọ. Nhưng chiều nay, trước mắt Trâm, nó biến đổi vô cùng nhanh chóng. Chỉ vì một chai rượu…”

Bọn học trò trêu chọc Minh. Các giáo sư cũng bắt đầu ‘truy’ Minh kỹ hơn từ ngày hắn đến ở nhà Trâm. Minh bị ‘truy’ và ‘trù’ đủ mọi cách, về những việc nhỏ nhặt, ti tiện đến việc học, những hành vi của Minh, như Minh là một kẻ có trọng tội giữa một hàng rào thù nghịch bao vây. Đến nỗi nhiều khi Minh tưởng như người ta đang tìm một tội nào đó gán và buộc hắn nhận để dễ truy tố, hành hạ. Minh đã có lần tức tối, nói với bọn Lộc, Hải, tao có làm gì đâu? Có làm gì bọn họ đâu? Bọn họ tức tao cái gì vậy? Hải cười: Thì tại họ xin chia nhà cô Trâm không được, mà mầy lại được. Đang tức, Minh nói liều, ‘tức vì không được ở trong nhà cô Trâm, hay không được ở với cô ấy?’.

Trong VTHT, Giám thị của trường Trần Hưng Đạo là ông Dụ, thật ra, trên thực tế thì ông tên Bửu Vụ, một hung thần đối với học sinh trong trường. Năm Đệ nhất tôi quay lại học Trần Hưng Đạo, thầy tổng giám thị Bửu Vụ, người Huế, vẫn còn, ông được học sinh gọi lén là ông ‘cai dù’. Tôi không nghĩ cái tên ‘cai dù’ có ý nghĩa nói lái vì ông cũng đã khá lớn tuổi lấy đâu mà… dài. Bọn học trò chúng tôi đặt ông là ‘cai dù’ cho bõ ghét cái tính hắc ám của ông chuyên dùng roi mây xử phạt những đứa học sinh ngỗ nghịch.

NTH cũng có ít dòng mô tả về ông Dụ với những thuật ngữ không lấy làm ‘thân thiện’ cho lắm. “Trâm nghĩ thầm: Chắc là lão vừa ‘nạo’ học trò trước sân cờ xong tạt qua ngay đây ‘điều tra’ mình. Trâm cũng biết ông ta dò xét chuyện gì rồi, nhưng vờ ngớ ngẩn để xem ông Giám Thị khởi đầu công tác ra sao. Trâm yên lặng chờ đợi những câu chất vấn ngang phè, như nàng đã quen nghe những lần hân hạnh được ông ta đến viếng vào giờ bất thường…”
“Mình có làm gì phạm pháp đâu. Lão ta chỉ có quyền kiểm soát ở trường thôi. Đây là thế giới mình. Nhà này là của mình. Đời sống này là của mình. Không có ai có quyền xâm lấn hay sửa chữa, can cớ gì đến lão ta đâu mà xía vô. Tôi ngủ trong phòng, bên lò sưởi, dưới bếp, ở nhà xe, hay đâu mặc xác tôi chứ, miễn là tôi không ngủ gục trong khi giảng bài, không ngủ quên trong lớp khi tan học. Trong bản nội qui nhà trường không thấy buộc giáo sư phải ngủ trên giường, cấm giáo sư nằm giữa sàn nhà, trước lò sưởi. Cũng như pháp luật không cấm đoán đàn bà sống độc thân. Vậy thì tôi muốn sống như thế đó. Và tôi có quyền sống như thế. Có hại gì ai không? Có làm mất mát gì của ông đâu?”.
NTH cũng có những tư tưởng đả phá nền giáo dục của VNCH trong thập niên 60s. Tác giả dùng những cụm từ rất sắc sảo: « Giảng giải lý thuyết, áp dụng những nguyên tắc cổ điển sáo hủ. Như người ta lơ đễnh rải lá dâu cho tằm ăn trong khi tằm đã biến hình thành con nhộng trong cái kén. Học trò cứ ngồi đó, thờ ơ chép bài, lơ đãng nghe giảng, tìm cách này hay cách khác, tiết kiệm những suy tư về học tập, để chín phần mười tâm trí phiêu du theo những thắc mắc riêng tư. Thầy giáo cứ viết, cứ nói, cứ lập đi lập lại như cái máy hát bị hỏng một điệp khúc nhàm chán về những qui tắc mà chính mình cũng không muốn áp dụng trong đời sống. Những vấn đề đạo đức, những bài học công dân, giáo sư thao thao bất tuyệt, khoác cho mình vẻ đạo mạo của người truyền giáo mà không bao giờ nhận định rằng trong đám người nghe còn phải có cả chính mình. Sự giả dối quen thuộc đến nỗi không ai chú ý đến hiện diện trơ tráo của nó, và vô tình, người mang mặt nạ với kẻ khác và với chính mình nữa ».

 
Một tác phẩm thuộc loại ăn khách của NTH
 
 
Nguyễn Thị Hoàng và “Tiếng chuông gọi người tình trở về”
qua nét vẽ của họa sĩ Chóe (1973)

Chương 4 bắt đầu bằng không khí Noel trên Đà Lạt. Đó là thời điểm ở Sài Gòn người ta vui chơi tưng bừng, những người trẻ tuổi vui cười say đắm bên nhau. Còn ở Đà Lạt, cô giáo Trâm tự hỏi: “Bây giờ… em làm gì? Em vui với ai đó Minh?”.

Trâm bàng hoàng thức giấc trong vùng ánh sáng vàng hoe từ khung cửa sổ hắt vào lò sưởi. Nghe tiếng chìa khóa lách cách dưới lầu, nàng đoán là Minh về. Rã rời, mệt mỏi, đầu nặng như một khối đá. Trâm cố tỉnh trí nhìn quanh. Mọi vật hình như thay đổi hẳn sau giấc ngủ dài bằn bặt. Gió sớm lay cánh màn cửa bay phấp phới như những trướng liễn sắp hàng đi theo sau một đám tang yên lặng
— Cô.
Trâm yên lặng nhìn lên, không đổi dáng điệu. Minh đứng khoanh tay ở cửa phòng, tựa lưng vào vách. Mái tóc rũ che vầng trán da trắng xanh, hai con mắt ngái ngủ lờ đờ, Minh như sắp ngã xuống một khoảng trống không nào đó. Trâm nhìn cái cravate lỏng lẻo ở cổ áo Minh, vụt nhớ lại những phút giây đơn độc ghê gớm mình chịu đựng đêm qua, nhớ đến vẻ hí hửng của Minh lúc ra đi, nhớ đến nỗi bứt rứt vô lý và đáng thương của mình.
— Suốt đêm, cô không ngủ sao?

Chương 5 là những màn ‘ghen tuông’ của Minh đối với thày Lưu (mà Trâm gọi là… Lưu manh): Mặt Lưu cũng có vẻ lì lợm và đểu cáng thế nào, nhưng hắn đã có lần nhe răng tuyên bố với Trâm, tôi mất một cái răng mà không muốn trồng lại, để sún thế này mỗi khi cười trông có vẻ đểu đểu hay hay phải không chị?.
Khi Lưu về rồi, chị người làm dọn cơm lên, Trâm cho gọi, Minh không lên ăn. Và bỏ luôn cả buổi học chiều. Hai ba ngày liên tiếp, cậu bé cứ lầm lì với Trâm ra mặt, hỏi gì cũng nói nhát gừng và chỉ ra khỏi phòng mỗi khi không có mặt Trâm. Cho nên Trâm định không tiếp Lưu nữa. Không phải vì nàng ‘sợ’ ai, nhưng để tránh hiểu lầm của thiên hạ và những cơn lẫy hờn vô lý của Minh. Nếu như nàng thật yêu Lưu thì không có gì đáng nói. Nhưng nàng không ‘như thế’ với Lưu, tuy rằng nàng có vẻ thân Lưu, coi Lưu như một người bạn không hơn không kém.
Trâm nhìn Minh một thoáng nhanh rồi cúi xuống:

— Minh, em có khinh tôi không…
— Cô hối hận, phải không…
— Có gì mà hối hận, chỉ cảm thấy bứt rứt khó chịu. Vì em có thể hiểu lầm và khinh tôi.
— Tại sao cô lại hỏi em như thế.
— Không biết nữa. Đáng lẽ tôi không hỏi, không nói gì với em cả. Nhưng tôi quí tình cảm của tôi, mỗi kỷ niệm, mỗi rung động có một vẻ đẹp. Tôi nuôi vẻ đẹp đó trong hồn và sợ người khác phá vỡ, nhưng em nói thật đi, như em nói với chính mình, em có khinh tôi không?…
Hai cái nhìn tê dại gặp nhau. Minh cười thật nhẹ và Trâm cảm thấy niềm vui như một sự ban ơn thầm lặng trôi vào lòng mình:

— Ở trường cô là giáo sư, nhưng về nhà cô vẫn là đàn bà, chỉ là đàn bà…

Đó là những gì diễn ra trong đêm giao thừa dương lịch, sau khi Minh đã dọn về ở trọ tại nhà cô giáo. Trong giây phút đó, Trâm có màn độc thoại rất ư là ‘tiểu thuyết’: “Chỉ một nghiêng mình, chỉ một vẫy tay là tất cả sẽ xoay chiều, sẽ thay đổi hết. Đời em. Đời tôi. Và nhiều cuộc đời liên hệ nữa. Dừng lại nghe em. Vì hồn tôi là những nan xe gãy đổ. Vì lòng em là con ngựa chứng lạc loài”.

Và cô giáo nói những lời thành thật nhất với anh học trò: “Dù sao đi nữa, em cũng phải khinh tôi. Tôi muốn được khinh thành thực hơn là bị tôn quí giả dối. Tôi cũng biết, tôi chỉ là đàn bà, chỉ là con người. Nhưng tôi muốn em khinh tôi. Thà như vậy, dễ sống hơn. Được người khác tôn quí, cứ phải giữ gìn, phải lo sống cho xứng đáng… tôi mệt mỏi lười biếng lắm rồi. Không muốn phấn đấu nữa, trên mọi bình diện, nhất là cho một tiếng tốt hão huyền. Không, tôi không muốn tốt để được khen. Chỉ thích xấu để bị chê. Như vậy tôi sẽ không về phe với đời. Tôi đối lập. Tôi thuộc về phe phản kháng với tất cả, tất cả. Có lúc em cũng cảm thấy thích như thế nhất là sau một hận thù, công phẫn, thất vọng nào đó, phải không Minh?”.

NTH viết, “liều mới thực là yêu”, nhưng tác giả lại tự đính chính “yêu không phải là liều”. Trong một lần từ Sài Gòn về Đà Lạt thăm em, chị Trúc đã đã ‘đánh hơi’ được sự thay đổi trong cuộc đời cô giáo Trâm, nột cuộc cách mạng hay là một cuộc nổi loạn. Thế cho nên, không bao giờ Trúc tìm thấy lại ở em, vẻ hồn nhiên thơ dại và bón dáng hiền dịu của người học trò Đồng Khánh mười năm về trước. Áo tím, nón bài thơ, mái tóc dài óng ả. Tôn Nữ Quỳnh Trâm ngày xưa như thế đó. Bây giờ thì hết rồi, mất rồi:

— Trâm này, thằng Minh nó có vẻ… sành sõi quá.
Trâm xoa ngón tay lên thành ly:
— Em đoán lầm về nó. Cũng không biết tính sao.
— Lôi thôi quá…
— Chị để em liệu lấy, đừng nói gì hết.
“Có tiếng Minh trở mình rất nhẹ. Rồi Trâm có cảm giác rờn rợn như Minh vừa ngẩng đầu lên và thân hình người con trai như một loài rắn đêm, rướn lên trong bóng tối. Trâm nhẹ nhàng xoay mình, nhìn lại phía Trúc, se sẻ kéo cái mền đắp thêm lên mình chị. Lắng nghe tiếng thở đều đều của chị trong giấc ngủ bình yên, tự nhiên Trâm thấy ngượng về cử chỉ âu yếm của mình. Rồi nàng cũng không hiểu thật ra mình muốn tỏ vẻ săn sóc chị hay dò xem Trúc đã ngủ chưa. Nghĩ thế, Trâm vừa bứt rứt khó chịu vừa lâng lâng thú vị với mặc cảm tội lỗi của một tên trộm rình chủ nhà ngủ say để đánh cắp báu vật.
“Trong mê sảng, Trâm có cảm giác như một đôi môi nóng bỏng nào chồm lên mái tóc, mình xõa dài sông đêm trên mặt gối. Bàn tay Trâm chới với níu lấy tóc mình. Nhưng bàn tay Minh như vòi mực biển khổng lồ đã quấn chặt lấy tay nàng, dìm xuống, cho khuôn mặt Minh phủ lên trên như một phiến san hô nồng ấm. Những ngón tay Trâm bất động thiếp mê một phút trong tay Minh rồi trở mình xoay nhẹ, xoay nhẹ như tiếng trục đổi chiều của 1 bánh xe hốt hoảng đuổi theo cái bóng lờ mờ thoắt hiện lên một ở ngã ba đời huyền hoặc…

Người đọc thực sự không biết chuyện gì đã xảy ra trong đêm chị Trúc lên Đà Lạt thăm em nhưng kỳ thực là để dò xét tình hình của Trâm. Sang đến Chương 6, cũng là sáng hôm sau đêm ‘nổi loạn’ của Trâm là một buổi cắm trại của lũ học trò từ Trạm Hành, Trại Mát, Cầu Đất và một vài thôn ấp khuất tịch xa xôi của Đà Lạt.

Thực ra, Trâm chán chuyện đi cắm trại với học trò, muốn ở nhà, không phải vì chị Trúc, mà vì Minh. Không còn tự dối mình mãi được, Trâm phải nhận rằng cơn bệnh tình cảm đã đến hồi trầm trọng và sự hiện diện của Minh biến thành một thói quen, một cần thiết hiển nhiên không thể thiếu vắng. Nhưng Trâm cũng thẳng thắn hiểu rằng mình không bao giờ có thể vượt qua biên giới để chiếm đoạt vũ trụ ngăn cấm bên kia.

Nếu cả hai người – nàng và Minh – đều đồng ý nhận chịu khoảng cách đó, nếu cuộc đời cứ thế trôi đi, nếu tâm hồn vẫn mãi là một cánh đồng hoa thơm ngát, Trâm nghĩ mình có thể sống mãi mãi như thế, và nguồn tình êm ái mơ hồ đó sẽ không bao giờ cạn vơi. Không cần gì cả, ngoài sự hiện diện của một người. Có một người để âu yếm gọi tên. Một bước chân quen để chờ đợi mỗi chiều về. Một khuôn mặt làm gương soi cho cảm xúc mình phản chiếu. Thế thôi. Không giao nối. Không gởi trao, không được gì để chẳng bao giờ phải mất.

Minh hiện đến trong đời Trâm như một biểu tượng hoàn toàn cho những bước chân vu vơ tìm kiếm đó. Nàng đã gặp ở Minh không những một phần tuổi nhỏ của mình đã tàn phá theo năm tháng, mà còn một tâm trạng mênh mang khắc khoải giữa cuộc đời.

Minh đã âm thầm đi theo Trâm trong buổi cắm trại với đám học trò đệ nhất cấp. Theo tôi, dưới đây là một trong những đoạn văn thơ mộng nhất trong VTHT với ‘kỹ thuật cường điệu của tiểu thuyết’:

…Rồi tiếng kêu của nàng bật lên, ứ nghẹn:
— Trời ơi, Minh!
Từng chòm hoa nắng lả tả rơi xuống dòng suối biếc lấp lánh dưới kia. Trâm tưởng mình lao đao ngã xuống chìm lấp trong đáy nước. Minh gỡ một cọng cỏ khô vướng trên giày, ném xuống dòng suối trôi lặng lờ trong nắng, nhẹ nhàng hỏi Trâm:
— Em ngồi đây lâu lắm, cô không biết sao?
Miệng Trâm cười bát ngát niềm vui:
— Không, nhưng biết cũng không tin.
— Sao vậy cô?
— Làm sao em biết tôi đến thung lũng nầy?
— Ban sáng em nhìn thấy đoàn quân của cô đi về hướng này. Trưa em cứ theo dấu mà tìm.
— Dấu gì?
— Không có dấu gì cả. Nhưng khi đi về phía này, có cảm tưởng là đi trên con đường cô đã đi qua.
— Mỗi người có một lối riêng chứ. Vì mỗi người nghe theo một nhịp điệu để dấn thân tiến tới.
— Cô nói gì vậy?
— Không.
— Phải rồi, em có nghe, nhưng không phải nhịp điệu mà tiếng gọi…
— Tiếng gọi nào?
— Tiếng gọi từ thung lũng này. Cô có gọi em không? Em nghe như cô gọi em văng vẳng và em đi tìm…
Và cuộc picnic của cô giáo Trâm với đám học trò kết thúc: “Trâm cúi xuống lòng mình thầm như nhủ: ừ, mình bị thương. Đời mình thêm một vết thương. Nhưng vô lý, vô lý quá…”.

Vòng tay học trò
(tái bản lần 4, tác giả có sửa chữa)

Chương 8 tiếp nối cuộc gặp gỡ Tuấn, phi công Air Vietnam, ở cuối Chương 7. Tuấn là bạn của anh trai Trâm, quen Trâm từ ngày cô còn đang ‘ăn chơi vung vít’ ở Sài Gòn. Khi gặp lại Tuấn trên chuyến bay Nha Trang-Đà Lạt sau khi về nhà nghỉ Tết, Trâm giữ một khoảng lặng với Tuấn cũng tựa như Trâm giữ một khoảng cách giữa Sài Gòn của quá khứ và Đà Lạt của hiện tại. Dù từ chối không cho Tuấn biết địa chỉ nhưng Tuấn vẫn tìm đến Trâm qua danh sách hàng khách Air Vietnam. Câu chuyện trong cuộc tái ngộ được kết thúc bằng đoạn văn:

Chiều xuống thấp trên những đồi cỏ già. Hơi lạnh vì gió ấm ngất ngây tỏa xuống. Tự nhiên Trâm nhìn Tuấn và nhìn quanh. Im lặng đè nén như báo trước một tàn phá bão táp nào. Mắt người đàn ông nhìn nàng mỗi lúc một chăm chú hơn, và giọng nói chàng dịu xuống như sắp sửa chỉ còn là hơi thở.
-- Mấy giờ máy bay về Sàigòn?
-- Anh không cần máy bay nữa. Trâm đuổi anh thật à?
-- Chiều rồi, anh về thôi. Anh làm Trâm sợ. Trâm hét lên cho xem.
-- Hét đi, chỉ có anh nghe thôi mà.
-- Minh ơi!
-- Ai vậy?
-- Một người đi vắng rồi.
-- Thảo nào Trâm đuổi anh.
-- Không phải lý do ấy. Vả lại không đuổi, chim trời cũng lại bay”.
  
Trâm đã gọi tên Minh với một khuôn mặt buồn ngơ ngác. Nàng cảm thấy bơ vơ lạc lõng trong một nỗi buồn chán mênh mông vô cớ. Trâm không biết mình muốn gì. Cuộc đời như dài ra trước mặt. Dĩ vãng lại vây kín sau lưng. Đi đến đâu? Trâm không biết. Chờ đợi, đòi hỏi gì? Trâm không biết. Chỉ biết sự hiện diện của một người đàn ông tên Tuấn làm nàng mệt mỏi, khó chịu vào lúc này. Những bước chân đàn ông lạc vào thềm đời người đàn bà rồi cũng chỉ là những đợt sóng, thoáng qua một lần rồi mất hút.

Trâm nhận ra mình thích cô đơn vì chỉ ‘yêu mình’, yêu chính bản thân mình. Tình yêu vị kỷ đó là một điều kỳ lạ không thể hiểu được. Chỉ vì vậy mà từ trước đến giờ Trâm chưa đích thực yêu ai. Trâm từ chối hết, Trâm đùa cợt và lãnh đạm với tất cả những cơ hội có thể làm cho nàng không là nàng nữa.

NTH đã để cho Trâm độc thoại trong những ngày Minh về nhà nghỉ Tết: 

“…Nhưng sao bây giờ với Minh. Minh như một hiện hữu thiết yếu trong đời sống. Tôi thích gì ở Minh. Người con trai đó không có gì cả. Không là gì cả. Một khuôn mặt. Một giọng nói. Một hiện diện thản nhiên và lạc lõng, không thay đổi, không thêm bớt, không dự phần gì vào những dự định đời tôi. Thế mà tôi không thể thiếu vắng. Lúc này tôi cảm thấy thế từ những ngày về nhà nghỉ Tết…”.

Tôi còn nhớ, năm đó Thành từ Đà Lạt về Ban Mê Thuột ăn Tết. Trong một lần đi chơi, chúng tôi ghé qua tiệm sách Cao Trí trên đường Tôn Thất Thuyết. Chủ hiệu sách là một người gốc Thượng, có vợ người Việt, một cuộc hôn nhân khá đặc biệt và cũng là một trường hợp kinh doanh thành công duy nhất của người thiểu số tại một tỉnh lẻ.

Vào đến Cao Trí, Thành mới ngỏ lời nhờ tôi tìm hộ trong đống bản nhạc để mua tất cả những bản nào có tựa đề… Hoàng. Một thoáng ngạc nhiên vì Thành vốn không phải là dân ca hát hay chơi nhạc… nhưng sau đó tôi hiểu ngay, chỉ vì Nguyễn Thị Hoàng. Như vậy, nhà văn và đồng thời là cô giáo đã chiếm một chỗ đứng nhất định trong con người của Thành, vốn là một kẻ… bất cần đời.


Trong lần tái ngộ sau kỳ nghỉ Tết, Minh và Trâm có những lời gay gắt với nhau. Minh thì ghen với anh chàng phi công ở Sài Gòn còn Trâm thì bực với cô bạn cũ của Minh ở Ban Mê Thuột. Có điều, tôi biết chắc chắn chẳng có cô nào ở Ban Mê Thuột để Thành vui chơi theo như lời Minh nói. NTH đã để cô giáo Trâm thốt lên những lời trách cứ mà chỉ những người đang yêu nhau mới có thể ‘thanh minh thanh nga’:

“…Thôi, thôi đừng nói càn, hắn là bạn anh tôi, hắn tìm thăm, tôi nói chuyện với hắn, rồi hắn bỏ đi, thế là quan trọng? Còn Minh, Minh làm gì, trong lúc tôi ngồi bãi biển, tôi nghĩ đến những điều thật đẹp, thật hay, thật trong sạch, thật dễ thương về Minh, về tôi, về chúng mình, thì Minh lại… với một người con gái. Không sao, ừ phải, cậu quen quá những trò đùa ấy, những thói chơi ấy, nên có thấy sao đâu”.

Vòng tay Minh là vòng tay học trò. Vòng tay khoác kín bao nhiêu hy vọng tương lai, bao hoài bão của một đời mê say vươn lên sự sống. Vòng tay đó không có quyền sớm mệt mỏi buông xuôi. Nếu coi Minh như một người đàn ông, tôi cũng đã điên cuồng, đã chán mứa, đã cùng cực hoài nghi. Cuộc đời tàn phá tôi. Còn Minh, Minh đã sống những gì, đã làm gì đến nỗi phái chán chường bê tha đến thế…  

Chuyện tình của họ đến Chương 7 thì cả trường Trần Hưng Đạo đều biết, gần như một nửa Đà Lạt cũng biết. Còn Sài Gòn, Nha Trang cũng nghe phong phanh và lan tới tận Ban Mê Thuột ở đó bố mẹ và bạn bè Minh đều nghe những tin đồn. Thậm chí ngay trên cửa nhà Trâm tại Đà Lạt có những dòng chữ viết bậy về Trâm và Minh. Trong giây phút hoảng loạn Minh đã đề nghị mình phải ra đi nhưng Trâm có những suy nghĩ của mình:

Nếu vì dư luận, vì ngại cho tôi mà bỏ đi, tôi sẽ ngăn Minh lại. Nhưng nếu vì tự ý Minh muốn đi vì một lẽ khác, cứ đi đi, tôi đưa Minh về đời sống cũ, còn tôi, có lẽ cũng thế thôi. Tôi đã nghĩ đến điều đó rồi từ bao giờ. Bao giờ tin yêu và hy vọng bỏ đi, tôi lại lao mình vào vùng trời bão tố xưa kia phung phá và quên sống. Sẽ không còn cảm thấy gì nữa cả. Rồi tôi lại trôi trong đời sống đó, như một cành củi mục vật vờ theo sóng nước thiên tai định mệnh. Ừ, nếu Minh muốn đi, cứ đi đi, không nói gì với tôi. Mình không cần giải thích gì với nhau cả. Có gì đâu mà giải thích kia chứ. Tôi lầm lẫn. Tôi uống và say với một cái cốc không, tưởng đầy tràn rượu trong đó. Phải, Minh cũng nên đi, thay đổi không khí, có lẽ Minh cũng lầm lẫn như vào một chợ phiên không tìm thấy trò giải trí

Qua Chương 8, Minh quyết định dọn đi sau một buổi chiều say sưa tại Café Tùng, không biết anh chàng đã uống bao nhiêu ly Johnny Walker và cả Ballantine. Đối thoại này xuất hiện trong một lần Minh trở lại đến thăm Trâm kể từ lúc chia tay mới có một ngày:

“-- Đêm rồi, nhớ cô quá.
Giọng nàng lạc đi:
-- Tôi cũng thế. Tưởng điên lên mất. Bỗng dưng Minh bỏ đi.
-- Đến thế này, cô còn nói thế được sao? Cô không chịu hiểu sao phải đi, vì sao phải xa nhau.
-- Từ hôm qua, tôi bỗng thấy mình hoàn toàn tự do, không phải kịch nữa. Và vai trò cũ mất rồi. Nhưng vì thế tôi mất Minh, tôi đang mất Minh đây. Tôi không chịu được. Thèm đập phá. Đập phá hết cả đời mình còn lại...

Tình cờ gặp nhau trên phố, như không hề có chuyện gì xảy ra, họ đến Ngọc Lan xem phim Les chemins de la haute ville. Trâm chỉ còn nhớ khuôn mặt khoắc khoải, tuyệt vọng của Simone Signoret từ khung cửa lầu cao nghiêng xuống. Khuôn mặt Minh chập chờn hiện lên rất gần và rất xa trong bóng tối của rạp hát. Đầu Minh nghiêng xuống vai Trâm. Cánh tay nàng như một con trăn lớn quấn chặt trên lưng ghế Minh cho tiếng nói chỉ còn là hơi thở:

“-- Em biết từ ngày em đi, tôi như thế nào không. Hôm thấy tôi trên trường sao Minh quay mặt đi?
-- Bọn họ săn và truy kinh khủng, em phải tránh cô.
-- Chỉ vì thế thôi phải không.
Minh cúi đầu vào vai nàng:
-- Ừ. Cô không tin gì em.
Trâm cười trong màu tối mê hoặc của không gian đồng lõa.
-- Nếu tin Minh, tôi sung sướng. Vì vậy tôi vẫn cố tin, cố tin cho đến ngày… Thôi không thèm nói đến ngày mai.

Tan phim, Trâm rủ Minh đi ăn tại một nhà hàng, một thái độ ‘coi như không có thiên hạ’ và ‘Đà Lạt là của riêng mình’. Chân dung của Minh trong cuộc sống hàng ngày ngoài xã hội được NTH phác họa một cách tỉ mỉ: 

“…Dáng ngồi lạc lõng trong khung cảnh một nhà hàng ăn đó làm Trâm nhận ra vẻ trẻ con giấu kín của Minh thường che lấp dưới những cử chỉ thành thạo của kẻ sỏi đời. Trâm kéo ghế ngồi xuống và chăm chú kín đáo theo dõi Minh. Những lúc ở nhà, lẽ ra phải trẻ con, hồn nhiên, Minh lại xử sự như người lớn, đủ ‘khả năng’ điều khiển Trâm, đến nỗi biên cương tuổi tác giữa hai người gần như bị xóa bỏ hẳn. Lẽ ra Minh phải kéo ghế cho nàng ngồi xuống. Hỏi nàng uống gì. Ăn gì. Lau cái muỗng. Đẩy cái cốc lại gần trước mặt nàng hơn, như thường lệ những người đàn ông ‘phục dịch’ cho đàn bà, không phải vợ, trong nhà hàng. Minh không là đàn ông như vậy, nhưng Trâm chờ đợi những cử chỉ săn sóc nhỏ nhặt đó, để quên đi trong một lúc vai trò thực sự của mình, quên thế chủ động làm cho nàng chợt mệt mỏi, chán ngán và bực tức vô lý…”.

Khung cảnh nhà hàng làm Trâm nhớ đến những bữa ăn thân mật, chỉ có hai người tại nơi tổ ấm của họ. Bút pháp của NTH mô tả từng chi tiết một bữa ăn đêm của hai người: 

Trâm lễ mễ bưng dĩa lên lầu. Gì thế cô. Thức giấc tự nhiên thấy đói quá lấy xúp ăn. Minh cầm hộ một tay nào. Rồi hai người lúi húi hâm thức ăn ở réchaud điện cạnh lò sưởi. Dưới ánh nến hồng lay lắt, hai khuôn mặt chỉ cách nhau dĩa xúp còn bốc hơi thơm ngát. Làm biếng đến nỗi mỗi lần lấy thêm muỗng dĩa hai người phải ‘oẳnh tù tì’ xem ai bị xuống bếp. Nhiều lúc lại làm biếng kinh khủng hơn, cóc cần nhúc nhích, họ ăn chung với nhau một muỗng một dĩa

Chương 9 là bức thư Minh viết cho Trâm đêm hôm trước khi nàng rời Đà Lạt. Trâm đọc thư trên chuyến xe chở khách ra phi trường Liên Khương: 

Mai cô đi rồi để lại em những lo lắng không nguôi, đầu óc trống rỗng, ý nghĩ khô khan, chữ nghĩa thiếu hụt. Biết lấy gì viết để cô hiểu và tin em yêu cô, yêu cuồng dại, yêu tha thiết, yêu với niềm lo sợ mất cô yêu bất chấp cả mấy thằng giáo sư trù mạt, yêu say mê, yêu liều lĩnh đến cùng. Mai cô đi rồi, để lại em với bao điều hối hận dày vò, tự trách đã si mê cuồng dại, đặt tình yêu không đúng chỗ, trót đã trèo cao. Vì dù sao, dù sao cô còn trẻ đẹp quí phái biết bao người âm thầm hay bộc lộ tình cảm đối với cô. Tỉ phú, giáo sư đại học, phi công, bạn đồng nghiệp hiện tại và còn nhiều, nhiều lắm… Còn em, một học trò, mà tàn ác nhất là học trò trường cô dạy, hai bàn tay trắng không biết đếm tiền, chỉ biết đánh lộn, đánh vỡ hết những gì làm mình thất vọng khổ đau, với vòng tay học trò không bao giờ ôm giữ nổi đời cô…”.

Trâm như muốn gục xuống trên ghế. Những giọt lệ âm thầm đang chảy ngược vào tim. Trâm ước gì mình có thể chạy về Đà Lạt ngay lúc đó để ôm Minh trong vòng tay, bất chấp mọi điều có thể xảy ra. Trâm chỉ muốn ‘…Minh hiểu lòng một người đàn bà cô đơn, tình yêu còn mãnh liệt gấp trăm nghìn lần tình yêu của một người con trai vừa mới lớn’.

Đã có lần Trâm hỏi Minh bằng một câu trống không: Bắt đầu từ bao giờ? Minh cười: Từ đêm giao thừa… Những câu đối thoại trống không như đồng lõa với một tình yêu ngang trái. Trâm cũng tự hỏi mình từ bao giờ, quả thật nàng cũng không biết. Tình yêu thường đến và đi trong đời người như một chiếc bóng, xuất hiện dưới nhiều khuôn mặt khác nhau nhưng vẫn chỉ là những cái bóng, không hơn không kém. Những mảnh ký ức rời rạc không thể là những bằng chứng xác thực khi người ta không còn tin tưởng ở tình yêu.

Khi phi cơ đáp xuống phi trường Nha Trang, Trâm bỗng tự hỏi mình về đây làm gì. Thế mà hôm Minh hỏi vì sao lại phải bỏ Đà Lạt trong mấy hôm, Trâm lại nói, "mỗi lần cảm thấy tuyệt vọng, tôi lại bỏ đi"… Trâm bỗng thấy chính Minh gợi nên niềm tuyệt vọng, ngao ngán và vô lý đó: "em là người duy nhất trong suốt đời tôi, cho tôi niềm đau đớn kỳ diệu đó. Em không hiểu. Không ai hiểu. Và suốt đời tôi độc thoại dưới một vùng trời tâm thức lạnh lẽo này".

Sau ba ngày ở Nha Trang tựa như một tháng lưu đày, Trâm trở về Đà Lạt với Minh trong tâm trạng của một con thú dữ bị thương kiệt sức trở mình phủ phục trước người săn đuổi”. Chỉ mới ba ngày xa nhau mà Trâm thấy Minh hoàn toàn thay đổi khi gặp lại nhau tại phi trường Liên Khương: “…Từ đứa bé đến con trai. Từ con trai đến đàn ông. Già dặn. Đỏm dáng. Và thành thạo trong cách hiên diện trước mặt đàn bà

-- Chân Minh làm sao thế?
Trâm trở lên nhìn vệt bẩn ở quần Minh gần đầu gối.
-- Hình như chảy máu. Không sao.
-- Đánh nhau nữa rồi phải không?
-- Ngã xe, không tin hỏi thằng Hải xem.
-- Xức thuốc cho Minh nhé?

Trâm cúi xuống vết thương, vừa xoa nhẹ miếng bông nhúng thuốc lên đùi Minh vừa nghiêng đầu thổi nhè nhẹ. Cử chỉ dịu dàng và lòng thương âu yếm vô tư bỗng đuổi xa trong Trâm những dày vò mệt mỏi, những xao xuyến khát khao. Chỉ còn lại tình cảm dạt dào bao dung của người mẹ đón tiếp đứa con trai phung phá trở về. Và người chị ân cần săn sóc đứa em hoang đàng ngổ ngáo. Trâm buông miếng bông đẫm thuốc xuống, xoa nhẹ ngón tay buồn quanh vết thương và nhìn lên. Hai mắt Minh lúc đó như hai vệt sáng lờ mờ vừa cuồng dại vừa não nùng của tia nắng quái chiều hôm…”

Sinh nhật Minh được Trâm tổ chức tại nhà, thêm sự hiện diện của Hải, một người bạn và cũng là chủ nhân chỗ trọ mới khi Minh ra khỏi nhà Trâm. Trong hơi men chếnh choáng, Trâm có một cái nhìn rất rõ ràng về Minh: 

“Nó không đẹp. Không dễ thương. Không một đặc điểm nào hết. Nhưng một cái-gì-đó, cái-gì tôi không bao giờ níu giữ được dù đuổi bắt đến hết đời, cái-gì-đó mê hoặc tôi, đảo lộn tôi, biến cải tôi hoàn toàn. Hoàn toàn về ý nghĩ, suy tư, đời sống. Với nó, tôi vừa tìm gặp vừa mất tăm tôi. Nhưng điều khó hiểu và vô lý đó có thực. Có thực như tôi ngồi khoanh tay tượng đá đêm nay nhìn xuống nó…”. 

Chuyện tình đang đi vào đoạn kết không lối thoát:

-- Em quyết định rồi. Đến gặp cô lần cuối chiều nay. Mai đi.
-- Minh.
-- Đi xa hẳn không ai biết đến nữa, cả cô, bè bạn, gia đình.
Trâm giật mớ tóc trong tay Minh:
-- À, ra thế. Sao không nói ngay còn quanh quẩn. Minh tưởng tôi đi tìm đấy hẳn. Việc gì phải đi đâu xa. Ở đâu thì ở, nếu Minh đã muốn vậy thì mình coi nhau là người lạ, khó gì. Muốn tránh tôi, việc gì phải trốn cả gia đình, bạn bè. Thật tiếc đã làm Minh vướng víu bao lâu nay.
-- Ai vướng víu ai? Chính em làm mất tự do của cô, mất liên lạc của cô với thiên hạ, những người khác.
Trâm hét lên:
-- Thiên hạ, kẻ khác nào? Thôi đi, đừng gán ghép liều mạng như thế. Đối với tôi, chúng nó không bằng một sợi tóc của Minh. Trong đời sống này tôi như con ma chập chờn giữa những xác chết. Minh đi đi là phải.

Khuôn mặt của Trâm nhợt nhạt rồi nàng mím môi:

-- Nếu vậy, sáng mai tôi cũng nghỉ dạy. Bỏ trường, bỏ học trò, bỏ nghề nghiệp, bỏ hết, bỏ hết. Tôi cũng cần đi, cần phải đi, đi theo con đường khác hẳn của Minh, thế là xong, quyết định cả rồi. Minh đừng tưởng tôi mê đời sống này đến nỗi trơ lì gan góc ở lại với khoảng không trống lốc. Mình vô trách nhiệm với nhau. Tôi đi vì tôi muốn đi. Minh đi vì Minh muốn đi. Vậy thôi. Giờ thì Minh có thể về, thu xếp cho xong

Minh ra đi thật. Từ ngày Minh đi, Trâm thích đứng sau khung cửa kính nhìn xuống con đường học trò. Trạng thái đau đớn mơ hồ dần dần biến thành một cảm xúc nhẹ nhàng quen thuộc, và Trâm im lìm nhận chịu như một vết thương êm ái.

“…Nàng ở lại, đau xót ở lại, như con dã tràng loay hoay vô ích trên bãi cát tan hoang những lớp sóng đời không ngừng tàn phá. Nàng sẽ nghĩ là Minh trưởng thành biến đổi, trong suốt những ngày tháng qua, bằng trái tim và tâm hồn nàng. Để rồi con chim sẻ cất tiếng hót ở một vòm trời xa lạ khác. Để rồi mỗi lần nàng thức giấc trong khoảng trống đời mình, cất lời gọi kêu, không một tiếng gió lời chim nào đáp lại”.

Khi người phụ nữ còn trẻ đẹp, họ có thể sống trong niềm kiêu hãnh vì được đàn ông quấn quýt xung quanh. Nhưng đến lúc xế chiều, dung nhan tàn tạ, thì chỉ có tình thương thắm thiết và dịu dàng mới giúp trái tim cằn cỗi gượng lại chút hơi tàn thoi thóp. Trâm ý thức được một điều, đám đàn ông vây quanh mình chẳng khác gì diều quạ vỗ cánh xuống một xác chết… chúng chỉ thèm rỉa thịt nhưng lại sợ phải tha theo xương!

Chương 10 có rất nhiều chuyện xảy ra, dồn dập như để đi đến những nút thắt cuối cùng của câu chuyện tình ngang trái. Một trong những biến cố quan trọng là cuộc gặp gỡ giữa ông Hân, ba của Minh, và cô giáo Trâm. NTH viết:

“-- Nó ở trong nhà hẳn là phiền cô nhiều chuyện lắm?
-- Thưa ông, có gì là phiền. Chỉ sợ em ở với ông sung sướng đã quen, nay trọ nhà tôi cái gì cũng khác, đâu có đầy đủ được cho bằng ở nhà.
-- Sướng mới hư thân mất nết. Chúng tôi thật khổ theo nó nhiều quá rồi.
-- Ở với tôi, Minh lo học hành, cũng ngoan lắm, có gì đâu thưa ông.

Tuy nhiên, màn đóng kịch của Trâm phải nói là… quá dở vì: 
“…Ông Hân nhìn Trâm chăm chú và mỉm cười. Trâm chợt lặng người như ông đang cười nhạt vào mặt mình, này cô kia không qua mắt tôi nổi đâu đừng biện bác vô ích”. 

Tiếp theo đó là bữa ăn tối giữa 3 người rồi lại còn đi xem phim, chi tiết này tôi thấy NTH lồng ghép có vẻ không được tự nhiên làm mất kịch tính của diễn biến. Để ba người chui vào rạp hát trong một hoàn cảnh căng thẳng là điều không hợp lý, ngay cả Tây cũng không làm như vậy, không nói gì đến Ta!

Trên đường vào nhà, Trâm và Minh bước đi lần lũi trong bóng đên, “Hai bàn tay lạnh buốt tìm nhau. Một hòn sỏi lăn nhẹ xuống bậc thềm đá. Dưới cỏ, một con vật không tên nào tìm đường lẫn trốn, tiếng động nhỏ, buồn mà vang xa như một lời van xin yếu đuối tuyệt vọng. Trâm nghiêng người bước hụt bậc thềm cuối. Cánh tay nàng chạm vào ngực áo len mềm dịu ấm áp của người con trai. Nàng nhắm mắt, mặc cho Minh dẫn đường. Thôi thôi tôi sống cho đời đã quá nhiều, đã quá lâu, giờ xin một phút cho tôi. Một phút mong manh đem trải dài khắp thời gian mai sau cao rộng. Cho tôi sống một lần dù phải chết một đời. Thôi tôi không còn quá khứ không còn tương lai không còn phải trái tốt xấu tội phúc…”.

NTH dẫn người đọc đến một phiên họp của hội đồng kỷ luật nhà trường xét xử một trường hợp học sinh ‘có vấn đề’. Một số giáo sư (đa số là nam) cho rằng dù tên học trò đó có đủ điểm trung bình hàng tháng nhưng nhà trường không thể chấp nhận một học sinh có hạnh kiểm xấu. Một số khác lại cho rằng, theo nội qui thì hắn không hội đủ điều kiện để bị đuổi học vì không đủ số cấm túc, số ngày nghỉ không phép. Lại có ý kiến cho rằng đây là một trường hợp ngoại lệ, không thể hoàn toàn xử theo đúng nội qui mà nên tìm cho nó một tội nào đó. NTH viết tiếp:

“Ông Hiệu trưởng ghi vài chữ lên giấy rồi hỏi:
-- Như vậy không thể đuổi hoặc thi lại tất cả các môn. Nhưng thằng đó tên gì?

Trâm nắm chặt tay vào mép bàn. Giọng Trâm:
-- Nguyễn Duy Minh.
-- Được, tôi ghi tên nó đây, có thể xét lại sau.

Trâm cảm thấy nhiều cặp mắt của các giáo sư lặng lẽ quay về nàng. Trâm hoàn toàn thản nhiên như giữa nàng và cái tên của bị cáo không một liên lạc nào. Nàng nhìn rất lâu vào từng nét mặt xung quanh, thầm đoán một chiến trận sẽ tiếp diễn ở thời gian và địa điểm khác, không có nàng tham dự. Nàng nghĩ đến rất nhiều vấn đề rắc rối gay go sẽ xảy ra, nhiều bàn cãi sôi nổi sẽ khuấy động bầu không khí bình lặng của đời sống Đà Lạt.

“Trâm bỗng cảm thấy kiêu hãnh một cách rởm đời và ngu ngốc: trong khi mọi người đều khúm núm, sợ sệt, chiều chuộng để bám chặt lấy mảnh vỏ đời như một loài sên giữ lấy thân cây, thì nàng không cần gì cả, ngẩng đầu lên cao, khăng khăng bước theo một lối riêng của mình và sẵn sàng rời tay khỏi sự sống đang nhìn mình gầm gừ, xua đuổi.

Vòng đai kín đặc của dư luận sẽ không gây một tác dụng nào trong đời sống nội tâm của tôi. Tôi đánh liều cả đời mình vào một canh bạc lớn. Tôi biết là cuối cùng sẽ rỗng túi, đứng lên, ra khỏi cuộc tranh chấp đó, thật dửng dưng và nhẹ nhàng. Tôi không cần, tôi đã nói và đã sống không cần như thế. Mọi trường hợp kết án, ân xá hay giảm khinh của những phiên tòa đời trở thành vô ích hoàn toàn đối với một tử tội đã âm thầm dự định tự tử. Tôi muốn chết, không phải chán đời, nhưng vì tôi yêu đời vô cùng mà cuộc đời đã phản bội không bao giờ như ý tôi”.

Minh đón Trâm sau phiên họp ở trường. Một bữa ăn ‘thịnh soạn’ đã dọn sẵn trên bàn do chính tay Minh vào bếp. Nhưng chỉ ăn được vài miếng, Trâm buông chén đũa ngồi lặng người một lúc lâu, Minh ngơ ngác nhìn vào hai con mắt ngấn lệ của Trâm. Nàng nhìn lại Minh thật lâu, mỉm cười, chớp nhẹ hàng mi và giọt nước mắt rụng xuống gò má thoáng hồng:

-- Tự nhiên tôi cảm thấy sung sướng vô cùng, cảm thấy… khó diễn tả được tình trạng này, nhưng một đời người nhiều lắm cũng một đôi lúc được cảm thấy như thế. Đến hôm nay tôi mới cảm thấy, mới nhận ra điều ấy. Thật muộn. Vì vậy mà tôi chợt thấy lo sợ mông lung, như có một mất mát đổi thay nào sắp đổ ào tới. Và mình cũng không còn đủ thì giờ để cảm thấy, nhờ nhau mà sung sướng nữa Minh à. Cũng không còn trở lại những ngày qua được. Điều đó thật dĩ nhiên, nhưng phút này tôi thật đang cảm thấy điều đó, như có thể chạm được bàn tay vô hình của số mệnh. Minh ăn đi chứ, tự nhiên tôi nghẹn và no, và thế nào ấy, như bữa ăn này là bữa ăn cuối cùng có em hoàn toàn

Giọng Minh vẫn hồn nhiên:
-- Sao thế, bữa nào mình cũng ăn cơm với nhau mà.
-- Có thể vẫn còn, nhưng không vui nữa, tôi linh cảm như thế.

Trâm kể lại chuyện họp hội đồng kỷ luật, lập tức Minh phản ứng: “Trường làm như vậy, nếu học trò căn cứ theo nội qui Bộ ấn định mà phản đối và khiếu nại, họ sẽ bị lật tẩy. Thế nào cũng có đứa làm như thế. Nhiều chuyện vô lý đã xảy ra, bọn nó công phẫn lắm rồi. Em thì không cần, cóc thèm học trường này nữa, sẽ rút học bạ xin thôi trước khi họ tìm cách tống khứ. Bọn hèn!”

Tôi thấy bút pháp của NTH  đã trở nên ‘rối loạn’ ở Chương 11, chương cuối cùng của VTHT. Không gian và thời gian hình như bị rối tung khi người đọc theo dõi đến đoạn chót. Chỗ nào cũng thấy nói đến ‘ngày mai phải xa nhau’ nhưng hình như ‘ngày mai’ đó không khác gì cách quảng cáo của một tiệm ăn với tấm bảng ‘Ngày mai ăn khỏi trả tiền’ khiến cho khách cứ dài cổ chờ một ngày mai không đến.

Chuyện tình đã lên đến ‘đỉnh điểm’, hay xuống ‘đỉnh đáy’, nên tác giả bị lạc mất phương hướng thời gian và không gian chăng? Chuyện Minh rời xa Trâm, nói dối là đi Blao, nhưng kỳ thật là đi với diễn viên Bích Phương khi đoàn Anh Vũ lên diễn tại Đà Lạt cũng làm cho người đọc bất ngờ về hành động của Minh đang yêu Trâm tha thiết.

-- Em xin lỗi cô, xin lỗi cô…
-- Sao lại xin lỗi tôi?
-- Như vậy là em có lỗi với cô.
-- Tôi chỉ buồn em đã nói dối. Còn chuyện em đi chơi không sao cả. Nhưng sao em lại nói dối tôi thế Minh. Sao thế Minh?
-- Em sợ… sợ mất cô.
Trâm thẩn thờ:
-- Em mất tôi à. Tôi mất em chứ. Mất còn mà làm gì. Mai em đi rồi. Mai tôi đi rồi.

Minh được mô tả là ‘trên môi lúc nào cũng có một điếu thuốc’. Tuy nhiên, NTH đã để cho Minh lúc buồn thì hút Bastos, lúc vui thì hút Salem rồi lại có lúc lại hút Winston… Hóa ra tác giả muốn xây dựng một Minh ‘nghiện thuốc’ qua từng trạng thái tâm hồn. Đây cũng là một điểm yếu của nhà văn nữ NTH. Khi người đàn ông nghiện thuốc, họ rất trung thành với loại thuốc đang hút chứ không đổi gout soành soạch.

Đâu đó phảng phất mùi khói thuốc. Nàng nhìn lên môi Minh tìm ánh lửa cháy đầu điếu bastos. Nhưng Minh không hút, không xoay trở, không tỏ một vẻ gì nôn nao hay vội vàng, bực tức hay khó chịu như thường lệ. Cả khuôn mặt Minh tắm đẫm màu hồng diễm ảo của ánh sáng từ chao đèn tỏa xuống 

Bỗng VTHT đột ngột chuyển sang không gian mới khiến người đọc đi từ ngỡ ngàng này đến ngỡ ngàng khác. Minh đã bỏ Đà Lạt và về Sài Gòn sống trong tuyệt vọng, ám ảnh với Bích Phương: 

Vì sao mình sống thế từ một tháng nay về Sài Gòn mất hút tin Trâm, từ khi cơn ám ảnh về Trâm trở nên một đam mê tuyệt vọng không thể nào khuây lãng, lẩn trốn và tìm quên chỉ thêm rõ nét ảnh hình xa cách. Khắp những miền phung phá ban đêm, phòng trà, quán rượu, vũ trường, đến đâu rồi Minh cũng nhìn thấy lãng đãng yêu ma khuôn mặt đó. Vầng tóc đó. Ngôi nhà hoang lạnh đó.

“Mười giờ, cả bọn kéo đến vũ trường Tự Do. Nhảy mấy bản twist, mồ hôi ra khắp người, chân tay lạnh giá, Minh trở về chỗ ngồi trong ghế tối nhìn ra sàn nhảy. Phương quay cuồng với Khang ở đó. Rồi với người khác. Với những người khác. Cơn chán ngán nghẹn ngào dâng lên, Minh châm thuốc thở khói vào âm u của nỗi buồn đêm, và nhớ lại. Thế giới rộn ràng nhỏ bé của Sài Gòn thu hút rất mau những ai mới bỡ ngỡ tìm đời và làm chán ngán rã rời những tâm hồn đã tìm thấy một tình yêu, một thiên đường, đã được và mất ở một nơi nào khác”.

Sài Gòn ăn chơi là Sài Gòn hai mặt: điên cuồng, háo hức bên ngoài và chán chường, tức tủi bên trong. Đây là nơi tìm sự sống và cũng để quên mình phải sống. Đây là nơi thoát ly của những người chán ngấy dư luận hẹp hòi, nọc độc ở các tỉnh nhỏ. Những anh trốn vợ, những chị trốn chồng đi tìm tình yêu khác. Những kẻ sợ hãi cô đơn sau một thất bại tuyệt vọng của đam mê cùng cực hoan lạc hay não nùng. Tất cả đều đổ xô về bám víu lấy những vĩa hè Sài Gòn và trong đó có Minh.

Trâm cũng bỏ Đà Lạt. “Tuần sau tôi trở về, tôi trở về với em”, Trâm đã nói thế buổi cuối cùng khi Minh đưa tiễn nàng về Nha Trang. Nhưng ngày thứ ba tuần đó Minh ra Air Việtnam chờ chuyến bay Nha Trang lên Đà Lạt, cho đến mười một giờ chuyến đưa hành khách về hãng mà bóng Trâm vẫn biệt tăm.

“Minh lang thang từ con đường này sang đường khác. Con phố nhấp nhô heo hút quay cuồng đảo lộn lùi dần về phía sau. Hồ im thoi thóp nhớ mặt trời. Con đường ẩm ướt dưới chân như chạy dài vô tận. Điếu thuốc cháy đỏ đầu môi phảng phất hơi ấm một ngày đầu họp mặt. Cái tàn dài lả tả rung trong mưa bay. Búng mẫu thuốc ra xa, Minh nghĩ thế là hết. Nhưng còn phảng phất mơ hồ an ủi và hy vọng. Có thể vì một lý do nào đó, Trâm về muộn. Thôi chờ đến thứ sáu.

Nằm im, nằm chết, nằm mê thiếp một tuần, hai tuần nhà thằng bạn. Minh chờ khắc khoải một dòng thư, một tiếng vọng đáp lời. Thiên đường im tiếng. Không ai đáp lời và Minh lầm lũi bỏ đi, đớn đau mỏi mệt ngã vào vòng tay niềm nở của Sàigòn

Tại Sài Gòn, Minh đã có lần tâm sự với một người bạn: tình yêu đã đi vào ngõ cụt, bài toán của cuộc đời sẽ không bao giờ tìm ra đáp số. Gia đình đã đưa ra ‘tối hậu thư’, hoặc tiếp tục gặp Trâm hoặc trở về cuộc sống bình thường với gia đình. Minh đã chọn ở lại theo bản năng của tuổi trẻ. Bây giờ Trâm lại bỏ đi nên sự hy sinh trở thành vô ích. Như một con chim chưa đủ lông, đủ cánh, Minh chưa đủ sức để bay một mình nên vất vưởng giữa Sài Gòn muôn màu và nhiều cám dỗ.

Nhưng định mệnh đã đưa đẩy họ nhìn thấy nhau tại Sài Gòn và NTH kết thúc câu chuyện tình với những dòng cuối:

Nàng đi ngược lại Brodard, qua phía Tự Do tìm người mù bán thuốc. Cửa vũ trường bỗng mở nhẹ nhàng. Trâm nhìn lên. Minh. Trái đất quay một vòng trong chớp mắt im sửng. Dưới ánh đèn màu khuya, muộn hắt hiu, Trâm nhận ra mái tóc bồng bềnh, hai con mắt thờ ơ, đôi môi tràn đầy của mùa tình Đà Lạt. Trong bóng dáng tình khuya đó, Trâm thoáng thấy hình ảnh xa lạ của chính mình chập choạng lung linh. Tia nhìn bỗng lạc mất nhau. Nàng đi qua, đi qua, đi qua không một bước chân dừng lại. Con đường bỗng lún xuống phía sau, Trâm nghe tiếng rơi vỡ của một tượng đen vào quá khứ…. Kim đồng hồ nhà bưu điện tìm nhau trên số hai. Chiếc Sport lao vút về xa lộ. Tựa đầu vào thành xe, hàng mi khép kín, Trâm thì thầm trong khoảng không, đêm ơi, đêm ơi.

***
  
Trong một cuộc phỏng vấn của Tố Tâm trên tạp chí Ðất Mới (số 4, bộ 2, tháng 4/1990), Nguyễn Thị Hoàng tâm sự: “Từ năm 1966 đến 1969, mình viết liên tục theo những ‘đơn đặt hàng’. Trong thời gian này mình viết rất nhanh, có khi viết hai, ba truyện cùng một lúc... rồi thì lại buồn chán, mệt mỏi, kiệt sức và mất hoàn toàn tinh thần làm việc vì trong suốt những năm dài liên tục mình chỉ sống với bổn phận làm vợ, làm mẹ và gánh vác kinh tế gia đình. Cái nguồn sống riêng phải nín lại, bị khô héo đi. Sau một chuyến đi xa vào năm 1970 mình lấy lại được hứng khởi và phần không nhỏ cũng vì năm đứa con, một đòi hỏi lớn về kinh tế gia đình nên phải tiếp tục viết... Do đó mà chưa có quyển nào coi như được viết từ tim óc của mình.

Truyện mình viết thường là truyện tình bế tắc và đi xuống. Trong đó những vai nữ bao giờ cũng khát khao đi tìm một đời sống thật của mình, nghĩa là tìm kiếm chính mình. Những nhân vật nữ lang thang bất định, và xa rời với phận sự gia đình. Chất liệu lấy từ những năm bất ổn lênh đênh trong cuộc đời đã qua của mình, đôi khi được ráp nối với những câu chuyện thời sự, cộng với một phần tưởng tượng, phóng tác, vẽ vời... rồi ráp thành chuyện. Không biết bên đàn ông thì sao, chứ cánh đàn bà thường mắc phải cái này là có những nét của nhân vật hoặc chính, hoặc phụ, thế nào cũng hắt bóng cá tính thói quen, đường nét và vóc dáng của tác giả. Riêng về Vòng Tay Học Trò, nếu bảo đó là thực thì cũng không hẳn là thực mà bảo là không thực thì... cũng chẳng phải là thế. Dư luận trộn lẫn tiểu thuyết của mình với đời sống thật. Cũng vì thế mà có những tiếng ác ý lao xao về đời sống của mình. Cho nên chỉ có cách là... phải thản nhiên.

***

Sau cơn bão tình tại Đà Lạt, tôi tình cờ gặp lại Mai Tiến Thành tại Sài Gòn, hai đứa lúc đó đều đã khoác áo lính. Thành là lính báo chí Quân đoàn II đóng tại Pleiku còn tôi quanh quẩn ở trường Sinh ngữ Quân đội. Làm báo, dù là báo quân đội, Thành cũng có một tác phẩm, nếu so với VTHT của NTH thì chỉ là ‘anh tí hon’ bên cạnh ‘người khổng lồ’ cả về hình thức cũng như nội dung. Thành tặng tôi cuốn Tiếng nói học trò nhưng đến nay cuốn truyện này đã thất lạc. Tôi chỉ còn nhớ đại khái cuốn truyện xoay quanh thế giới học trò với những từ ngữ quậy phá, châm chọc qua những tình tiết khôi hài trong trường, trong lớp.  

Sau 1975, chúng tôi đều đi học tập cải tạo nhưng cuộc đời Thành gặp nhiều may mắn: đi vượt biên chỉ một lần là tới nơi và chỉ vài tuần sau lại được hội ngộ với vợ con ngay trên đảo. Bẵng đi một thời gian, chúng tôi lại gặp nhau ở Sài Gòn trong chuyến về thăm lại Việt Nam. Mai Tiến Thành khi đó đã hoàn toàn thay đổi, khác hẳn Minh của thời Đà Lạt và Thành của thời mặc áo lính. Thành lúc này là một người đàn ông chững chạc, ăn nói điềm đạm, cử chỉ từ tốn và có vẻ như an phận, khác hẳn với Thành của tuổi trẻ bão táp.

Không ngờ lần gặp nhau tại Sài Gòn là lần cuối trong đời. Năm 2008, Mai Tiến Thành đã từ trần tại Hoa Kỳ trong sự thương tiếc của gia đình và bạn bè. Tôi viết lại những dòng hồi ức này thay cho một một nén hương lòng để tưởng nhớ một người bạn thân thiết từ thời trung học.

William Shakespeare viết:

“Tuổi trẻ hoang dại, tuổi già thuần tính
Hỡi tuổi già, ta thù ghét ngươi; hỡi tuổi trẻ, ta quý mến ngươi”

(Youth is wild, age is tame
Age, I do abhor thee; youth, I do adore thee)