Sunday 12 July 2015

Lời cảnh báo về nguy cơ Hán Đại Đông Á

Lý Đông A, một tư tưởng gia thâm viễn của Việt tộc, từ những năm 1940, trong tập Chu Tri Lục (bàn về sự biết chu toàn) tập 3, đã phân tích và trưng ra những nguy cơ của kế hoạch Đại Hán của Tầu, dù là Tầu Quốc hay Tầu Cộng.

Lý Đông A đã nhìn rõ, từ 1943, sau đệ nhị Thế chiến, thế giới 1950-2000 sẽ chuyển mình sang chế độ mới, với các liên minh quốc tế. Tại thời điểm 1940, Căn bản lập trường dân tộc qua Cương Lĩnh 2, đối Tầu, gồm vài điểm quan trọng sau:

1- Quy luật lịch sử Tầu là : Lấy Tài Hoá Thu Nhân Tâm (thoát nghĩa Hữu đức giả hữu thổ), Hưng Hoa diệt Di, thiên hạ đại đồng theo lối Hán mà vũ khí và thủ đoạn chủ yếu là chủng tộc xâm lược.

2- Tam Dân chủ nghĩa của Tôn Văn cũng là một chủ nghĩa đế quốc: Tôn Văn từng nói với cụ Phan Bội Châu: “Các ông bất tất phải làm, chỉ là một tỉnh của Tầu, chúng tôi làm xong thì xong”, và sau này Tưởng Giới Thạch cũng nói: “Việt Nam là Tầu, Việt Nam để người Tầu làm giúp cho”.

3- Năm 1911, Tôn Văn đề xướng Ngũ Tộc Cộng Hoà, gồm 90% là nhân khẩu Tầu, 10% là Mãn, Mông, Tạng, Miêu (là Việt núi). Năm 1916 Tôn Văn luận Quốc Tộc tức đúc các dân tộc vào một lò mà thống nhất thế giới, chia toàn quốc ra Tỉnh, Quận, Huyện, khoảng 1921-22, Tôn Văn nói: Ta phải đem các dân tộc Thái, Việt… liên hợp lại cùng chống đế quốc.

4- Năm 1940, Chính Trị Địa Lý Bộ của chính phủ Trùng Khánh, ra tập Đông Á Địa Lý, quy định 8 con đường phát triển của nòi Hán sau này:
-1/Tây Bá Lợi Á- 2/ Tây Tạng, Ba Tư- 3/Tân Cương- 4/Ấn Độ- 5/Việt, Thái, Miến, Tân Gia Ba- 6/Nam Dương liệt đảo- 7/Úc châu- 8/Thái Bình Dương liệt đảo & Hàn quốc.

Để đạt mục đích, Tầu dùng cách:  (lấy vợ An Nam) - (tiêu tiền An Nam) -(ở đất An Nam).

Lý Đông A còn trưng rõ: tờ Đại Lộ Nguyệt San ở Thượng Hải, số ngày 1-5-1933 đã đăng bài Nam Dương Hoa Kiều Cộng Hoà Quốc Vận Động, chủ trương lấy Hoa kiều làm chủ lực xâm lược, biến Nam Dương thành Hoa kiều Cộng hoà quốc. Về Việt Nam: Bắc kỳ quy về mẫu quốc, Trung kỳ và Nam kỳ thuộc về Hoa kiều thống trị. Trên tờ Quảng Tây Nhật Báo số ngày 26-11-1942 đề xướng “Hoa kiều thổ hoá vận động” qui định bề mặt phải thổ hoá nghĩa là Hoa kiều ăn mặc theo thổ dân, nói tiếng thổ dân, ảnh hưởng văn hoá thổ dân để bề trong tăng tác dụng Hán hoá.

Lý Đông A còn nhấn mạnh: “Đối riêng VN, họ đang nghiên cứu cách nào lập thành một Tỉnh, nuôi Việt gian thế nào, diệt chữ quốc ngữ thế nào, tiễu trừ dân tộc ý thức cách nào, làm sao cho người Việt tưởng mình là Hán, khôi phục chữ Nho thế nào… thống trị thế nào…”

5- Tầm quan trọng của đất nước Việt Nam đã được viễn kiến Lý Đông A kết tinh hùng hồn như sau: “Đất ta là đất cơ sở của Thái Bình Dương, trung tâm của Đông Nam Á, tư lệnh đài của quốc tế, được ta thì tiến lên xưng bá loài người, lui về thì tự thủ muôn thuở… đứng vào thiên hiểm của trung tâm… đời nay nếu ta muốn sống phải hết sức mạnh mà ta hững hờ là thì tất diệt. Lại đời nay, diệt tức là toàn diệt đó, Ta chớ hòng làm Hoà Lan hay Thuỵ Sĩ… ta là cái xương hóc giữa cổ họng chú chệch…”

LẠM BÀN

1- Đối Tầu, phân tích cặn kẽ của Lý Đông A, 70 năm sau, vẫn còn nguyên vẹn giá trị và vẫn làm kim chỉ nam cho cuộc vận động toàn dân sinh tồn phòng vệ. Nhật, Pháp chỉ là đối thủ chóng qua, Tầu trước sau vẫn là đối thủ truyền kiếp.

2- Trung Cộng đã chiếm Tân Cương, Tây Tạng, từng đánh Ấn Độ 1962, mưu toan ở Nam Dương 1965… đúng như dự liệu của Lý Đông A, và so với tiết lộ của Wikileaks gần đây, thì mưu lược của Tầu trước sau vẫn là mở đường xuống Đông Nam Á, qua VN, lối tằm ăn dâu, thuê đất thuê rừng, khai Bâuxít, mỏ quặng, lấn đảo, biển, dùng tài hoá đầu tư khắp VN nhất là đang nhắm vùng biên giới Móng Cáy (ngũ niên kế hoạch đầu tư hơn 400 tỷ từ nay tới 2015). (1)

3- Lý Đông A nhìn rõ thế giới từ 1950-2000, hậu Thế chiến II, đổi mới theo hướng quốc tế liên minh, mà VN trong liên minh Đại Nam Hải, phải thật mạnh để đối kháng Tầu.

4- Cảnh báo về âm mưu Hán hoá: nuôi Việt gian, làm sao cho người mình tưởng mình là Hán, diệt trừ chữ quốc ngữ, khôi phục chữ Nho thế nào… vẫn còn nguyên giá trị. Hiện tại vẫn không thiếu người vì lòng yêu chữ Nho-chữ Nôm, vô tình tuyên truyền cho âm mưu đó mà quên rằng, cổ ngữ như LaTinh, Hy Lạp vẫn chỉ là cổ ngữ và quốc ngữ abc mới là nét đặc sắc của Văn hoá linh động cấp tiến Việt, tách rời bóng trùm Hán học.

Tiếc rằng Lý Đông A đã khuất bóng sớm, từ 1946, không kịp nhìn thấy những chuyển biến rất lớn của thế giới: Tầu Cộng chiếm Hoa lục từ 1949, Tưởng chạy ra Đài Loan, Quốc Cộng VN 1954, VN 1975, Nga sô Đông Âu xụp đổ 1990, thế giới Hồi giáo bừng dậy, cuộc cách mạng điện tử mở rộng thông tin toàn cầu từ 1980….

Nam Dương, nhờ 90% Hồi giáo đã đẩy ngã Cộng sản Hoa kiều xuống biển.

Hàn, Nhật, trở thành cường quốc kinh tế, đối kháng mạnh mẽ với tiềm năng kinh tế của Tầu.

Ấn Độ cũng trở thành một cường quốc, không dễ gì Tầu có thể xâm chiếm (2)

Úc châu, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Mã Lai, Singapore, Đài Loan… những đảo quốc này với hải quân và hạm đội Hoa Kỳ, không dễ gì hải quân mới lớn của Tầu có thể áp đảo, Tầu chưa từng có kinh nghiệm về hải chiến và đại chiến.

Hai khâu yếu nhất hiện tại là Lào và Việt Nam. Nếu VN biết nghiêng hẳn sang khối ASEAN và đại cường Hoa Kỳ, vận động yểm trợ của quan thầy cũ là Nga Sô tạo áp lực miền Tây-Tây Bắc Trung Hoa, thì VN có thể thoát hiểm và làm chùn chân hồ đội lốt hổ Tầu.

Tại sao Tầu lại là hồ đội lốt hổ? Phân tích ta thấy dân Tầu 1.3 tỷ là loại dân hỗn tạp, nam Dương Tử vốn là giống Bách Việt, cả 56 bộ tộc, dân Hán từng bị Mông Cổ đô hộ 99 năm, Mãn Thanh thống trị 300 năm, binh hùng tướng mạnh, Tống, Minh… sang đánh VN lần nào cũng tan tành đại bại, đầu thế kỷ XX Nhật Bản vũ bão đánh chiếm Mãn Châu, Trung nguyên Tầu, Bát quốc xâu xé bắt nhượng địa, vì sao? có thể kê ra những nhược điểm của Tầu như sau:
* Dân Tầu không phải là loại dân chiến sĩ -warriors- như Nhật, Mông, đa số là dân buôn bán, trí thức nhào nặn trong Nho Khổng cả ngàn năm, ô hợp, cúi mình theo cấp trên, làm việc lấy lệ, dối trá cho yên thân, trọng tiểu lợi, đầy dẫy những tiểu nhân tài bất cập chí, đầu óc còn phong kiến lạc hậu, chưa nhìn ra thế toàn cầu, vẫn lúi húi trong trò chơi chính trị Chiến quốc Tam quốc. Dân tình dân trí như thế làm sao bá chủ hoàn cầu?

* Khối người Tầu theo hướng Tự Do Dân chủ, chống Cộng, khá đông vòng quanh thế giới, Đài Loan, Tân Gia Ba, Mỹ, Gia Nã Đại… Lý Quang Diệu từng cảnh tỉnh Đặng Tiểu Bình về đầu óc thực dân lấy mạnh hiếp yếu của Tầu Cộng. Khối này, cộng với những người đối kháng thức thời trong Hoa lục, không để Trung Cộng yên ổn khi có đại biến cố xẩy ra.

* Vũ khí nguyên tử mới không còn nể sợ biển người của Tầu, chưa kể loại quân Tầu phù, ngay cả 200 năm trước cũng đã bị Nguyễn Huệ phá tan trong một tuần lễ. Miếng ăn, nạn đói luôn luôn ám ảnh dân Tầu, dân xấu xí uý tử tham sinh hơn là bền gan sắt đá.

* Âm mưu của Trung Cộng lấy kinh tế bao vây Âu Mỹ, không qua mặt được bậc thầy kinh tài Nữu Ước Luân Đôn, bậc thầy chứng khoán, bonds Do Thái. Giỏi về thương mại, quen hối lộ, gian thương, sau 30 năm canh tân từ 1979 tới nay Tầu vẫn chưa có nổi một thương hiệu quốc tế như Đại Hàn với Samsung, Hyundai, LG…có nghĩa là một nền kinh tế chậm tiến gia công cho Nhật, Âu, Mỹ… Cựu thủ tướng Anh, M.Thatcher từ 2002 cho rằng phải mất 40 năm nữa Tầu mới tân tiến, giải quyết xong cấu trúc hạ tầng xã hội. Hiện tại Tầu công kích Mỹ lấy Đô La làm loại tiền thống trị thế giới, nhưng đến bao giờ đồng Yuan của Tầu mới có uy tín bằng đô la để được quốc tế chấp nhận?

* Trước trào lưu dân chủ tự do lan tràn toàn thế giới, sách lược Tâm Công của Nguyễn Trãi, từng làm quân Minh tan hàng, có thể dùng để làm rã ngũ quân cán Trung Cộng nếu phối hợp được với các lực lượng đối kháng của chính người Tầu trên thế giới và người Bách Việt, người trí thức khát vọng tự do dân chủ ngay trong đất Tầu.

CHÚ THÍCH

1- Năm 1965, cùng với chiến tranh VN, đảng CS Nam Dương với 3.5 triệu đảng viên và 20 triệu người ủng hộ, là đảng mạnh nhất trong 18 đảng, họ toan nắm quyền ở Nam Dương. Khi ấy TT Sukarno lại bỏ Âu Mỹ, nghiêng về Trung Cộng, với lạm phát 650% kinh tế kiệt quệ, Sukarno từng chửi rủa Mỹ: “Go to Hell with your aid ” đuổi đoàn thiện chí Peace Corp Mỹ, ông bị bệnh, không chịu giải phẫu ở Vienna mà lại quay về với Đông Y Tầu… May nhờ giới quân nhân chống Cộng quyết liệt và khối Hồi giáo thuần thành vốn chống vô thần, đảng CS Nam Dương bị triệt hạ, quần chúng nổi lên giết người Hoa mà họ cho là đứng sau đảng CS (CS Tầu đã chuyển vũ khí cho CS Nam Dương), họ trả lại đất cho điền chủ bị CS địa phương tước đoạt… Theo Đại sứ Mỹ năm 1966 cho biết khoảng 400,000 CS và thân CS bị tàn sát, Đại sứ Thuỵ Điển cho rằng số bị giết ít nhất là 1 triệu người. Hoa Kỳ khi ấy quyết tâm chặn đứng sức bành trướng của Trung Cộng ở biển Đông, từ Mã Lai-Nam Dương-tới Nam VN. Ngày nay, khu Tầu ở Nam Dương không dám đề chữ Hán trên bảng hiệu ! (Sukarno bị truất 1967, mất năm 1970-tướng Suharto lên thay).

2- Xung đột biên giới Ấn-Tầu 1962 làm Thủ Tướng Nerhu tỉnh ngộ: Huynh đệ Ấn-Tầu-India-China Brothers- chỉ là trò hề, ngay sau đó Ấn tăng cường quân đội gấp đôi để phòng Tầu, cùng vụ hoả tiễn ở Cuba năm ấy, Mỹ và Âu châu nhìn ra tham vọng bành trướng của CS và riêng Nga cũng bắt đầu nghi ngại mối hoạ láng giềng Tầu (tài liệu tra cứu từ Google).

Nguồn: Hạ Long Bụt Sĩ, Diễn Đàn Thế Kỷ

                                                                                                  Inline image 2                                                                     

Câu chuyện lịch sử 2000 năm: 

Triệu Đà tân thời...

alt
Tượng Triệu Đà tại Chân Định, Thạch Gia Trang, Hà Bắc, Trung Hoa.

Hồi xưa, ở Saigon khi có việc đi từ quận 5 hoặc quận 6 ra Chợ Bến Thành muốn “suôn sẽ” nhiều người tránh đường Triệu Đà, chuộng đường An Dương Vương! Hỏi ra thì chữ …Đà còn thêm chữ Triệu nữa trong khi chữ An lên ngôi Vương có phải yên chí lớn không? Đây là lối chơi chữ đượm mê tín chứ hòan tòan không do ghét ông Triệu Đà thương ông An Dương Vương…

Thật óai ăm, cả hai danh nhân lịch sử thời xa xưa đều là vua của hai nước, nhưng nước lớn của ông nầy tiêu diệt nước nhỏ của ông kia, mà cả hai ông đều có tên đường, cách nhau khá gần cùng trong Thủ Đô VNCH. Điều lý thú, là đường Triệu Đà nằm trong khu vực đông người Tàu, trong khi đường An Dương Vương thuộc vùng đông dân cư …Việt! 

Nhân tình hình Việt Nam có nguy cơ bị mất nước về tay Tàu Cộng, người viết xin đi ngược dòng lịch sử tìm hiểu mối hờn vong quốc của An Dương Vương… Sự kiện nước Âu Lạc (một quốc gia thời cổ đại của dân tộc Việt Nam) lập nên bởi Thục Phán An Dương Vương (257- 208 trước Tây lịch) đóng đô ở Phong Châu (nay là Bạch Hạc, Vĩnh Phú) bị Triệu Đà thôn tính, sát nhập vào quận Nam Hải (vùng Quảng Đông ngày nay) đổi tên thành Nam Việt, tách khỏi triều đình nhà Hán thành một quốc gia tự chủ, gọi là nhà Triệu (207-111 trước Tây lịch) có thể rút ra bài học bởi lịch sử thường hay tái diễn khi có một hòan cảnh tương tự.

Theo Sử gia Tư Mã Thiên (145– 86 trước Tây lịch), trong Sử Ký, đã khẳng định Triệu Đà là người Trung Hoa, quê ở huyện Chân Định (nay thuộc tỉnh Hà Bắc, gần Bắc Kinh). Sau khi Tần Thủy Hòang gồm thâu lục quốc (Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Sở) lập ra nhà Tần (221-206 trước Tây lịch) đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đi đày đến ở lẫn với người Việt. Viên quan nhà Tần trấn nhậm (quan úy) quận Nam Hải tên là Nhâm Ngao từ lâu có ý chiếm cứ nước Âu Lạc ở phía Nam, nhưng giấc mộng chưa thành thì lâm bệnh nặng. Lúc sắp mất, Nhâm Ngao làm giả chiếu chỉ (của nhà Tần) cho Triệu Đà làm lên thay mình, cai trị quận Nam Hải.

Nhân cơ hội nhà Tần sụp đổ bởi Lưu Bang tức Hán Cao Tổ khai mở triều đại nhà Hán (206 trước Tây lịch – 220 sau Tây lịch), Triệu Đà thấy cờ đã đến tay, bèn không chịu thần phục nhà Hán, hùng cứ vùng Đông Nam nước Tàu, uy hiếp các miền biên giới, mở rộng lãnh thổ riêng. Thay vì cử binh đánh dẹp, Hán Cao Tổ Lưu Bang phong Triệu Đà làm Nam Việt Vương, mở đầu triều đại nhà Triệu (207-111 trước Tây Lịch) trải 5 đời vua và nước Nam Việt trở thành chư hầu của nhà Hán. Dù công nhận vương triểu của Triệu Đà nhưng nhà Hán luôn tìm cơ hội để thôn tính Nam Việt.

Đến đời Triệu Minh Vương (125-113 trước Tây lịch), vua thứ 3 nhà Triệu có Hòang Hậu gốc Hán là Cù Thị (người phụ nữ họ Cù). Trước khi làm vợ Triệu Minh Vương, Cù Thị đã từng là tình nhân của viên quan nhà Hán là An Quốc (tên) Thiếu Quý (họ). Triệu Minh Vương ở ngôi 12 năm thì mất, vua kế vị là Triệu Ai Vương (113-112 trước Tây lịch) Cù Thị trở thành Thái Hậu của nước Nam Việt. Vua Hán cử An Quốc Thiếu Quý làm sứ giả sang Nam Việt thuyết phục tân quân Triệu Ai Vương dâng nước cho nhà Hán. Vua còn nhỏ tuổi và “Tình cũ không rũ cũng tới”, Cù Thị lại thông dâm với An Quốc Thiếu Quý, đồng hương Hán tộc của bà và thông đồng với tình nhân tìm cách đưa nước Nam Việt từ chư hầu sang nội thuộc nhà Hán. Thừa tướng Nam Việt là Lữ Gia nhiều lần can ngăn không được bèn tổ chức ám sát sứ giả nhà Hán, Cù Thị và vua Triệu Ai Vương, tôn người con trưởng của Triệu Minh Vương lên ngôi tức Triệu Dương Vương (112-111 trước Tây lịch) là vị vua cuối cùng của nhà Triệu. Nhà Hán cử binh chính phạt, Thừa tướng Lữ Gia lãnh đạo cuộc kháng chiến thất bại, vua tôi bị sát hại nước Nam Việt rơi vào tay nhà Hán, đổi thành Giao Chỉ bộ.

Trở lại Triệu Đà với mộng làm bá chủ phương Nam, cử binh đánh chiếm nước Âu Lạc của Thục Phán An Dương Vương nhiều lần nhưng thất bại vì không hạ nổi thành Cổ Loa và vũ khí lợi hại gọi là Nỏ Thần (Liên Châu), bắn ra nhiều mũi tên cùng một lúc. Triệu Đà dùng kế cầu hòa, đề nghị cho con trai Trọng Thủy sang ở rễ bên Âu Lạc. Thục Phán An Dương Vương bất chấp lời can gián của Tướng quân Cao Lỗ, vui mừng chấp nhận cuộc hôn nhân nầy. Công chúa Mỵ Châu là không ngờ người chồng vương giả của mình lại là gián điệp, dùng tình cảm phu thê khai thác những bí mật quân sự của Âu Lạc, đặc biệt là cách bố phòng của thành Cổ Loa và sự vận hành liên phát của Nỏ Thần. Vì yêu chồng và thật thà nên Mỵ Châu đã vô tình rắc lông ngỗng làm dấu cho giặc đuổi theo đến đường cùng. Mỵ Châu vô tình tiếp tay giặc làm mất nước Âu Lạc và bị chính cha ruột là An Dương Vuơng giết chết sau khi thần Kim Quy hiện lên bảo: Kẻ ngồi sau lưng ngài là giặc đấy! Triệu Đà chiếm xong Âu Lạc, sát nhập vào quận Nam Hải, đổi tên là Nam Việt, lên ngôi tức là Triệu Vũ Vương (207-137 trước Tây lịch) trị vì 70 năm, thọ 103 tuổi.

Câu chuyện Trọng Thủy – Mỵ Châu đầy thương cảm, rất phổ biến trong dân gian và là bài học lịch sử khá đúng cho tình hình Việt Nam hiện nay trước hiểm họa mất nước về tay Tàu Cộng. Vì thật thà với tình yêu trong sáng dành hết cho chồng, công chúa Mỵ Châu, không nghĩ đến thủ đọan chính trị, quỷ kế gián điệp qua hôn nhân của Triệu Đà, kẻ chủ mưu xâm lăng nước Âu Lạc. Có thể nói đây là lần Bắc thuộc thứ nhất của dân tộc Việt (Âu Lạc = Âu Việt + Lạc Việt) dưới sự đô hộ của nhà Triệu (gốc Hán) kéo dài 248 năm cho khi nổ ra cuộc khởi nghĩa thành công của Hai Bà Trưng ( năm 40 sau Tây lịch).

Ngày xưa nàng công chúa Việt ngây thơ Mỵ Châu vô tình lọt vào quỷ kế của giặc, ngày nay Cộng Sản Hà Nội với "đỉnh cao trí tuệ" tình nguyện gắn bó huynh đệ qua “16 chữ vàng và 4 tốt” với Tàu Cộng trong cuộc chiến mà Lê Duẩn hãnh diện thú nhận “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và Trung Quốc”, đưa đến hậu quả phải dâng biển hiến đất…Cuối cùng theo hội nghị Thành Đô 1990, CS Hà Nội chính thức thỏa thuận lịch trình từng bước đến năm 2030, Việt Nam hòan tòan trở thành phần đất tự trị, thuộc nước Tàu, y như Âu Lạc lọt vào tay Triệu Đà hai ngàn năm trước. Dựa vào câu chuyện mất nước qua mối hôn nhân Trọng Thủy- Mỵ Châu, là hệ quả tất yếu bởi sự say mê đắm đuối của Mỵ Châu dành hết chồng, trở thành kẻ nội ứng đắc lực cho Trọng Thủy, tay gián điệp ngọai bang, Đức Hùynh Giáo Chủ PGHH cảm tác hai câu thơ nổi tiếng:

Ngày xưa, Mỵ Châu mê “thằng Chệt” Trọng Thủy (con Triệu Đà, gốc Hán), trái tim để trên đầu, đưa đến mất nước Âu Lạc. Ngày nay lịch sử tái diễn, CS Hà Nội lệ thuộc Tàu Cộng qúa sâu đậm từ viên đạn đến miếng lương khô trong cuộc chiến đẫm máu dưới sự lãnh đạo của cán bộ CS quốc tế Hồ Chí Minh nên họa Bắc thuộc lần thứ 6 đang cận kề qua 5 bằng chứng Tàu Cộng công bố cho thấy đàn em kiêm con nợ Việt Nam (Cộng Sản) đã bán đất nước công khai có văn tự đàng hòang.

Ngày xưa, chỉ một Trọng Thủy lọt vào hòang cung của Thục Phán An Dương Vương, vua nước Âu Lạc nhưng ngày nay hàng trăm ngàn “Trọng Thủy” công khai từ bên Tàu tràn sang nước Việt họat động ngày đêm dưới nhiều lớp vỏ bọc ngụy trang, tạo thành những tô giới “Chinatown” rải rác khắp ba miền, gồm cả “Trọng Thủy Uông Chi Lưu” nằm phục sẵn trong chính phủ CS Hà Nội. Giàn khoan dầu HD 981 của tàu Cộng ở thềm lục địa Việt Nam chỉ là tín hiệu mở màn cho tiến trình thực hiện giấc mộng Đại Hán của một Triệu Đà tân thời, biến Việt Nam thành một quận huyện Tàu, xóa sổ quốc gia Việt Nam trên bản đồ thế giới như trong bản nhạc “Anh Là Ai?” của nhạc sĩ Việt Khang: “Khi thế giới nay đã không còn Việt Nam”.

PHAN UYÊN NGUYÊN
(Tham khảo nhiều tài liệu hòan thành bài viết này)