Người Việt Nam chúng ta là nạn nhân dưới chế độc độc tài CS phải bỏ nước ra đi vượt biển hay băng rừng, vượt suối để đến biên giới Thái Lan… đã bị các cơ quan truyền thông lúc bấy giờ ác ý không viết đúng sự thật. Hồi tưởng lại 36 năm trước chúng ta đã gánh chịu nhiều khổ đau… Tuần trước nữ phóng viên Nilufer Demir của Thổ Nhĩ Kỳ chụp hình em bé Aylan chết trên bãi biển đã làm rung động lòng người! 36 năm trước người vượt biển Việt Nam bị xua đuổi chết trên biển. bị hiếp dâm….khủng khiếp gấp 10 lần bây giờ. Từ cuối năm 1979 – 1987 tàu Cap Anamur vớt 11.349 người Việt vượt biển được định cư ở Đức. Một số người đến trại tỵ nạn ở Hamburg bị bọn Neonazis “chống người ngoại quốc” ném lựu đạn làm chết 2 người; 10 năm sau 1991 ở Hoyerswerda và 1992 ở Rostock-Lichtenhagen người Việt hợp tác lao động ở lại cũng bị tấn công! Tin tức về người di dân và tỵ nạn thay đổi từng ngày…
http://www.welt.de/themen/brandanschlaege/ (cảnh đốt nhà nơi người tỵ nạn và di dân tạm trú)
Hoamunich trích đăng bài báo sau đây để độc giả suy ngẫm thân phận của người Việt Nam 36 năm trước:
Bài của nhật báo Đức DIE WELT, một trong các báo hàng đầu ở Đức, trong số báo ra ngày 20.06.2015 do nhà báo Ulli Kulke viết về phe thiên tả, thiên Cộng Sản Tây phương trong cuộc chiến Việt Nam.
Vào những năm cuối của thập niên 1970 khi hằng trăm ngàn người Việt Nam đã liều mình vượt biển tìm tự do thì những người thiên tả ở Tây phương đã lạnh lùng tuyên bố: Những người này đáng tội thôi. Đừng ra tay giúp họ!
Tuyên bố này của phe tả vô nhân không tưởng tượng được. Năm 1979, Joan Baez nữ ca sĩ Mỹ nổi tiếng tranh đấu cho nhân quyền, chống kỳ thị chủng tộc và nhất là phản chiến, đã thỉnh cầu Tổng thống Jimmy Carter hãy cho hạm đội thứ bẩy của hải quân Hoa Kỳ di chuyển đến Biển Đông. Lúc bấy giờ mỗi ngày có hằng trăm người bị chết đuối, đôi khi đến hằng ngàn người. TT Carter hưởng ứng lời kêu gọi và gửi hạm đội lớn nhất trong các hạm đội đến nơi mà thần tượng hòa bình Joan Baez mong muốn. Jane Fonda, minh tinh Hollywood và cảm tình viên của phe thiên tả lên tiếng phản đối kịch liệt và thóa mạ Baez bắt tay với phe địch.
Việc Tổng thống Carter gửi tàu đến đó chỉ là một công tác cứu người và cũng chỉ cho một thời gian ngắn mà thôi. 1979 là cao điểm của một thảm trạng trên biển khơi chưa từng có ở Viễn Đông, từ 1975 sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc và kéo dài cho đến năm 1982. Đến nay chỉ có những con số phỏng chừng, nhưng khoảng 1 triệu người đã vượt biển trong thời gian này.
Nơi quê nhà ở miền Nam Việt Nam, họ bị đe dọa cưỡng bách lao động, bị giam trong các trại cải tạo, các trại tù tra tấn mà sau khi chiến thắng Miền Bắc dựng lên để trừng trị kẻ thù thua trận. Hai triệu rưởi người đã bị hành hạ ở đó. Trong số những người dám chạy trốn và vượt thoát ra biển, cứ 4 hay 5 người thì một người bỏ mình trên biển cả, tổng cộng số thiệt mạng trong 7 năm lên đến khoảng 200.000 đến 250.000 người. Cũng không ít hơn con số này là nhiều thuyền nhân đã bị hải tặc tấn công, cướp bóc, hãm hiếp, bắt cóc, bán người, trước hết là phụ nữ và trẻ con.
Hình ảnh thời đó cũng không khác gì những hình ảnh mà chúng ta thấy ngày nay từ thảm trạng thuyền nhân ở Địa Trung Hải: những chiếc thuyền không đủ tiêu chuẩn đi biển, chở người quá tải, người bị đắm tàu, những thuyền nhân tuyệt vọng, xác người trôi trên biển. Điều mà hình ảnh không diễn tả được là: Thảm trạng thuyền nhân thời đó còn khủng khiếp gấp 10 lần bây giờ.
Vậy mà nỗi bức xúc của dư luận thế giới và các nỗ lực cứu người vào lúc đó chỉ có giới hạn. Người tị nạn thường xuyên xuất hiện trong những tin tức buổi tối [2] và chẳng bao lâu họ được gọi bằng một tên mới: “Thuyền nhân”. Và trong các cuộc tranh luận về thuyền nhân đã dần dần có xen vào nhiều giọng điệu chà đạp con người, cả ở Tây Đức nữa.
Từ phía phe tả, những người đã ăn mừng miền Bắc CS chiến thắng miền Nam được Hoa Kỳ yểm trợ, đã có những phát biểu mà người ta chỉ có thể hiểu như thế này: Mọi người đừng thèm để ý đến những thuyền nhân lâm nạn trên biển. Tạp chí “Konkret”, rất phổ biến trong dư luận phe tả đánh giá thuyền nhân là những phần tử không xứng đáng được cứu vớt: “Dân buôn lậu, ma cô, tay sai cho Mỹ”.
Đáng lưu ý là tạp chí này dựa vào tường trình của một thông tín viên đài truyền hình ARD ở Singapore, người này đã phỏng vấn 470 thuyền nhân và kết luận, hầu hết động cơ vượt biên là kinh tế chứ tuyệt nhiên không vì lý do chính trị. Không để ý các thăm dò vừa kể đúng hay sai: Ngày nay, các cơ quan truyền thông, nhất là giới truyền thông công cộng cố tránh hết sức và không hề đề cập đến sự phân biệt này – đây chính là sự khác biệt nổi bật so với thời điểm năm 1979.
Đối với nhà văn Peter Weiss (“Khía cạnh mỹ thuật của sự chống đối”) không những ông không tỏ chút thương hại nào với những người bị đắm thuyền, ông còn bày tỏ cảm tình với việc CS Việt Nam áp bức người ở lại: “Để bảo vệ đời sống của 50 triệu người thì phải giam vài chục ngàn người có nguy hại cho đất nước”. Trong nước Việt Nam mới theo Xã Hội Chủ Nghĩa hẳn là mọi người đều phải lao động.
Nhật báo „Sinh viên Mác xít“ (MSZ) còn cãi là không có vấn đề thuyền nhân, chỉ là chuyện được thổi phồng lên: „Thuyền nhân được dùng trong những ngày này để tính sổ với nhà cầm quyền mới”, là một chiến dịch trên toàn thế giới vận động nhằm chống lại chủ nghĩa Cộng sản. „Konkret“, „MSZ“ và các báo khác coi vấn đề thuyền nhân là chuyện được được báo „Bild“ dựng đứng lên, hoặc của „Đài Tiếng nói Hoa Kỳ“.
Nhất là Weiss, do thái độ của ông đã thành đối tượng bị chính người phe tả chỉ trích nặng nề. Nhà khoa học chính trị Wolf-Dieter Narr tố cáo ông ta „đầy mỉa mai“, theo nhà văn Thụy điển Jan Myrdal, Weiss tuyên truyền cho một „xã hội phát xít“, và nhật báo „taz“ đã đăng 1 bài thơ chống Weiss lên trang nhất.
Mức độ sẵn sàng đón nhận thuyền nhân Việt Nam vào nước Đức có giới hạn. Ký giả tiến sỹ Rupert Neudeck phải nhận ra điều đó vào năm 1979 khi ông vận động cho chương trình con tàu Cap Anamur nhằm cứu vớt thuyền nhân bị nạn trước bờ biển Việt Nam, với sự hỗ trợ của một vài người có tên tuổi trong làng văn học và giới chính trị Đức như Heinrich Böll hoặc Norbert Blüm. Chính phủ liên đảng xã hội-tự do dưới quyền thủ tướng Helmut Schmidt không bằng lòng chút nào, khi con tàu „Cap Anamur“ của ông Neudeck không những cứu vớt thuyền nhân mà còn đưa nhiều người này vào nước Đức.
Thủ tướng tiểu bang Hessen đương thời Holger Boerner (SPD) nói rằng „để cho người Việt Nam sống trong môi trường văn hoá quen thuộc của họ“ thì tốt hơn. Nhà thần học Helmut Gollwitzer kêu gọi ông Neudeck nên làm cái gì đó tại Việt Nam tốt hơn là cứu vớt thuyền nhân. “Cho đến mùa thu năm 1988 Việt Nam không cho phép chúng tôi làm gì ở đó cả“, ông Neudeck đã than phiền thái độ của Gollwitzer qua bài viết trong một cuốn sách.
Với lý luận rằng các chuyến cứu vớt thuyền nhân của ông Neudeck chỉ khuyến khích thêm người Việt liều lĩnh vượt biển trên những chiếc thuyền quá tải, chính quyền liên bang và tiểu bang đã tìm cách ngăn chận công tác cứu người của ông. Số thuyền nhân được nhận vào nước Đức chỉ có chừng vài ngàn. Sự can thiệp hết lòng của nguyên thủ hiến tiểu bang Niedersachsen, ông Ernst Albrecht (CDU), người đã nhận nhiều người Việt Nam vào nước Đức, đã đem lại một chính sách tị nạn cởi mở hơn sau đó.
Ở Hoa Kỳ, thuyền nhân VN cũng là đề tài tranh luận hết sức sôi nổi, cuộc tranh cãi giữa Joan Baez và Jane Fonda kéo dài nhiều tuần lễ trên các tạp chí Hoa Kỳ. Joan Baez bày tỏ sự cảm thông với thuyền nhân, trong một thư ngỏ bà đã phê bình gay gắt chính quyền VN. Sau chiến tranh Fonda vẫn hoàn toàn đứng về phía Hà Nội, chống lại Joan Baez dữ dội. Mặt trận thuần nhất của phong trào phản chiến VN bị tan vỡ. Vì vấn đề thuyền nhân.
Dr. Trần Huê chuyển dịch
Tưởng niệm sắp đến 100 ngày LS Nguyễn Xuân Phước qua đời, chúng tôi đăng lại bài viết của Phước
Kỳ thị: kinh nghiệm của người Việt tỵ nạn
Khi người Việt tỵ nạn Cộng Sản đến Mỹ năm 1975 thì xã hội Mỹ vừa mới được ổn định sau thời kỳ tranh đấu đòi dân quyền của người Mỹ gốc Phi châu, mà ta thường gọi là người da đen. Nhờ công cuộc đấu tranh dân quyền đó ở thập niên 1960s mà người Việt đến Mỹ được đối xử bình đẳng, ít ra trên pháp luật. Người Việt không phải đi toilet riêng dành cho người da màu ở nơi công cộng; đi xe bus không phải ngồi băng ghế sau để nhường ghế trước cho người da trắng; đi ăn nhà hàng không phải đi cửa dành cho người da màu; và đi học cũng được nâng đỡ với những tiêu chuẩn thấp hơn người da trắng v.v…
Thế nhưng sau khi ở Mỹ một thời gian nhiều người vẫn cảm thấy bị kỳ thị. Có người than phiền ông hàng xóm Mỹ trắng hay làm khó dễ, hay gọi cảnh sát than phiền chuyện nầy chuyện nọ gây rắc rối. Hoặc ở hãng hay bị supervisor đì, cho làm việc nặng nhọc, cho nghỉ việc cách vô lý, thiên vị người da trắng v.v…
Có một số vấn đề gây cho người Việt cảm giác bị kỳ thị. Khi người Việt mới đến sống ở nước Mỹ vẫn chưa quen tập tục mới như vẫn mặc bộ đồ ngủ (pajama) đi ngoài đường trong khu xóm, ăn to nói lớn, nhậu nhẹt tưng bừng ồn ào vào buổi tối, làm cho hàng xóm khó chịu. Tuy nhiên khi sống chung đụng lối xóm, có những người hàng xóm lúc nào cũng khó chịu với tất cả mọi người bất kể màu da, làm cho chúng ta có cảm giác bị kỳ thị. Những cảm giác bị kỳ thị vơi dần khi chúng ta làm quen được với lối sống và hòa nhập được vào chính mạch của cộng đồng Hoa Kỳ.
Cảm giác kỳ thị đó khi so sánh với cuộc chiến đấu chống kỳ thị thật sự của người Việt tị nạn khi mới đến Mỹ, thì chúng ta sẽ thấy một số cảm giác bị kỳ thị là do sự mâu thuẫn cá tính giữa người với người nhiều hơn là kỳ thị thật sự vì lý do màu da.
Lịch sử tị nạn đã ghi nhận cuộc đấu tranh chống kỳ thị kinh hoàng nhất của người Việt đánh tôm vùng vịnh Galveston, Texas.
Sau năm 1975, một số người tị nạn Việt Nam đã tìm đến vịnh Galveston để làm nghề đánh tôm. Tôm lúc bấy giờ là mặt hàng hải sản có giá trị cao. Những người đánh tôm thành công và trở nên giàu có. Nhiều người Việt, nhất là những người có nghề tôm tại Việt Nam trước đây, kéo nhau về vịnh Galveston để làm ăn khiến cho con số tàu đánh tôm gia tăng nhanh chóng. Những người da trắng làm nghề đánh tôm lâu năm cảm thấy nồi cơm của họ bị đám lưu dân lấy mất và mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh.
Vào tháng 8 năm 1979, ông Nguyễn Văn Sáu, 21 tuổi, hớt hải chạy đến bót cảnh sát ở thành phố Port Arthur thú tội: “Tôi vừa mới giết người.” Ông Sáu nói với cảnh sát là ông vừa mới giết Billy Joe Aplin, 35 tuổi. Sáu và Billy Joe đều đánh tôm cua ở Seadrift, một thành phố nhỏ ở vịnh Galveston, Texas có dân số khoảng 1,250 người. Cả hai có những mâu thuẫn gay gắt vì tranh giành vùng đánh tôm, cua. (Hình Ng.X.Phước đứng thứ 3 từ trái sang)
Billy Joe cao 6ft1, nổi tiếng ưa đánh lộn và gây hấn với người khác, và lúc nào cũng mang súng trong xe. Từ 2 năm trước, người Việt đánh tôm cua ở đây than phiền bị Billy Joe và những người da trắng khác sách nhiễu. Họ bị đe doạ, tấn công, đánh đập, và họ bị trộm bẫy cua thường xuyên. Tàu đánh tôm của họ cũng bị phá hại. Họ biết Billy Joe là đầu sỏ. Họ thưa cảnh sát, nhưng cảnh sát không làm gì để bảo vệ họ.
Trong khi đó, những người da trắng than phiền là vùng đánh tôm cua của họ bị người Việt xâm chiếm. Và người Việt cũng đe dọa Billy Joe và vợ ông ta.
Vào ngày 3 tháng 8 năm 1979, khi Sáu sửa soạn kéo tàu mới mua ra khỏi nước thì Billy Joe xuất hiện. Billy Joe đạp lên tay của Sáu khi Sáu đang để tay ở chỗ móc trailer. Billy Joe nói với Sáu: “Nếu đám người Việt chúng mầy không đi ra khỏi Seadrift thì tao sẽ cắt cổ mầy.” Sáu, đang ở trần, bỏ chạy và bị Billy Joe rượt theo chém hai nhát dao vào ngực. Sáu và người em là Chinh chạy vào nhà người bạn mượn khẩu súng. Sau đó Sáu và Chinh trở lại bến tàu. Billy Joe vẫn còn đó. Vừa thấy Sáu, Billy Joe nhảy bổ đến tấn công và vật Sáu ngã xuống đất. Sáu rút súng trong quần lảy cò. Một viên đạn bắn trúng vào ngực Billy Joe, Billy Joe chới với kêu lên “No, man”, rồi rơi xuống nước, và một viên khác bắn trúng vào người khi Billy Joe ở dưới nước. Billy Joe chết liền tại chỗ.
Sau khi Billy Joe bị giết, mâu thuẫn giữa người Việt và người da trắng gia tăng. Trong khoảng thời gian ngắn sau đó, 4 tàu đánh tôm của người Việt bị đốt cháy. Một căn nhà của người Việt bị đánh bom.
Daniel Aplin, em trai của Billy Joe, tuyên bố “Seadrift đang biến thành nồi thuốc súng.”
Thành phố Seadrift phải ban hành lệnh giới nghiêm từ 9:00 giờ tối. Vì cảnh sát không giải quyết những khiếu nại của người Việt nên người Việt cho rằng khi mâu thuẫn với người da trắng bộc phát, người Việt sẽ bị tàn sát. Hàng trăm người Việt sinh sống tại Seadrift bỏ chạy qua Houston hay Louisiana. Thiếu nhân viên làm việc, hãng đóng cua hộp ở Seadrift phải đóng cửa.
Tuần sau đó, 3 người Mỹ trắng bị bắt ở một motel thuộc thành phố Seadrift vì mang thuốc nổ dùng để đánh bom nhà người Việt. Người mật báo cho cảnh sát để bắt khủng bố là B.T. Aplin, em của Billy Joe. Sự thể em trai Billy Joe làm việc với cảnh sát để bảo vệ người Việt làm cho tình hình lắng dịu và người Việt dần dần trở lại Seadrift.
Tuy nhiên người Việt vẫn tiếp tục bị kỳ thị. Các bến tàu ở Seadrift không cho người Việt đậu bến. Các nhà buôn sỉ không mua tôm của người Việt. Những nhà buôn sỉ mà mua tôm của người Việt bị những người da trắng khác tẩy chay.
Chính quyền liên bang và giáo hội Công Giáo phải nhảy vào can thiệp.
Trước đấy, tại Louisiana người Việt đánh tôm cũng bị kỳ thị. Nhờ công đức của Tổng giám mục Philip Harman, hàng ngàn người Việt được yên ổn làm ăn. Đức Tổng giám mục phạt vạ tuyệt thông một người đầu sỏ kỳ thị tại Louisiana không cho người Việt đậu bến. Tinh thần trợ giúp của Đức Tổng giám mục Harman làm cho người da trắng phải chấp nhận người Việt. Và hoà bình đã vãn hồi để người Việt được định cư và làm ăn.
Khi đại diện bộ tư pháp Hoa Kỳ đến Seadrift thì biết là mâu thuẫn giữa người Việt và người da trắng là do thiếu người phiên dịch để tạo sự hiểu biết nhau. Giáo hội Công Giáo liền cung cấp một người thông dịch viên. Tòa giám mục sau đó cử một linh mục và một phụ tá đến Seadrift để hòa giải giữa người Việt và người da trắng. Tình hình tưởng như đã lắng dịu. Nhưng không…
Ngày 2 tháng 11 năm 1979, Nguyễn Văn Sáu được toà án tha bổng về tội giết người vì toà cho rằng hành vi giết người của ông là sự tự vệ chính đáng. Nguyễn Văn Chinh, em ông Sáu, cũng được tha bổng về tội tòng phạm. Cả hai sau đó rời khỏi Seadrift.
Sáu và Chinh đã ra đi. Nhưng kết thúc phiên toà xử Nguyễn Văn Sáu gây nên làn sóng bất mãn nơi người da trắng. Cuối tháng 11 năm 1979, tổ chức kỳ thị nổi tiếng của Mỹ là KKK nhảy vào vòng chiến và bắt đầu một cuộc chiến kỳ thị chủng tộc đầu tiên giữa người Việt tị nạn và tổ chức KKK.
Đối Phó với KKK
1_ KKK là viết tắt chữ Ku Klux Klan, là một tổ chức kỳ thị chủng tộc cực hữu bí mật của người Mỹ gốc da trắng được thành lập trong thời Chiến Tranh Nam Bắc (1860-1865). Theo giải thích của tự điển mạng, chữ Ku Klux trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là vòng tròn, và chữ Klan có nghĩa là bộ tộc, ý nghĩa thông thường KKK có nghĩa là một tổ chức huynh đệ của người da trắng.
KKK chủ trương chủng tộc da trắng ưu việt và coi người da màu là thấp hèn. Khi Tổng Thống Lincoln tuyên bố giải phóng nô lệ sau cuộc chiến Nam Bắc, những người chủ trương nô lệ miền Nam Hoa Kỳ đã thành lập tổ chức KKK để bảo vệ dòng máu ưu việt của người da trắng. KKK chủ trương dùng bạo lực để hạn chế sự tiến thân của người da màu trong xã hội. Họ cho rằng Hoa Kỳ là một đất nước được Chúa Trời ban cho người da trắng và họ có nhiệm vụ bảo vệ đất nước nầy trước những làn sóng di cư của người Châu Phi và Châu Á.
Trong thời kỳ đấu tranh dân quyền của mục sư Martin Luther King ở thập niên 1960s, KKK đã tổ chức những lễ đốt thánh giá như là một dấu hiệu của sự tuyên chiến, và đánh bom vào nhà của các lãnh tụ dân quyền da đen. Một số lãnh tụ da đen, kể cả MS King, đã bị ám sát trong thời kỳ nầy. Hầu như những vụ ám sát nầy đều có bàn tay của KKK đứng đàng sau.
Từ năm 1871, KKK đã được chính quyền liên bang liệt danh sách các tổ chức khủng bố. Tuy nhiên họ vẫn tồn tại tại các tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ. Sự phát triển của KKK cũng rất thăng trầm. Đầu Thế kỷ thứ 20 KKK có khoảng 6 triệu hội viên. Nhưng đến ngày hôm nay con số hội viên xuống còn khoảng 6000 trên toàn nưóc Mỹ.
Cách tổ chức của KKK là một hội kín như Thiên Địa Hội trong tiểu thuyết Kim Dung. Người đứng đầu là một Hội Chủ (Grand Dragon – Đại Long) và họ có những thuộc hạ tay chân đặc trách từng vùng, từng miền tương tự như những hương chủ hay đàn chủ của Thiên Địa Hội.
2_ Ngày 2 tháng 11 năm 1979, Nguyễn Văn Sáu và Nguyễn Văn Chính được toà tha bổng vì lý do giết người để tự vệ chính đáng. Sau đó cả Sáu và Chính đều dọn ra khỏi Seadrift.
Cuối tháng 11 năm 1979, tổ chức KKK nạp đơn với thành phố xin phép cho 600 người biểu tình chống người Việt tị nạn tại thành phố nhỏ bé nầy. Con số 600 hội viên KKK dự định tham gia biểu tình bằng 1/2 dân số của thành phố Seadrift. Hội đồng thành phố họp và ý kiến phản đối KKK được thành phố hoan nghinh. Kết quả là thành phố đã bác đơn xin biểu tình của KKK.
Sau đó, cha của Billy Joe Aplin, người bị Nguyễn Văn Chính bắn chết, tuyên bố là ông ta không mời KKK đến Seadrift. Tuy nhiên ông nói… “Tôi sẽ rất hãnh diện nếu họ vì chúng tôi mà đến để chận đứng làn sóng người Á Châu đến thành phố nầy.”
Những người da màu tại Seadrift, gồm người Việt và người Mễ, nghe sự xuất hiện của KKK bắt đầu cảm thấy tình hình sẽ trở nên nghiêm trọng hơn và bắt đầu di cư ra khỏi Seadrift.
Sau khi bị từ chối cuộc biểu tình tại Seadrift, KKK bắt đầu kế hoạch xâm nhập vùng biển Galveston.
Sau 18 tháng KKK đã thiết lập được đường dây hoạt động tại đây. Tháng 2 năm 1981, nhân ngày lễ Valentine, KKK đã tổ chức buổi meeting tại thành phố Santa Fe, là một thành phố toàn người da trắng ở vùng Galveston với hơn 150 hội viên gồm đàn ông, đàn bà và trẻ em mặc đồng phục KKK với áo choàng trắng đội mũ vải có chóp. Thủ lĩnh KKK tại Texas, ông Louis Beam tuyên bố: “Thời điểm đã đến để chúng ta giành lại đất nước nầy cho người da trắng”. Ông nói tiếp: “Nếu chúng ta muốn, chúng ta sẽ giành lại đất nước nầy bằng phương cách các tổ phụ chúng ta đã làm: đó là máu máu và máu”.
Beam tuyên bố là sẽ cho chính phủ Hoa Kỳ 90 ngày để cưỡng chế người Việt không được đánh tôm ở vùng Vịnh Galveston. Nếu không KKK và những người đánh tôm da trắng sẽ tự thi hành việc cưỡng chế nầy. Beam nói tiếp là sẽ cho thành lập lực lượng dân quân được huấn luyện chiến đấu tại trại huấn luyện dân quân của KKK. Sau đó, Beam tự tay đốt một tàu đánh cá điển hình mà ông đặt tên là “USS Vietcong” và nói “đây là cách đốt tàu đánh cá đúng nhất”.
Những tuần lễ tiếp theo KKK bắt đầu rải truyền đơn kêu gọi chống người Việt đánh tôm ở vùng vịnh Galveston và bắt đầu giai đoạn khủng bố. Hiện tượng đốt thánh giá như là dấu hiệu khai chiến của KKK tại nhà người Việt trong khu vực xuất hiện khắp nơi. Hai tàu đánh cá của người Việt bị đốt tại thành phố Seabrook. Ngày 15 tháng 3 lực lượng dân quân KKK diễn hành trên tàu đánh cá với hình nộm người Việt bị treo cổ để cho mọi người được thấy.
“They Cannot Mess With Vietnamese…”
Khẩu hiệu của tiểu bang Texas là “Don’t Mess with Texas” như một lời khuyến cáo khách du lịch đừng lộn xộn với tiểu bang Texas vì hậu quả không lường được. Qua kinh nghiệm của người Việt đấu tranh chống KKK tại vùng Vịnh Galveston thì người Mỹ cũng có câu nói tương tự để nhắn với tổ chức KKK… Đừng lộn xộn với người Việt Nam.
Trong thời gian KKK bắt đầu gây sự và gây chiến thì cộng đồng người Việt cũng không ngồi yên. Khi một người đàn bà làm việc cho nhà hàng Mỹ nghe hội viên KKK bàn kế hoạch đánh bom tàu đánh cá của người Việt thì bà đã báo cho chồng, và chồng báo cho cộng đồng người Việt. Họ bắt đầu tổ chức vũ trang chống lại sự uy hiếp của KKK và cộng đồng đánh tôm người da trắng. Khi KKK bao vây một trailer park của người Việt thì người Việt đã chống trả quyết liệt.
Một thành viên của KKK từng tham chiến ở Việt Nam nói với lãnh đạo KKK rằng “Đừng lộn xộn với người Việt vì họ sẽ bắn và giết quý vị”. Và do đó, KKK bắt đầu rút lui.
Theo một giáo sư tại Texas nghiên cứu tình hình lúc bấy giờ, một người đánh tôm da trắng tham gia vụ đốt tàu của người Việt đã bị người Việt đó đến nhà đòi quyết tử với ông ta. Người đánh tôm da trắng đó cuối cùng phải dọn đi nơi khác vì sợ hãi.
Ông Khang Bùi, một cư dân tại vùng vịnh Galveston, nói với phóng viên báo chí rằng KKK đã không hiểu được người Việt là những người đã sống trong chiến tranh, họ biết dùng súng đạn để đối phó và bắn trả lại KKK. Ông ta nói tiếp… sau khi KKK nhận thức được việc dùng bạo lực để khủng bố tinh thần người Việt là vô ích, họ đã âm thầm ra đi và không còn người da trắng nào lộn xộn với người Việt.
Cuộc Chiến Pháp Lý
Tháng 4 năm 1981 Hội Ngư Phủ Người Việt cùng với Southern Poverty Law Center tại Montgomery Alabama nạp đơn kiện KKK vì cạnh tranh thương mãi không công bằng. Tháng 5 năm 1981 bà Gabrielle Kirk McDonald, vị quan tòa liên bang đầu tiên của người da đen quyết định thuận lợi cho người Việt Nam và ra lệnh cấm chỉ hoạt động của KKK tại vùng vịnh; và đóng cửa trung tâm huấn luyện dân quân và các tổ chức võ trang của họ.
Được đánh tôm với sự bảo vệ của chính quyền liên bang, người Việt dần dần ổn định và thành công. Từ những căn nhà trong khu trailer chật hẹp tối tăm, ngày nay người Việt dọn vào những biệt thự nguy nga đồ sộ. Người Việt làm chủ hầu hết các bến tàu tại Galveston; và tại Port Arthur, Texas ngày nay 95% ngư dân đánh tôm là người Việt.
Kinh nghiệm cuộc chiến chống kỳ thị tại vùng vịnh Galveston, Texas đã được làm thành phim Alamo Bay.
Ls Nguyễn Xuân Phước