Trong cuốn sách Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng (Nhà xuất bản Giấy Vụn, 2014), nhà nghiên cứu Ngô Thế Vinh đã báo động hai mối họa nước Việt Nam phải đối đầu. Chuyện Biển Đông dậy sóng ai cũng biết nhờ tin tức thời sự mỗi ngày. Ít người Việt theo dõi mối họa thứ hai là “Cửu Long Cạn Dòng.”
Ký giả Navin Singh Khadka, chuyên trách các vấn đề môi trường sống của BBC mới viết một bài mới, báo động tình trạng đồng bằng sông Cửu Long nước ta đang gặp nạn; tai họa không những gây ra do các đập nước của Trung Quốc ở đầu nguồn sông Mekong mà còn vì hành động của chính người Việt Nam, trong lúc chính quyền hoặc làm ngơ không chú ý, hoặc bất lực không làm gì được.
Khi cộng sản Trung Quốc cho xây các đập thủy điện ngăn nước từ đầu nguồn sông Mekong, rồi các nước Lào, Thái Lan, Campuchia cũng đua theo, số lượng nước chảy xuống sông Cửu Long ở nước ta đã giảm bớt. Vì sức nước sông chảy yếu đi, nước biển đã dâng lên, tràn vào trong đất liền.
Hiện nay mỗi năm Đồng bằng sông Cửu Long đã bị nước biển liếm mất 500 mẫu tây (năm cây số vuông). Theo Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam thì trong năm ngoái số ruộng lúa bị nước biển tràn và thấm vào còn rộng hơn nữa, mất 60 cây số vuông không thể trồng trọt. Theo các nghiên cứu khoa học của Ủy ban Sông Cửu Long, một tổ chức của bốn nước Việt Nam, Thái Lan, Lào và Campuchia, với tốc độ nước biển xâm nhập hiện nay, tới cuối thể kỷ này vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ mất gần một nửa (40%) đất có thể trồng trọt, vì mực nước biển sẽ lên cao thêm cả thước.
Nhưng không cần phải đợi tới cuối thế kỷ đồng bào ta mới phải chịu tai họa. Ông Lê Anh Tuấn, thuộcViện Nghiên cứu Biến đổi Khí Hậu tại Đại học Cần Thơ, vì nước biển dâng lên, gần một nửa số dân sống trong vùng sông Cửu Long đang thiếu nước ngọt để sử dụng. Nước biển xâm lấn khiến những con đê ngăn nước mặn cũng hư không còn hiệu lực nữa. Tại vùng ven biển, nước mặn đã vào sâu thêm 60 cây số trong đất liền. Một số nhà vườn trồng xoài đã ngưng hoạt động, vì cây xoài chỉ sống được nếu nước mặn mỗi năm lên cao dưới 1.6 mi li mét; mà hiện nay mức dâng cao đã gấp ba lần (5 mi li mét). Nhiều nhà nông trồng lúa đã phải bỏ, quay sang nghề nuôi tôm. Theo nghiên cứu của ủy ban sông Mekong, hiện nay số đất phù sa bồi đắp lên vùng châu thổ sông Mekong đã giảm bớt 85 triệu tấn so với năm 1992.
Đầu mối tai họa này là chính sách khai thác điện lực và dẫn thủy nhập điền của chính quyền cộng sản Trung Quốc. Sông Mekong, tại Trung Quốc mang tên là Lan Thương (Lancang, 澜沧) chảy qua Tây Tạng và các tỉnh Thanh Hải, Vân Nam trước khi đổ xuống phía Nam. Theo tạp chí World Rivers Review của cơ quan Sông Quốc tế (International Rivers, IR), thì vào năm 2014 Trung Cộng đã xây dựng bẩy đập thủy điện lớn ở đầu nguồn sông Mekong thuộc nước Tàu, con sông phát nguyên từ Tây Tạng chảy xuống Biển Đông nước ta. Họ sẽ xây thêm 21 đập ngăn nước lớn khác trong 10 năm tới. Các nước hạ nguồn cũng bắt chước xây các đập nước khác; với dự án xây 11 con đập nữa.
Việc xây đập ảnh hưởng trên đời sống của các dân tộc phía dưới nguồn sông. Vào mùa không mưa, dân chúng hai bên bờ sông ở Lào, Thái Lan, phải dùng nước sông để tưới ruộng vườn, nay số lượng nước bị giảm. Khí hậu hai bên bờ sông cũng thay đổi vì khối lượng nước trong con sông có tác dụng giúp nhiệt độ ôn hòa, ít lên xuống hơn. Vì nhiệt độ thay đổi, đời sống các giống cá trong lòng sông cũng bị ảnh hưởng. Nhưng tai họa lớn nhất là nước biển lấn dần vào đất liền thì chỉ dân Việt ở đồng bằng sông Cửu Long gánh chịu. Đập Don Sahong đang xây ở Hạ Lào, nhằm cung cấp điện cho Lào và Thái Lan sẽ ảnh hưởng lớn trên đời sống dân Campuchia và miền Nam Việt Nam.
Trong cuốn sách biên khảo viết dưới hình thức vừa tiểu thuyết vừa ký sự, Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng, Bác sĩ Ngô Thế Vinh đã mô tả hành động của chính quyền Trung Quốc: “Vào tháng Tư năm 2001, Trung Quốc đã ký một thỏa hiệp về thủy vận trên sông Cửu Long nhưng chỉ với 3 quốc gia Miến Điện, Thái và Lào với kế hoạch vét lòng sông, cả dùng cốt mìn chất nổ phá tung những khối đá trên các đoạn ghềnh thác, các đảo nhỏ trên sông để khai thông mở rộng đường sông cho tàu lớn trọng tải từ 500-700 tấn có thể di chuyển từ cảng Tư Mao xuống Chiang Khong Chiang Sean bắc Thái xuống thẳng tới Vạn Tượng. Trong khi Việt Nam và Cam Bốt là hai quốc gia cuối nguồn, trực tiếp chịu ảnh hưởng của kế hoạch ấy thì bị gạt ra ngoài.”
Sau các tai nạn do các đập nước gây ra, mối họa thứ hai là các công trường khai thác cát. Mỗi năm hàng triệu mét khối cát được đào đem đi trong vùng hạ nguyên sông Cửu Long; nhiều nhất là ở Campuchia và Việt Nam. Quỹ Thế giới Bảo vệ Thiên nhiên (World Wide Fund for Nature, WWF) cho biết riêng tại đồng bằng Sông Cửu Long nước ta có 150 công trường đào lấy cát, trải ra trong 13 tỉnh, tổng cộng rộng 80 cây số vuông. Các công trường cát này đã được nhà nước cấp giấy phép. Trong năm năm nữa, các công trình xây cất sẽ cần đến một tỷ mét khối cát; làm giảm bớt số ruộng đất trồng trọt.
Các tổ chức bảo vệ môi trường đã báo động và cảnh cáo chính quyền Việt Nam về tai hại của việc cho phép các công trường đào cát hoạt động mà không nghiên cứu các ảnh hưởng sâu xa. Chính quyền biết các mối tai hại đó nhưng không làm gì cả. Khi được lệnh từ cấp trên, các địa phương từ chối thi hành vì lý do không thể bồi thường thiệt hại cho các công ty đã cấp giấy phép. Trong vấn đề này chưa có luật lệ nào bảo vệ môi trường sống của mấy chục triệu người dân. Mà khi luật lệ không đầy đủ, không rõ ràng thì người ta càng có thêm cơ hội tham nhũng!
Ngoài nạn lấy cát không có kế hoạch toàn bộ, chính quyền còn đang thực hiện những công trình “vét bùn” nới rộng lòng sông ở các khúc chi lưu nhỏ, thay đổi đời sống dân hai bên bờ. Nhiều con sông phụ sâu dưới 5 mét không cho phép các tàu thủy lớn qua lại. Việc vét bùn sẽ mở rộng đường giao thông nhưng không có kế hoạch củng cố bờ sông cho vững chắc hơn; một hậu quả là sóng lớn xô vào làm bờ sông bị lở và đất ruộng bị thu hẹp.
Hiểm họa của người dân vùng đồng bằng Sông Cửu Long còn tiếp diễn, vì một mặt, chính quyền Việt Nam không dám phản đối Trung Cộng trong việc xây dựng các đập thủy điện bất chấp ảnh hưởng tới các nước phía dưới, mặt khác vì chính quyền tham lam ăn hối lộ không quan tâm nghiên cứu và kiểm soát việc khai thác cát trong vùng sông chảy qua.
Chỉ khi nào Việt Nam có một chính quyền không lệ thuộc Cộng sản Trung Quốc, nước ta mới có tiếng nói mạnh mẽ để cùng các nước trong vùng sông Mekong ngăn chặn việc Trung Cộng xây đập nước mà không tham khảo ý kiến các nước lân cận.
Chỉ khi nào Việt Nam có một guồng máy nhà nước do người dân bỏ phiếu bầu, biết lo cho dân thay vì chỉ lo tranh giành chức vụ để mưu lợi cho bản thân và gia đình thì đồng bào sống trong vùng đồng bằng Sông Cửu Long mới thoát khỏi mối hiểm họa đang đe dọa.