Là một phụ nữ thuộc vào một gia đình còn mang nặng tập quán
cổ truyền, tôi biết vị trí quan trọng hàng đầu của tôi là cái bếp và gia đình.
Không bao giờ tôi có tham vọng muốn vượt ra khỏi vị trí đó. Nhưng hoàn cảnh đã
đưa đẩy tôi và nội tâm đã thôi thúc tôi cho nên tôi phải viết ra những suy tư,
những cảm nhận, những ray rứt cũng như những trăn trở của người phụ nữ Việt-Nam
trong thời chiến và sau cuộc chiến.
Trong thời chiến, nếu thanh niên Việt-Nam đã hy sinh tuổi
trẻ, hay một phần cơ thể, hoặc chính mạng sống của họ thì phụ nữ Viêt-Nam cũng
góp phần vào sự hy sinh đó bằng trái tim héo mòn và sự hy sinh bền bỉ; bởi vì,
khi một người Lính gục ngã ngoài chiến địa thì một nơi chốn nào đó, trái tim
của một phụ nữ – có thể là của Mẹ, của em gái, của người tình hay của người vợ
– cũng nát tan!
Và sau cuộc chiến, người phụ nữ Việt-Nam cũng đã bị vùi dập
dưới mọi hình thức, vì chồng và Cha đều bị tù đày!
Vì đã thấy được những gì Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa phải
trực diện, tôi hiểu rằng: Không có bút mực nào và cũng không có nhà văn nào đủ
khả năng để viết cho hết sự tàn bạo của chiến tranh, sự phi nhân của cuộc
chiến, cùng với sự chiến đấu can cường, liều lĩnh đến độ phi thường của Người
Lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Khi bị xâm lăng, Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa chống trả
mãnh liệt. Nhưng khi tiếng súng dứt rồi, Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa trở về
với bản chất bao dung, độ lượng của mình.
Thật vậy! Không biết bao nhiêu lần tim tôi đã mềm đi khi
thấy anh y tá Việt-Nam Cộng-Hòa trao cho anh tù binh Việt-Cộng mấy viên thuốc
kiết lỵ; hoặc khi anh y tá Việt-Nam Cộng-Hòa băng bó vết thương và chích thuốc
cầm máu cho anh tù binh Việt-Cộng. Tôi cũng đã bồi hồi xúc động trước cảnh
Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa mồi sẵn điếu thuốc quân tiếp vụ rồi gắn vào môi
anh tù binh thuộc bộ đội miền Bắc xâm nhập hoặc anh du kích Mặt-Trận Giải-Phóng
Miền Nam.
Nhưng rồi niềm xúc động trong tôi bỗng biến thành phẫn nộ
khi tôi thấy nơi bãi đáp dã chiến hay là nơi đoàn giang đỉnh đang ủi bãi, từng
cơ thể bê bết máu của Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa đang được chuyển lên trực
thăng hoặc lên mấy chiếc giang-tốc-đỉnh để tải thương.
Không biết bao nhiêu lần tôi đã khóc khi nhìn theo mấy chiếc
giang đỉnh chở đầy xác người mà quân phục của họ là quân phục của Người Lính
Việt-Nam Cộng-Hòa! Cũng không biết bao nhiêu lần tôi đã kinh hãi và đớn đau khi
thấy mấy anh Người Nhái lặn xuống sông sâu, vớt lên những thây người đã ươn
sình, căn phồng lên trong bộ quân phục tác chiến Hải-Quân – những quân nhân này
đã chết theo tàu khi chiến đỉnh bị mìn! Những lần giang đoàn tiếp cứu các đơn
vị dọc bờ sông, thần kinh tôi đã căn cứng, trí óc tôi gần như tê liệt khi thấy
vợ con của mấy anh Nghĩa-Quân trong đồn ngất lịm bên những thây người không
toàn vẹn!
Chính những lúc đó lòng tôi vô cùng căm phẫn khi nghĩ đến
những lời chỉ trích vô trách nhiệm của một vài tờ báo hoặc của vài cá nhân tự
nhận là trí thức đã dành cho Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi muốn gào lên: Ai
đổ máu nơi này để các anh chị bình yên nơi đô thị, được sum vầy với gia đình,
được cắp sách đến trường rồi ung dung viết báo xỏ xiên!
Ngày đó tôi muốn gào lên như vậy. Bây giờ, tuy cuộc chiến đã
tàn, nhưng khi khơi lại những hình ảnh đau thương, quằn quại ấy, lòng tôi vẫn
ngùn ngụt mối tình cảm xưa. Và xin quý vị cho phép tôi được gào lên: Bất cứ
người nào ăn hạt cơm miền Nam, uống ngụm nước bên này bờ Bến-Hải đều cũng phải
chịu ơn Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa!
Tôi nghĩ, sau này, dù người viết sử có thiên vị đến đâu
chăng nữa, họ cũng không thể không xác định rằng: Ngoài vũ khí cá nhân, Người
Lính Việt-Nam Cộng-Hòa còn mang theo trái tim đầy ắp tình đồng loại và nghĩa
đồng bào. Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ giết để khỏi bị giết chứ Người Lính
Việt-Nam Cộng-Hòa không hề “Thề phanh thây uống máu quân thù” (1) như anh bộ đội miền Bắc đã được hun
đúc từ tấm bé.
Tuy biết rằng sự hy sinh gian khổ của Người Lính Việt-Nam
Cộng-Hòa là vô biên, là bất tận và khả năng chữ nghĩa của tôi cũng chỉ giới hạn
ở mức độ nào đó, tôi cũng cố gắng viết ra những u uẩn, những thống khổ mà Người
Lính Việt-Nam Cộng-Hòa và vợ con của họ phải gánh chịu suốt cuộc chiến tương
tàn và sau khi cuộc chiến kết thúc bằng bội ước. Vì vậy, không có một tác phẩm
nào của tôi mà hình ảnh Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa không được trang trọng
lồng vào trong ấy. Truyện dài Sau Cuộc Chiến của tôi là một điển hình. Ngay
trang đầu của tác phẩm ấy tôi đã đề câu: “Để biết ơn Người Lính Việt-Nam
Cộng-Hòa.”
Ngoài việc nói lên sự chiến đấu oai hùng cũng như tinh thần
bất khuất của Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa trong cuộc chiến và trong trại cải
tạo, tôi còn viết rất nhiều và sẽ viết mãi về những mảnh đời đã trực tiếp hay
gián tiếp chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc chiến.
Đó là nói chung về Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Bây giờ xin
quý vị cho phép tôi được nói về một quân chủng thầm lặng, nhưng những hoạt động
quân sự của quân chủng đó trên sông rạch đã làm cho bộ đội miền Bắc xâm nhập
hay du kích Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam phải khiếp đảm. Trong hải phận
Việt-Nam quân chủng đó cũng đã làm cho thế giới cảm phục khi dám chống cự với
anh Tàu Cộng khổng lồ để bảo vệ lãnh thổ, trong trận hải chiến Hoàng-Sa, ngày
19-1-1974. Và ở vùng cận duyên, quân chủng đó cũng đã làm cho không biết bao
nhiêu triệu người trên thế giới xúc động, bàng hoàng trong những cuộc di tản
đẩm máu và nước mắt từ tháng Ba cho đến hết tháng Tư năm 1975. Và rồi, dù đã
mấy mươi năm qua, ai trong chúng ta có thể quên được niềm buồn tủi, nỗi lo âu
khi nhìn đoàn tàu què quặt tiến mà phía trước không định hướng, phía sau không
lối về và chung quanh chỉ thấy một màu xanh thẫm của đại dương!
Đại đơn vị mà tôi muốn nói đến là quân chủng Hải-Quân
Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa.
Tôi viết nhiều về Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa không phải vì
tôi thuộc vào đại gia đình Hải-Quân mà chỉ vì tôi đã thấy được rằng: Sau khi
thay bộ quân phục tiểu lễ trắng, người lính Hải-Quân là một người Lính thuần
túy và là người Lính đúng nghĩa nhất. Thật vậy! Người lính Hải-Quân cũng đi
tuần, cũng đi kích. Đó là các đơn vị chiến đấu như Giang-Đoàn Xung-Phong,
Giang-Đoàn Tuần-Thám, Giang-Đoàn Thủy-Bộ, Giang-Đoàn Ngăn-Chận. Người lính
Hải-Quân cũng xông vào lòng địch. Đó là Liên-Đoàn Người Nhái và các toán
Biệt-Kích xâm nhập Bắc-Việt bằng PT (Motor Torpedo Boat). Ngoài ra Hải-Quân
cũng còn là mục tiêu “ngon lành” nhất cho Việt Cộng đánh lén, đặt thủy lôi và
bắn sẻ. Đó là những giang đỉnh tuần tiểu trong sông hẹp và chiến hạm vận chuyển
trên sông.
Nếu Hải-Quân chỉ là những anh chàng đẹp trai, hào hoa trong
những bộ tiểu lễ trắng phau thì làm thế nào chúng ta có được chiến thắng
Vũng-Rô mà Duyên-Đoàn 24 là đơn vị lập công đầu? Làm thế nào chúng ta có được
trận Ba-Động với những con kình ngư thuộc Duyên-Đoàn 36 và Giang-Đoàn 23
Xung-Phong? Làm thế nào chúng ta có được Giang-Đoàn 24 Xung-Phong và Giang-Đoàn
30 Xung-Phong – hai đơn vị Hải-Quân thiện chiến đã khuấy động vùng Tam-Giác-Sắt
thuộc cục R của Việt-Cộng? Làm thế nào chúng ta có được Giang-Đoàn 26
Xung-Phong mà chiến tích còn tại kinh Trèm-Trẹm (kinh Thứ) và tại kinh Ngang?
Làm thế nào chúng ta có được trận thư hùng với Trung Cộng tại Hoàng-Sa để
Hạm-Trưởng Ngụy-Văn-Thà chìm vào biển sâu cùng với HQ. 10? Làm thế nào chúng ta
có được Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận với mặt trận Tuyên-Nhơn rực lửa của những ngày
tháng Ba và tháng Tư năm 1975; để rồi sau đó, Hải-Quân Thiếu Tá Lê-Anh-Tuấn –
vị chỉ-huy-trưởng gan dạ và liều lĩnh nhất của Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận – phải
tuẩn tiết trên sông Vàm-Cỏ-Tây vào đêm 30 tháng Tư rạng ngày Một tháng Năm năm
1975? Làm thế nào chúng ta có được phục quốc quân Đặng-Hữu-Thân, người xuất
thân khóa 12 trường Sĩ-Quan Hải-Quân Nha Trang, và Anh đã bị Việt-Cộng xủ bắn
tại trại tù A-30? Làm thế nào chúng ta có được những Biệt-Hải kiệt xuất như
Nguyễn-Duyện, người đã xâm nhập Bắc-Việt 65 lần bằng đường biển và
Nguyễn-Văn-Kiệt, người từng xâm nhập Bắc-Việt 72 lần, cũng bằng đường biển? v.
v...
Ngoài những điều tôi đã nêu trên, Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa
còn là một quân chủng có truyền thống rất tốt đẹp. Chính nhờ ý thức truyền
thống và tinh thần kỹ luật cao cho nên đến giờ phút cuối cùng – trong khi các
quân binh chủng khác đã rả ngũ – hệ thống chỉ huy của Hải-Quân Việt-Nam
Cộng-Hòa cũng vẫn còn được tôn trọng và quân số tại các đơn vị cũng như chiến
hạm vẫn không sai biệt. Nhờ vậy, Hạm-Đội Hải- Quân Việt-Nam Cộng-Hòa mới hoàn
tất được trách nhiệm trước lịch sử khi thực hiện những cuộc di tản đầy tính
chất bi hùng từ cửa Thuận-An cho đến Phú-Quốc và từ Việt-Nam cho đến Subic Bay,
năm 1975.
Trong quân sử Hải-Quân Việt-Nam và Hải Quân quốc tế chưa có
một cuộc lui quân nào mà chiến hạm cũng như quân trang, quân dụng được bảo toàn
gần như toàn vẹn như cuộc rút quân của Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa.
Bằng vào những ngày phiêu bạt cùng các đơn vị Hải-Quân chiến
đấu trên sông rạch miền U-Minh hoặc cùng các Duyên-Đoàn trong vùng cận duyên và
những ngày cuối tháng Tư năm 1975 lênh đênh trên Dương-Vận-Hạm Nha-Trang, HQ.
505, để nhìn Phan-Rang bỏ ngõ, để nghe Phan-Thiết kêu cứu, tôi đã hiểu được khá
nhiều về những hoạt động của Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa. Vì vậy, đối với tôi,
Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa lúc nào cũng là biểu tượng của sự tươi trẻ, của sự
chiến đấu không ngừng nghỉ, của tình thương bao la và của một truyền thống cao
đẹp. Do lòng quý mến đó, cách nay không lâu, tôi đã vượt qua rất nhiều khó khăn
và cản trở để thực hiện cuốn tài liệu lịch sử Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa Ra
Khơi, 1975.
Tôi nghĩ, mai sau, dù lịch sử Việt-Nam có bị kẻ thắng trận
bóp méo đến thế nào đi nữa thì những điều do tôi ghi lại một cách vô tư trong
cuốn Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa Ra Khơi, 1975 cũng sẽ cung ứng nhiều điều hữu
ích cho những ai muốn tìm hiểu sự thật.
Nếu không có sự hỗ trợ tích cực của tất cả quý vị trong đại
gia đình Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa, tôi nghĩ không thể nào tôi có thể thực
hiện được cuốn Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa Ra Khơi, 1975 một cách đầy đủ và
chính xác như vậy. Ngoài những điều do chính tôi tìm tòi và ghi lại một cách
rất trung thực, cuốn tài liệu này còn có những bài viết rất giá trị về các quân
trường Hải-Quân Pháp và Hải-Quân Hoa-Kỳ do quý vị sĩ quan cao cấp Hải-Quân như
cựu Đề-Đốc Lâm-Ngương-Tánh, cựu Phó Đề-Đốc Đặng-Cao-Thăng, cựu Hải-Quân Đại-Tá
Nguyễn-Ngọc-Quỳnh và cựu Hải-Quân Trung-Tá Trần-Trúc-Việt và một sĩ quan
Hải-Quân Hoa-Kỳ gốc Việt – Cựu Hải Quân Đại Úy Hoàng Quốc Tuấn.
Nhân đây, xin ban tổ chức cũng như quý vị quan khách hiện
diện cho phép tôi được cảm ơn quý vị trong đại gia đình Hải-Quân Việt-Nam
Cộng-Hòa đã giúp tài liệu hoặc cho phép tôi phỏng vấn hoặc góp bài để tôi hoàn
tất cuốn Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa Ra Khơi, 1975.
Trước khi dứt lời,
tôi xin được cảm ơn ban tổ chức và tôi cũng xin trân trọng cảm ơn quý vị quan
khách; vì quý vị đã lắng nghe những lời chân thành nhất của một phụ nữ rất nặng
tình với Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa. (2)
ĐIỆP MỸ LINH
(1)
Quốc ca của Cộng Sản VN.
(2) Bài phát biểu cảm tưởng này được
đọc trong ngày Đại Hội của Tổng Hội Hải-Quân và Hàng Hải Thương Thuyền, tại San
Jose