Từ
thời cổ đại, nhiều tôn giáo lớn đã biết sử dụng sức mạnh của Hội Họa, Điêu Khắc
như một phương tiện để phát triển đạo giáo và tín ngưỡng của mình. Hơn nữa, những
tác phẩm mỹ thuật, dù dưới hình thức nào đi nữa, cũng diễn tả được rất nhiều điều
mà người thuyết giảng không thể nói. Nhiều triết gia cho rằng: “Một bức tranh bằng
ngàn lời nói!” Ngoài việc diễn tả nội dung muốn diễn đạt một cách thầm lặng mà
lại chuyên sâu, mỹ thuật còn là những trang sử để người đời sau, chỉ nhìn vào
cũng hiểu được những sinh hoạt của tôn giáo của người đời trước. Trong các nến
văn minhcổ đại như Ai Cập, La Mã, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc tại các nền văn minh
hay tôn giáo đã bị tuyệt diệt tại các Châu lục khác, những bức tranh khắc chạm
trên mọi phương tiện sinh hoạt còn tìm thấy trong các đền thờ đã thay cho người
tường trình để kể cho nhân loại biết những tập tục tôn giáo đã diễn ra trong thời
xưa ấy.
Sang
đến đời nhà Lý, nhà Trần thì Phật Giáo thịnh hành. Từ đó, các điêu khắc hình Đức
Phật và các loại hình như lá bồ đề, hoa sen, hay các vũ nữ uốn mình theo kiểu Ấn
độ, kiểu Trung Hoa cũng như các họa tiết Rồng, Tiên được phổ biến rộng rãi và
đa số các chùa chiền, đình thờ đều có hình rồng ngậm ngọc trên nóc.
Qua
thời nhà Lê, thì Phật Giáo đã lan truyền ra gần như cả nước. Nghệ thuật điêu khắc
cũng từng bước mà phát triển theo. Những họa tiết hình lưỡi lửa, long phụng chầu
ngọc được khắc họa khắp nơi. Từ đó mà những tượng Phật theo văn hóa Việt Nam
đích thực được đúc, nặn, hoặc chạm trên gỗ bắt đầu được thiết trí trong các
chùa chiền. Một trong những tượng Phật nổi tiếng thế kỷ thứ 11 là tượng Phật A
di Đà tại chùa Phật Tích, Bắc Ninh được điêu khắc năm 1057 mang dáng vẻ Việt
Nam nhiều hơn là dáng vẻ Ấn độ hay Trung Hoa.
Vào
thế kỷ 15, ba pho tượng Tam Thế tại Chùa Ngọc Khám, Bắc Ninh đã được thực hiện
rất công phu bằng những bàn tay nghệ nhân Việt Nam. Sau đó, đến thế kỷ 17,18,
thì tượng Phật Thích Ca nhập Niết
Bàn, hồi đó còn được gọi tên bằng tượng ông Bụt có tóc xoắn ốc, được chạm khắc bằng
gỗ sơn son thiếp vàng, vào thế kỷ 17, 18 rất tinh xảo. Nét mặt Đức Thế Tôn khi
nhập Niết Bàn thể hiện lên một sắc thái vô cùng đặc biệt, Ngài mang một nụ cười
hoàn toàn thoát tục, siêu nhiên, khó tả bằng lời trong một khuôn mặt hoàn toàn
Việt Nam, không ảnh hưởng nét văn hóa Trung Hoa mấy.
Qua
thời Trịnh Nguyễn phân tranh, đời sống ly loạn, nhân dân ta thán, thì bỗng xuất
hiện những tượng điêu khắc Bồ Tát Quan Thế Âm. Những tượng này được làm dưới
nhiều dạng: Quan Âm Thị Giả, Quan Âm Vô úy, Quan Ấm Tống tử, Quan Nam tọa sơn,
Quan Âm Nam Hải, rồi Quan Âm Thiên Thủ, Thiên nhãn (ngàn tay, ngàn mắt)..
Năm
1959, Việt Nam tham dự đại hội Phật Giáo tại Ấn Độ, mang theo bản tượng thạch
cao khắc hình đức Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, phỏng theo tượng chính tại chùa
Bút Tháp, được thế giới thưởng lãm nhiệt liệt. Rồi cứ thế, theo đà tiến triển của
đất nước, nhiều tác phẩm điêu khắc về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát Quán Thế
Âm và các đệ tử được các nhà điêu khắc Việt Nam đúc và sáng tạo bằng nhiều vật
liệu khác nhau, cho đến ngày hôm nay, tinh thần sáng tạo của các điêu khắc gia
Việt Nam đã tiến triển vô cùng huy hoàng.
Ngày
hôm nay, tại Chùa Bồ Đề Phật Quốc, do Thượng Tọa Thích Huyền Châu trụ trì, dưới
sự chỉ đạo đầy tính nghệ sĩ của Thượng Tọa, nhà điêu khắc Nguyễn Phương đã sáng
tạo gần 20 tác phẩm điêu khắc trên gỗ về Phật Sử Ca, và đạo Phật nói chung. Những
tác phẩm này đã được giới thiệu trước đây, tại Saigon Performing Arts Center
song song với 10 bản nhạc Phật Sử Ca được viết lời bởi Thượng Tọa Thích Huyền
Châu, đã làm cho Phật Tử khắp nơi tán thán, hoan hỉ. Và bây giờ, một tác phẩm đặc
biệt khác nữa, vĩ đại hơn, Hoa Khai Hiến Phật cũng do điêu khắc gia Nguyễn
Phương thực hiện, sẽ được giới thiệu với Phật Tử cùng với những giọng ca điêu
luyện của các ca sĩ nổi tiếng tại hải ngoại, nhất định sẽ đem lại cho các Phật
Tử luồng ánh sáng mới, thấm nhuần tinh thần của đạo hơn, và từ đó, đường đến
Ánh Đạo Vàng gần hơn, và thanh thản hơn.
Chu
Tất Tiến