Hằng năm cứ vào Tháng Tư dương lịch, các cộng đồng người Việt, dù ở nơi nào trên thế giới, đều long trọng cử hành Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận. Ngày 30 Tháng Tư Năm 1975, ngày mất miền Nam vào tay cộng sản, ngày mà đồng minh Hoa Kỳ đã phản bội đồng minh Việt Nam Cộng Hòa để bắt tay mậu dịch với Trung Cộng, để cho miền Nam phải đơn độc chiến đấu chống lại cả khối cộng sản hung tàn, mà đại diện là cộng sản Bắc Việt xâm lược – ngày đó đã được gọi với tên thống nhất là Ngày Quốc Hận.
Sau hai thập niên chiến đấu anh dũng bảo vệ quê hương và nền tự do độc lập của miền Nam, chế độ VNCH đã bị bức tử. Chính phủ Mỹ thời bấy giờ qua Tổng Thống Richard Nixon và cố vấn Henry Kissinger đã thực thi chính sách bỏ rơi Đông Dương. Viện trợ cho chế độ miền Nam từ một tỷ USD xuống còn 700 triệu, còn 300 triệu, và đến đầu năm 1975 thì viện trợ Mỹ đã trở về con số không một cách tàn nhẫn.
Chính quyền Hoa Kỳ bấy giờ đã thay đổi chính sách đối
ngoại đột ngột đem đến cái chết cho cả một dân tộc. Gần cuối tháng Tư, Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu đã bị áp lực phải từ chức để cho các vị không được dân bầu lên
thay thế, ngõ hầu Mỹ có thể thực hiện được lời cam kết của họ với Mao Trạch
Đông và Chu Ân Lai năm 1972 qua các mật đàm tại Bắc Kinh và Hiệp Ước Thượng Hải.
Ông Dương Văn Minh lên thế cụ Trần Văn Hương trong chức vị tổng thống, để ra lệnh
đầu hàng vào sáng ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Miền Nam tan tác và rơi vào máu lửa
dưới súng đạn của cộng quân và sự trả thù tàn bạo của họ.
Để
chuẩn bị cho việc người Mỹ lui quân, không can thiệp vào chiến tranh Đông Dương
nữa, hội nghị Ba Lê đã được thành lập với bốn bên: Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Bắc
Việt và Việt Cộng (dưới tên “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”). Người Mỹ đã trực
tiếp đàm phán với Bắc Việt và để cho VNCH ngồi ngang hàng với VC. Tổng Thống
Thiệu đã cực lực phản đối, nhưng không thành công vì người Mỹ vẫn đi theo kế họach
họ đã vạch sẵn.
Các tướng lãnh Hoa Kỳ tuyên bố họ tham dự vào một cuộc chiến mà
không được chiến thắng, hay như tướng bốn sao của Mỹ Westmoreland nói ông chiến
đấu với một tay bị trói ra đằng sau. Các cuộc biểu tình phản chiến vào những
năm cuối thập niên ’60 và đầu ’70 tại Mỹ và nhiều nơi trên thế giới, mà nhiều
quan sát viên cho rằng có bàn tay của “Xịa” nhúng vào, đã như hỗ trợ cho chính
sách rút quân của Mỹ ra khỏi Miền Nam nhanh chóng hơn và bất kể hậu quả.
Nhiều
phóng viên quốc tế, nhất là của truyền thông Hoa Kỳ, được phái qua miền Nam tường
thuật về chiến tranh VN, trong suốt thời gian từ Tết Mậu Thân 1968 cho đến khi
Hòa Đàm Ba Lê kết thúc 27-1-1973, cho biết rằng họ đến miền Nam để lấy các tin
tức có lợi cho cuộc triệt thoái này, không phải lấy tin về các chiến thắng của
Quân Lực VNCH; và các tin tiêu cực, có lợi cho cộng sản, gây thiệt hại cho
chính nghĩa của VNCH tràn ngập trên các báo chí truyền thanh truyền hình của Mỹ.
Phóng viên người Đức Uwe Siemon-Netto của nhà in Đông Á lớn nhất tại Đức tiết lộ
rằng bạn
ông Peter Braestrup của tờ Washington
Post đã hỏi toán quay phim truyền hình Mỹ sao không quay các cảnh VC tàn
sát dân chúng, các hố chôn tập thể? Thì thấy họ trả lời thản nhiên rằng: “Chúng
tôi không đến đây để làm tuyên truyền chống cộng sản.” Ông Uwe
Siemon-Netto cho biết thêm VNCH đã bị bất lợi từ mọi phía, Walter Cronkite, xướng ngôn viên cột trụ của
CBS Evening News, nhân vật mà thời gian đó, được xem như được tín nhiệm nhất tại Hoa Kỳ, đã nói trước
22 triệu khán giả rằng cuộc chiến không thể thắng được.
Cả một kế hoạch âm mưu
đã được phác họa ra để giúp cho người Mỹ có cớ triệt thoái, đồng thời để triệt
hạ uy tín chính nghĩa của chế độ Cộng Hòa tại miền Nam, và nâng các chiến thắng
giả tạo của Bắc Việt và VC. Quả là điều đáng hổ thẹn cho các cá nhân và cơ quan
truyền thông của Mỹ thời đó đã làm việc theo đơn đặt hàng và đi ngược với công
tâm nhân loại.
Cuối tuần qua người viết bài này có dịp cùng với một
người bạn đến Thư Viện Richard Nixon, thành phố Yorba Linda, miền nam
California, Hoa Kỳ, để xem triển lãm về Viet Stories của hai người Mỹ gốc Việt tổ
chức là cô Trâm Lê và Dr. Linda Võ của đại học UC Irvine, và cũng nhân dịp tham
khảo lại các hình ảnh tài liệu về chuyến công du qua Bắc Kinh năm 1972 của Tổng
Thống Nixon và viên cố vấn Kisinger.
Hai căn phòng lớn của thư viện đã được
dành cho các hình ảnh của chuyến công du, chưa kể hàng chục máy tivi đang chiếu
lại các thước phim tài liệu về TT Nixon và chuyến công du của ông. Ngay đầu căn
phòng thứ nhất là hai tấm ảnh phóng đại, chiếm lĩnh cả hai bức tường, chụp các
tù binh Mỹ sau chấn song sắt, và các POW’s đang đứng trong sân trại giam ở Hỏa
Lò Hilton Hà Nội.
Đây đó là các hình ảnh về yến tiệc, như triều đình vua chúa
ngày xưa, để chiêu đãi TT Nixon và cố vấn Kissinger. Trong một góc phòng là hình tượng của TT
Nixon đang bắt tay tươi cười với hình tượng của Chu Ân Lai bên cạnh ảnh vẽ chiếc
Air Force One. Vận mệnh miền Nam đã bị định đoạt trong yến tiệc đó, miền Nam VN
đã mất ngay sau cái bắt tay đổi thù thành bạn ấy của chính quyền Hoa Kỳ thời đó
mà đại diện là TT Nixon và cố vấn Kissinger.
Trên một bức tường khác treo ảnh
chụp lại tờ báo Register ra ngày Thứ Tư 30-4-1975 chạy tít lớn: “Saigon
surrenders to Viet Cong” và ảnh của Big Minh: “ President orders ceasefire”. Thực
tế ngày đó, ông Dương Văn Minh, dùng quyền của một vị tổng thống (mới được đưa
lên) là tổng tư lệnh quân đội, để buộc các đơn vị VNCH phải buông súng đầu hàng
(chứ không phải ra lệnh ngưng bắn ceasefire), và Sàigòn đã mất.
Mỗi năm, cộng đồng người Việt hải ngoại trên toàn thế
giới lại tưởng niệm ngày Quốc Hận trong những đau xót hằn vết không nguôi,
nhưng nằm sâu trong tưởng niệm ấy là niềm hãnh diện của hàng triệu quân dân cán
chính VNCH đã từng đứng dưới là cờ Vàng Ba Sọc Đỏ để bảo vệ Tự Do cho Miền Nam
trong cuộc chiến Quốc-Cộng 1954-1975. Âu là cơ trời vận nước suy vong. Người
lính VNCH, kể cả các đơn vị bán quân sự, đã anh dũng chiến đấu gian khổ bằng
xương máu của mình, bao nhiêu vợ con của họ đã từng cùng nằm trong chiến hào với
chồng để chống lại từng đợt tấn công của cộng quân vào những xã ấp bé nhỏ thanh
bình của Miền Nam.
Họ đã hy sinh, nhưng gương dũng cảm và yêu chuộng tự do của
họ vẫn sống mãi với lịch sử ngàn năm hào hùng của con cháu Lạc Hồng. Những người
lính ngày xưa, sống sót sau cuộc chiến, sống sót qua bao năm tháng ngục tù
trong các trại tập trung giết người của cộng sản, bây giờ đã già cỗi, nhưng họ
vẫn còn đó, trong tim vẫn giữ hình bóng thân yêu của lá Cờ Vàng, và những hình ảnh
yêu quý của Sàigòn ngày tháng cũ.
Đại Tướng Douglas MacArthur, khi trở về từ
chiến trường Triều Tiên, từng nói trước Quốc Hội Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng Tư
năm 1951 rằng “giống như người lính gìa trong bài thơ ấy, bây giờ tôi giã từ
binh nghiệp, và sẽ phai mờ dần đi, một người lính đã hết sức làm phận sự của
mình dưới ánh sáng của Chúa chiếu rọi (... and like the old soldier of that ballad, I now close my
military career and just fade away, an old soldier who tried to do his duty as
God gave him the light to), và ông kết luận: người lính già không bao giờ
chết, họ chỉ phai mờ dần (old soldiers never die, they just fade away).
(Tin Tổng
Hợp).
Phạm Gia Đại