Trong cuốn sách bán chạy The Worst President in History: The Legacy of Barack Obama (tạm dịch: Vị tổng thống tồi tệ nhất lịch sử: Di sản của Obama), Matt Margolis đã tổng hợp 200 lý do cho thấy Barack Obama là tổng thống tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ. Dưới đây là 6 lý do trong số đó.
Cựu Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama. (Ảnh: Getty Images)
Cho đến nay, có lẽ bạn cũng đã được nghe nói về các cuộc thăm dò cho thấy người Mỹ tin rằng “Donald Trump là tổng thống tồi tệ nhất trong lịch sử” hoặc các học giả nghiên cứu về các đời tổng thống đã xếp ông Trump vào vị trí “bét bảng”. Bây giờ các bạn có thể bỏ các cuộc thăm dò cũng như những chuyên gia đó đi được rồi. Mặc dù có thể còn quá sớm để đánh giá đúng thứ hạng tổng thống cho các tổng thống gần đây, nhưng tôi tin rằng lịch sử cuối cùng cũng sẽ đánh giá Barack Obama mới là tổng thống tồi tệ nhất mà Hoa Kỳ từng có.
Có quá nhiều bằng chứng lên án nhiệm kỳ của ông vô cùng thậm tệ. Trong quyển sách vừa được tái phát hành của tôi là “The Worst President in History: The Legacy of Barack Obama” (Tạm dịch: Vị tổng thống tồi tệ nhất lịch sử: Di sản của Obama), tôi có tổng hợp 200 lý do cho thấy chỉ trong vài năm tới, lịch sử sẽ chứng minh rằng tôi đã đúng. Dưới đây, tôi xin trình bày 6 lý do vắn tắt, nhưng nó chưa đủ để nhấn mạnh, đó chỉ là bề mặt của tảng băng trôi mà thôi.
Có lẽ ví dụ nổi tiếng nhất cho việc chính quyền Obama lạm dụng quyền lực để nhắm vào kẻ thù chính trị của ngài Tổng thống chính là vụ bê bối Sở Thuế vụ Hoa Kỳ (IRS) khét tiếng.
Trong khoảng thời gian 2 năm dẫn đến cuộc bầu cử năm 2012, các nhóm biểu tình của Phong trào Tiệc trà và những đảng viên Đảng Bảo thủ khác đã bị IRS “hỏi thăm” theo hình thức không minh bạch.12 văn phòng IRS khác nhau trên khắp đất nước có liên quan đến vụ việc và toàn bộ hoạt động được chỉ thị từ Thủ đô Washington. Cũng có bằng chứng cho thấy Nhà Trắng đã nhúng tay vào bê bối này. IRS cũng nhắm vào các cá nhân riêng tư phê phán Obama, các ứng cử viên Đảng Cộng hòa cũng như các nhà tài trợ cho ứng cử viên Tổng thống Mitt Romney.
Ngoài ra, còn có những ví dụ về việc chính quyền Obama đã lạm dụng quyền hành chung nhắm đến các cá nhân của Đảng Cộng hòa. Dinesh D’Souza, tác giả bên Đảng Cộng hòa đã bị truy tố vi phạm tài chính chiến dịch chỉ vì phạm một tội thông thường không đáng bị truy tố. James O’Keefe của Dự án Veritas đã bị liệt vào danh sách theo dõi khủng bố sau khi một video bị phát tán cho thấy cảnh anh ta ăn mặc như một kẻ khủng bố khi lui tới biên giới Hoa Kỳ – Mexico, để chứng minh sự thiếu an ninh biên giới.
Giọt nước tràn ly cho hành vi lạm dụng quyền lực của Obama có lẽ là việc ông bí mật thăm dò chiến dịch Trump. Các hồ sơ Steele về Trump là tài liệu nghiên cứu đối lập đảng phái được Ủy ban Quốc gia Đảng Dân chủvà chiến dịch Hillary tài trợ, với vô số lời buộc tội và giả mạo. Các hồ sơ đã được sử dụng để bảo đảm có thể tiến hành lệnh FISA theo dõi chiến dịch của Trump. Các thành viên chống đối Trump đã tham gia vào cuộc điều tra.
Dựa trên tin nhắn văn bản giữa các nhà điều tra Peter Strzok và Lisa Page (những người có vấn đề với ông), chúng tôi biết rằng Strzok đã xem cuộc điều tra như một “chính sách bảo hiểm” trong trường hợp Trump đắc cử, còn Page thì lại lo lắng Trump sẽ đắc cử. Strzok đã nói với Page: “Không. Ông ta sẽ không thắng được đâu. Chúng ta sẽ ngăn chặn điều này lại”. Các tin nhắn văn bản khác chỉ ra rằng Obama muốn được họ tiết lộ về cuộc điều tra này. Obama đã giáng một đòn khá đau lên sự độc lập và liêm chính của FBI trong nhiệm kỳ của ông, và chúng ta vẫn còn thấm thía nỗi đau này.
5. Động thái giám sát của Obama
Tranh biếm họa về việc giám sát tự do cá nhân người dân của Chính quyền Obama. (Tranh: Kilian Krug)
Theo Liên đoàn Tự do Dân sự Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ đã tăng 64% các vụ gián điệp điện tử trong nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Obama. Chính quyền Obama tranh luận trong tòa án liên bang năm 2012 rằng công chúng không có “kỳ vọng chính đáng về quyền riêng tư” về dữ liệu vị trí điện thoại di động của họ, và cho rằng chính phủ có thể có được những hồ sơ này mà không cần ban lệnh. Chính quyền của Obama đã thông qua một cơ sở dữ liệu khổng lồ của chính phủ chứa thông tin về hàng triệu công dân, ngay cả khi họ không bị nghi ngờ dính líu đến chủ nghĩa khủng bố hay bất kỳ hành vi phạm tội nào. Điều này cũng đã vấy bẩn hình ảnh của Obama về tự do dân sự.
Tháng 5/2017, chúng ta cũng đã phát hiện được Cơ quan An ninh Quốc gia của Obama đã tiến hành khám xét người dân Mỹ bất hợp pháp trong nhiều năm và bị Tòa án Giám sát Tình báo Nước ngoài (FISC) khiển trách. Chúng ta không được biết điều này sớm hơn bởi vì chính quyền Obama đã che đậy nó.
4. Thanh tẩy Trại giam khủng bố vịnh Guantánamo (Gitmo)
Với tư cách ứng cử viên Tổng thống năm 2007, Obama hứa sẽ đóng cửa trại giam khủng bố tại vịnh Guantánamo, Cuba (Gitmo), ngay sau khi đắc cử. Ông đã ký lệnh thi hành ngày 22/1/2009, yêu cầu Gitmo phải đóng cửa trong vòng một năm. Quốc hội đã không tán thành quyết định này, vì vậy thay vì đóng cửa, ông đã tiến hành thanh tẩy nhà tù khủng bố một cách có hệ thống, như để dàn xếp êm xuôi sự phản đối đóng cửa của Quốc hội. Năm 2003, ở đó có 680 tù nhân. Đến đầu tháng 1/2015, số lượng tù nhân chỉ còn ít hơn 130 người, và ông đã tiếp tục thả phần tù nhân còn lại trong nhiệm kỳ thứ hai.
Một sĩ quan CIA đã nghỉ hưu ước tính rằng, ít nhất 50% số người được thả khỏi Gitmo đã chống lại quân đội Mỹ. Và Paul Lewis, đặc phái viên của Obama về việc đóng cửa Guantanamo, xác nhận rằng, các tù nhân Gitmo đã giết người Mỹ.
3. Obamacare (Đạo luật Bảo vệ Bệnh nhân và Chăm sóc Sức khỏe Hợp túi tiền)
Mặc dù chiến dịch của ông hứa hẹn sẽ gắn kết Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa lại với nhau để cùng cải cách chính sách chăm sóc sức khỏe, nhưng Obama đã ký một thỏa thuận trị giá hàng nghìn tỷ đô, liên quan đến 1/6 nền kinh tế Hoa Kỳ, mà không có phiếu bầu nào của Đảng Cộng hòa tại Thượng việnvà chỉ có một phiếu của Đảng này tại Nhà Trắng. Mặc dù đã cam kết sẽ minh bạch, nhưng các cuộc đàm phán cuối cùng của Obama và phát ngôn viên Nhà Trắng Nancy Pelosi chắc chắn đã được tổ chức bí mật.
Người Mỹ biểu tình phản đối chương trình bảo hiểm sức khỏe bắt buộc Obamacare (Ảnh: The Economist)
Ngoài các vấn đề trên trang web, đã có bằng chứng cho thấy chính quyền Obama làm giả các con số ghi danh để khiến Đạo luật này thành công và phổ biến hơn so với thực tế. Về cơ bản, mọi thứ liên quan đến Obamacare đều bị thất bại. 23 hợp đồng chăm sóc sức khỏe do người nộp thuế tài trợ trên toàn quốc do Obamacare thành lập để cạnh tranh với các nhà cung cấp bảo hiểm y tế tư nhân đã được chứng minh là không bền vững. Tiếp đó, đến tháng 1/2018, chỉ có bốn liên doanh Obamacare được duy trì. Các liên doanh Obamacare về cơ bản là phiên bản bảo hiểm y tế hệt như những việc làm vô bổ của Solyndra, nhưng tầm cỡ hơn.
Phần đáng nói hơn hết chính là, mặc dù chi phí của Obamacare khá cao, nhưng phí bảo hiểm y tế vẫn tăng lên và mức độ bao phủ ngày càng tồi tệ hơn. Bạn có còn nhớ câu: “Nếu bạn thích kế hoạch của mình, bạn có thể giữ lấy nó” không? Đó là lời nói dối. Mặc dù chính quyền Obama chú trọng chào mời số lượng người có bảo hiểm y tế đang có xu hướng ngày càng tăng, nhưng số lượng người chần chừ không muốn tiếp nhận chăm sóc y tế do chi phí đắt đỏ vẫn không có dấu hiệu thay đổi. Thực tế, tháng 11/2015, theo báo cáo, tỷ lệ người dân trì hoãn tiếp nhận chăm sóc ý tế đã tăng cao hơn so với trước khi Obama lên nắm quyền. Với Obamacare, người ta buộc phải mua bảo hiểm ngay cả khi họ không muốn, và họ vẫn không đủ khả năng tìm kiếm sự chăm sóc y tế vì mức phí bảo hiểm cao hơn.
2. Màn khôi phục kinh tế tồi tệ nhất
Đã có 11 cuộc suy thoái kể từ Thế chiến II. Theo sau mỗi cuộc suy thoái như vậy là sự phục hồi. Ngay cả Obama cũng đã trải qua một thời kỳ hồi phục kinh tế, nhưng vô tình đó lại là quá trình hồi phục tệ nhất.
Tất cả các công việc bị mất trong cuộc suy thoái sau Thế chiến II đã được phục hồi sau khoảng trung bình 25 tháng. Tuy nhiên, phải mất 77 tháng để có thể vận hành trở lại mức trước suy thoái, khiến thời kỳ phục hồi kinh tế của Obama bị tụt lại chậm nhất trong tất cả các cuộc phục hồi với một biên độ rộng khắp. Obama cũng là tổng thống duy nhất trong lịch sử Hoa Kỳ chưa hề có một năm nào mức tăng trưởng GDP đạt 3,0% trở lên.
1. Thâm hụt lớn nhất trong lịch sử
Khi điều chỉnh lạm phát, Obama sở hữu 7 lần thâm hụt cao nhất trong lịch sử – vượt qua những thâm hụt phát sinh trong Thế chiến II. Thâm hụt nhỏ nhất của Obama vẫn cao hơn mức thâm hụt cuối cùng trước khi ông nhậm chức.
Nhiều người đã tranh cãi rằng chi tiêu của năm 2009 – năm đầu tiên Obama làm tổng thống – không nên tính vào hồ sơ chi tiêu của Obama. Tuy nhiên, sự thật là, ngân sách năm 2009 không thực sự bị ràng buộc bởi ngân sách được Tổng thống Bush phê duyệt. Trên thực tế, chỉ có 3 trong số 12 hóa đơn hợp lệ của năm 2009 được Tổng thống Bush thông qua.
Đảng Dân chủ trong Quốc hội đợi cho đến khi Obama nhậm chức mới tiến hành chi tiêu mạnh tay. Vì vậy trên thực tế, hầu hết các chi tiêu diễn ra trong năm 2009 đã được Tổng thống Obama phê duyệt. Khoản chi tiêu này, bao gồm cả các gói kích cầu và cứu trợ thất bại của Obama, dẫn đến mức tăng 17,9% chi tiêu so với năm 2008 trong so sánh với mức tăng 3% do George W. Bush đề xuất. Sự gia tăng ngân sách này là mức tăng chi tiêu hàng năm cao nhất kể từ Chiến tranh Triều Tiên.
***
Vẫn còn rất nhiều những lý do. Nhưng sự thật cũng không có nghĩa lý gì nếu nhiều người không nhận thức được điều đó. Những đảng viên Đảng Dân chủ vô cùng mong muốn Obama được ghi vào lịch sử như một tổng thống vĩ đại, bất chấp những việc làm khủng khiếp của ông. Đừng để cho họ được toại nguyện.
Bài viết của Matt Margolis đăng ngày 26/7/2018 trên PJ Media. Matt Margolis là đồng tác giả của đầu sách bán chạy “The Worst President in History: The Legacy of Barack Obama” (Tạm dịch: Vị tổng thống tồi tệ nhất lịch sử: Di sản Obama). Ông đang sống cùng với gia đình ở Buffalo, New York.
Video: Sự khác nhau giữa Tổng thống Barack Obama và Doanald Trump