Sau đó Mạc Đăng Dung cắt cho Tàu Quốc năm động của những sắc tộc ít người nằm ở vùng biên giới Tàu Việt: Ty Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, và La Phù thuộc châu Vĩnh An, ở Yên Quảng.
Hổ thẹn vì sự kiện ở Nam Quan (Lạng Sơn) nên sau đó Mạc Đăng Dung ốm và chết vào năm sau, năm 1541, được 59 tuổi.
Họa phẩm này được in trong cuốn "An Nam lai uy đồ sách" là một cuốn sách ghi chép ngắn về lịch sử và địa lý phiên quốc An Nam trong mối quan hệ với nước Tàu thời Minh, bao gồm những ký sự, sắc lệnh, thi phẩm, họa phẩm và các tài liệu khác liên quan đến mối bang giao Tàu Quốc - An Nam.
Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ (1)
Còn gọi là “Thanh Quân Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (Họa đồ bố trí phòng thủ Trấn Nam Quan của quân Thanh). Đây là bức họa các vị trí đóng quân của nhà Thanh nơi Trấn Nam Quan bên trong nội địa Tàu Quốc. Địa hình đồi núi khái lược. Cổng ra vào với Ải Nam Quan của Việt Nam nằm tại cạnh phải của bức họa (có đóng khung).
Bức họa theo lối sơn thủy về hình ảnh “Trấn Nam Quan” trong đời nhà Thanh (Tàu Quốc). Niên đại được cho rằng họa vào đời vua Ung Chính khi xảy ra cuộc chiến Trung-Pháp (1884-1885)
Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ (2)
Các vị trí đóng quân của nhà Thanh nhìn từ hướng Việt Nam. Không hiểu tại sao bố cục của bức họa này lại rất giống với bố cục trên bưu ảnh (tham khảo hình B1) do người Pháp chụp vào đầu TK20(hoặc cuối TK19?) . Có thể bức họa này dựa theo tài liệu của người Pháp mà vẽ ra. Giá trị của bức họa này so với bưu ảnh (B1) là do sự quan sát của người Tàu Quốc vào thời đại cũ nên ta thấy được kiến trúc nguyên thủy của Ải Nam Quan bên phía Việt Nam. Ta thấy có một cổng lớn, hai bên cổng là hai dãy tường thành dâng cao nhưng bị cắt ở hai bên lưng núi. Một khoảng sau cổng mới đến phần cổng có mái ngói. Từ phần cổng mái ngói này có dãy tường thành chạy dài lên đỉnh núi. Đó là phần Tàu Quốc. Các điểm này tương xứng với bưu ảnh (B1).
Vẫn dựa theo tường thành phía Việt Nam là hai đoạn ngắn nhưng phần cổng đã thay đổi thành cổng nhỏ. Phía Tàu là cổng lớn và cao hơn, thiết kế hai mái ngói và tường thành chạy dài lên núi giống các bức họa đã nêu trên. Có lẽ sau giao tranh vào năm 1885. Cổng phía Việt Nam đã bị phá hủy nên được xây lại không còn qui mô như xưa.
Khoảng trống đến phần cổng phía Tàu là vùng cảnh giới của hai bên vì dựa theo hình phía bên Tàu Quốc ta sẽ thấy có sự đối xứng (tham khảo nhóm hình C).
Phụ ảnh:(B1) Ảnh màu để xác nhận hai phần mái ngói đỏ.
Người dân kéo xe bò trên Ải Nam Quan.
Nhìn từ bên Tàu. Kiến trúc ở đây đã khác. Phần mái ngói lớn phía dưới đã mất, chỉ còn lại phần mái ngói bên trên và cấu trúc mái cũng khác. Chỉ có dãy tường thành là vẫn chạy dài lên trên. Cạnh trái trên đỉnh núi có doanh trại. Phía dưới trước mặt cổng có cụm nhà ngói. Kiến trúc thay đổi có lẽ do sự phá hủy trong cuộc “Khởi nghĩa Trấn Nam Quan” do Tôn Trung Sơn lãnh đạo vào năm 1907. Để dễ phân biệt với nhóm hình chụp từ phía Việt Nam ta sẽ quan sát thêm sự khác nhau của địa hình đồi núi.
Đối diện với cổng có một bức bình phong chắn ngang. Trong kiến trúc cổ, theo quan niệm phong thủy, bình phong có tác dụng khắc phục, hạn chế những yếu tố xấu, phát huy những yếu tố tốt về phong thuỷ. Bức bình phong chắn sự dòm ngó từ ngoài vào.
Hoạt động ngoại giao nơi này diễn ra sôi động với chương trình khảo sát, hoạch định biên giới giữa Pháp và nhà Thanh.
Có thể phân biệt được quan chức Pháp trong bộ Âu phục trắng, cưỡi ngựa trắng và quan chức nhà Thanh đội nón, cưỡi ngựa ô trong số các nhân vật trong ảnh.
Trên bưu thiếp có tiêu đề “NAM QUAN (Chine) – Le Village” rõ ràng đây là khu làng mạc (Trấn)trong đất Tàu. So sánh các khung vị trí với hình C3:
Dãy nhà lá và con đường đất ở giữa, trước mặt là cụm nhà ngói và tán cây.. Ngang ở tâm trái của hình là bờ tường thành. Phía góc phải là vách núi đá (đá vôi?) trắng.
Chữ “Trấn” trong văn tự Tàu Quốc có rất nhiều nghĩa, như “trấn giữ”, “trấn áp”, “trấn tĩnh”, “trấn địa”…v.v. đều là chỉ việc gìn giữ, ổn định. “Trấn” còn là một đơn vị hành chính sau cấp huyện có từ thời xưa tại Tàu Quốc (đơn vị hành chính Việt Nam thời xưa cũng thường sử dụng). Trong một số sử sách Việt Nam có nói “Trấn Nam Quan” nằm trong nội địa Tàu Quốc. Thì đây, “Trấn Nam Quan” đã xác định là những hình này! Khối nhà lợp mái ngói ta sẽ hiểu là khu nhà quan binh, hai dãy nhà lá là khu dân cư dựa theo binh đội để có cuộc sinh hoạt yên bình. “Trấn” là khu phố nhỏ, làng mạc. Đừng làm lệch lạc lịch sử và đừng theo luận điệu của bọn bán nước mà cho rằng “Ải Nam Quan phải gọi là Bắc Quan”. Chữ “Nam Quan” là do Tàu Quốc kiêng kỵ Việt Nam nên không muốn gọi là “Đại Nam Quan” mà thôi. Chữ “Quan” là chiếc cổng qua lại. “Đại Nam Quan” hay “Nam Quan” là cửa ngõ giao thiệp với nước Việt Nam. Hai bên đã thủ lễ với nhau bằng khoảng trống ở hai bên cổng lớn. Theo sử liệu, sau chiến tranh Tàu-Pháp thì nhà Thanh đã chiếm giữ cổng lớn và buộc phía Việt nam phải cách xa cổng là 100 thước. Việc này ta thấy tương đương với khoảng cách của hai cổng trong nhóm hình B.
Trên bưu thiếp có tiêu đề “NAM QUAN (Chine) – Le Village” rõ ràng đây là khu làng mạc (Trấn)trong đất Tàu. So sánh các khung vị trí với hình C3:
Dãy nhà lá và con đường đất ở giữa, trước mặt là cụm nhà ngói và tán cây. Ngang ở tâm trái của hình là bờ tường thành. Phía góc phải là vách núi đá (đá vôi?) trắng.
Đường lên Ải Nam Quan từ Đồng Đăng
Những người Pháp (quần âu, áo trắng bên trái) đang chứng kiến vụ xử trảm một người Hoa trên khu vực Ải Nam Quan năm 1906.
F1. Toàn cảnh Ải Nam Quan Do trinh sát quân Nhật Bản chụp vào tháng 6 năm 1940 trước khi tiến hành “cuộc chiến 3 ngày” nhằm đạt mục đích đưa quân vào lãnh thổ Đông Dương. Hình được mô tả:“…thấy được đường xe lửa Lao Cai-Côn Minh. Lại có đường xe ô-tô từ Đồng Đăng lên tận Trấn Nam Quan. Bờ tường thành này bên trong là đất Tàu, ngay bên ngoài là Bắc bộ Đông Dương”.
Từ cao điểm như trong hình ta thấy rõ vị trí lô cốt như đã xem qua hình B2. Có khả năng lô cốt đã xây dựng trên một nền kiến trúc cổ xưa của Việt Nam . Và còn “Suối Phi Khanh” nơi thấm lệ của Nguyễn Trãi, có ai nhận ra chưa?
Sau khi chiếm thành Hànội lần thứ hai vào năm 1882, quân Pháp tiến về biên giới phía Bắc vì lúc bấy giờ triều đình Huế đã nhờ quân Tàu giúp Việt Nam đánh Pháp. Lúc đó Tàu Quốc vẫn coi Việt Nam như là “chư hầu” của mình nên được dịp họ tràn qua chiếm đóng nhiều tỉnh phía Bắc vùng biên giới.
Quȃn Tàu đòi hỏi một biên giới cắt lìa miền Bắc bằng con đường từ Lào Kay (Lào Cai) đến bờ biển Ɖông.
Tháng 2, 1885 tướng Negrier chỉ huy Lữ đoàn 2 trong chiến dịch Lạng Sơn trong đó Quȃn Ɖoàn Viễn Chinh đã đánh đuổi quȃn Tàu và đã chiếm lại Lạng Sơn.
Pháp tung hải quân đánh chiếm được những đảo Pescadores và Formose (Taiwan) của Tàu nhưng Pháp không đủ quân để đánh với một nước 400 triệu dân nên đã giảng hoà trong hiệp ước ký tại Thiên Tân ngày 9 tháng 6 năm 1885 trong đó buộc Tàu Quốc chấp nhận là không còn coi Việt Nam là“thuộc quốc” của mình nữa và hứa là sẽ tôn trọng lãnh thổ Việt Nam mà các đường biên giới sẽ được 2 nước (Pháp & Tàu) xác định sau.
Ảnh: Tướng Pháp Brière de L’Isle và ban tham mưu trước giờ tấn công chiếm lại Lạng Sơn tháng 1, 1885
(Ảnh bác sĩ Hocquard)
Phụ ảnh: Liên quân Pháp-Việt (trường Sĩ quan Đồng Đăng)
Những người bảo vệ Ải Nam Quan thất thủ trước quân Nhật (25.09.1940)
Trên Cột mốc số 18 ta đọc được: “Tàu-Việt Quốc Giới, Trấn Nam Quan Ngoại, Đệ Thập Bát Hiệu" - No.18