Monday, 13 May 2019

Một tài liệu xưa rất quý về ẢI NAM QUAN


Sau đó Mạc Đăng Dung cắt cho Tàu Quốc năm động của những sắc tộc ít người nằm ở vùng biên giới Tàu Việt: Ty Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, và La Phù thuộc châu Vĩnh An, ở Yên Quảng.
Hổ thẹn vì sự kiện ở Nam Quan (Lạng Sơn) nên sau đó Mạc Đăng Dung ốm và chết vào năm sau, năm 1541, được 59 tuổi.

Họa phẩm này được in trong cuốn "An Nam lai uy đồ sách" là một cuốn sách ghi chép ngắn về lịch sử và địa lý phiên quốc An Nam trong mối quan hệ với nước Tàu thời Minh, bao gồm những ký sự, sắc lệnh, thi phẩm, họa phẩm và các tài liệu khác liên quan đến mối bang giao Tàu Quốc - An Nam.


       Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ (1) 

Còn gọi là “Thanh Quân Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (Họa đồ bố trí phòng thủ Trấn Nam Quan của quân Thanh). Đây là bức họa các vị trí đóng quân của nhà Thanh nơi Trấn Nam Quan bên trong nội địa Tàu Quốc. Địa hình đồi núi khái lược. Cổng ra vào với Ải Nam Quan của Việt Nam nằm tại cạnh phải của bức họa (có đóng khung).

Bức họa theo lối sơn thủy về hình ảnh “Trấn Nam Quan” trong đời nhà Thanh (Tàu Quốc). Niên đại được cho rằng họa vào đời vua Ung Chính khi xảy ra cuộc chiến Trung-Pháp (1884-1885)

      Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ (2) 

Các vị trí đóng quân của nhà Thanh nhìn từ hướng Việt Nam. Không hiểu tại sao bố cục của bức họa này lại rất giống với bố cục trên bưu ảnh (tham khảo hình B1) do người Pháp chụp vào đầu TK20(hoặc cuối TK19?) . Có thể bức họa này dựa theo tài liệu của người Pháp mà vẽ ra. Giá trị của bức họa này so với bưu ảnh (B1) là do sự quan sát của người Tàu Quốc vào thời đại cũ nên ta thấy được kiến trúc nguyên thủy của Ải Nam Quan bên phía Việt Nam. Ta thấy có một cổng lớn, hai bên cổng là hai dãy tường thành dâng cao nhưng bị cắt ở hai bên lưng núi. Một khoảng sau cổng mới đến phần cổng có mái ngói. Từ phần cổng mái ngói này có dãy tường thành chạy dài lên đỉnh núi. Đó là phần Tàu Quốc. Các điểm này tương xứng với bưu ảnh (B1).

Minh họa cảnh giao chiến giữa                                    quân Pháp và quân Thanh tại cổng Nam                                    Quan vào năm 1885. Niên đại của bức                                    họa không rõ nhưng ta thấy tường                                    thành có kiến trúc giống cổng Ải Nam                                    Quan của hình A2.

Mô tả cảnh quân Pháp rút quân                                    và binh lực quân Thanh tại Trấn Nam                                    Quan. Hãy quan sát vị trí cổng theo                                    khung hướng dẫn trong hình.


Vẫn dựa theo tường thành phía Việt Nam là hai đoạn ngắn nhưng phần cổng đã thay đổi thành cổng nhỏ. Phía Tàu là cổng lớn và cao hơn, thiết kế hai mái ngói và tường thành chạy dài lên núi giống các bức họa đã nêu trên. Có lẽ sau giao tranh vào năm 1885. Cổng phía Việt Nam đã bị phá hủy nên được xây lại không còn qui mô như xưa. 
Khoảng trống đến phần cổng phía Tàu là vùng cảnh giới của hai bên vì dựa theo hình phía bên Tàu Quốc ta sẽ thấy có sự đối xứng (tham khảo nhóm hình C).

Phụ ảnh:(B1) Ảnh màu để xác                                    nhận hai phần mái ngói đỏ.
Phụ ảnh:(B1) Ảnh màu để xác nhận hai phần mái ngói đỏ.


Người dân kéo xe bò trên Ải Nam                                    Quan.
Người dân kéo xe bò trên Ải Nam Quan.
Quan sát các nhân vật trong                                    hình, ta thấy ở cạnh trái có binh                                    lính Việt Nam đứng thành hàng dài.                                    Giữa cổng đi ra là hàng phu khiêng                                    kiệu đội nón vải rộng vành của quân                                    nhà Thanh (chở quan viên?). Ở cạnh                                    phải của hình có những người nhà                                    Thanh đội nón và kết tóc đuôi sam.                                    Có lẽ đang diễn ra một sự kiện nào                                    đó trong lịch sử bang giao tại Ải                                    Nam Quan.


Ải Nam Quan của Việt Nam khoảng                                    năm 1906 nhỏ bé khiêm nhường, một                                    tầng mái, giữa hai cửa quan là một                                    vùng đệm, phía sau vài chục mét là                                    Trấn Nam Quan hai mái lầu của Trung                                    Quốc còn tồn tại đến ngày nay, ải                                    Nam Quan của Việt Nam thì không còn                                    nữa.


Bức ảnh quý hiếm của Ải Nam                                    Quan (Việt Nam) với cận cảnh hình                                    trang trí trên cửa ải, các vòm cổng                                    của hai bên, phía sau là Trấn Nam                                    Quan (Trung Quốc)

Cổng đóng then gài, cỏ mọc cao                                    ngất ngưỡng. Hoang tạnh.. Trong lời                                    nhắn trên bưu thiếp cho ta biết cổng                                    được tu phục vào năm 1908. Nhật ấn                                    “Lạng Sơn”. Xác nhận bờ tường thành                                    chỉ còn dấu thang bậc đi lên để so                                    sánh với tường thành phía bên Trung                                    Quốc


                                           C1. Trấn Nam Quan (1) 

Nhìn từ bên Tàu. Kiến trúc ở đây đã khác. Phần mái ngói lớn phía dưới đã mất, chỉ còn lại phần mái ngói bên trên và cấu trúc mái cũng khác. Chỉ có dãy tường thành là vẫn chạy dài lên trên. Cạnh trái trên đỉnh núi có doanh trại. Phía dưới trước mặt cổng có cụm nhà ngói. Kiến trúc thay đổi có lẽ do sự phá hủy trong cuộc “Khởi nghĩa Trấn Nam Quan” do Tôn Trung Sơn lãnh đạo vào năm 1907. Để dễ phân biệt với nhóm hình chụp từ phía Việt Nam ta sẽ quan sát thêm sự khác nhau của địa hình đồi núi.


Đối diện với cổng có một bức bình phong chắn ngang. Trong kiến trúc cổ, theo quan niệm phong thủy, bình phong có tác dụng khắc phục, hạn chế những yếu tố xấu, phát huy những yếu tố tốt về phong thuỷ. Bức bình phong chắn sự dòm ngó từ ngoài vào. 
Hoạt động ngoại giao nơi này diễn ra sôi động với chương trình khảo sát, hoạch định biên giới giữa Pháp và nhà Thanh. 
Có thể phân biệt được quan chức Pháp trong bộ Âu phục trắng, cưỡi ngựa trắng và quan chức nhà Thanh đội nón, cưỡi ngựa ô trong số các nhân vật trong ảnh.


Mặt bằng của Trấn Nam Quan. Bờ tường thành chia theo lô khác với hình thang bậc bên phía Việt Nam. Ta thấy rõ bên phía Tàu cũng có khoảng cách so với cổng lớn (Quan). Một án tường trắng đối diện cổng là theo lối phong thủy ngày xưa tránh sự dòm ngó thẳng vào nhà mình từ phía bên ngoài(ngay trong các kiến trúc cổ của Việt Nam từ đình làng đến lăng miếu ta sẽ nhận ra điểm này). Theo sử liệu Tàu Cộng, cụm nhà nhỏ phía trước cổng lớn (nơi có hai nhân vật áo trắng đang đứng) là miếu thờ Quan Công gọi là Quan Đế Miếu và Đền Chiêu Trung. Sau đó vào năm 1896 trong chương trình khảo sát biên giới giữa Tàu-Pháp đã xây trên nền này một văn phòng quản lý cùng với 9 điểm khác trên biên giới Tàu-Việt. Năm 1914 xây lại lần hai thành kiến trúc nhà lầu kiểu Pháp nên còn gọi là“Pháp Lầu” hoặc “Pháp Quốc Lầu” vẫn còn tồn tại cho đến nay.


Trên bưu thiếp có tiêu đề “NAM QUAN (Chine) – Le Village” rõ ràng đây là khu làng mạc (Trấn)trong đất Tàu. So sánh các khung vị trí với hình C3: 
Dãy nhà lá và con đường đất ở giữa, trước mặt là cụm nhà ngói và tán cây.. Ngang ở tâm trái của hình là bờ tường thành. Phía góc phải là vách núi đá (đá vôi?) trắng.
Chữ “Trấn” trong văn tự Tàu Quốc có rất nhiều nghĩa, như “trấn giữ”, “trấn áp”, “trấn tĩnh”, “trấn địa”…v.v. đều là chỉ việc gìn giữ, ổn định. “Trấn” còn là một đơn vị hành chính sau cấp huyện có từ thời xưa tại Tàu Quốc (đơn vị hành chính Việt Nam thời xưa cũng thường sử dụng). Trong một số sử sách Việt Nam có nói “Trấn Nam Quan” nằm trong nội địa Tàu Quốc. Thì đây, “Trấn Nam Quan” đã xác định là những hình này! Khối nhà lợp mái ngói ta sẽ hiểu là khu nhà quan binh, hai dãy nhà lá là khu dân cư dựa theo binh đội để có cuộc sinh hoạt yên bình. “Trấn” là khu phố nhỏ, làng mạc. Đừng làm lệch lạc lịch sử và đừng theo luận điệu của bọn bán nước mà cho rằng “Ải Nam Quan phải gọi là Bắc Quan”. Chữ “Nam Quan” là do Tàu Quốc kiêng kỵ Việt Nam nên không muốn gọi là “Đại Nam Quan” mà thôi. Chữ “Quan” là chiếc cổng qua lại. “Đại Nam Quan” hay “Nam Quan” là cửa ngõ giao thiệp với nước Việt Nam. Hai bên đã thủ lễ với nhau bằng khoảng trống ở hai bên cổng lớn. Theo sử liệu, sau chiến tranh Tàu-Pháp thì nhà Thanh đã chiếm giữ cổng lớn và buộc phía Việt nam phải cách xa cổng là 100 thước. Việc này ta thấy tương đương với khoảng cách của hai cổng trong nhóm hình B.


Trên bưu thiếp có tiêu đề “NAM QUAN (Chine) – Le Village” rõ ràng đây là khu làng mạc (Trấn)trong đất Tàu. So sánh các khung vị trí với hình C3: 
Dãy nhà lá và con đường đất ở giữa, trước mặt là cụm nhà ngói và tán cây. Ngang ở tâm trái của hình là bờ tường thành. Phía góc phải là vách núi đá (đá vôi?) trắng.

Đường lên Ải Nam Quan từ Đồng                                    Đăng
Đường lên Ải Nam Quan từ Đồng Đăng
Những người Pháp (quần âu, áo                                    trắng bên trái) đang chứng kiến vụ                                    xử trảm một người Hoa trên khu vực                                    Ải Nam Quan năm 1906.
Những người Pháp (quần âu, áo trắng bên trái) đang chứng kiến vụ xử trảm một người Hoa trên khu vực Ải Nam Quan năm 1906.
D1. Cổng Nam Quan (1) Đây là                                    một kiến trúc khác hẳn so với các                                    nhóm hình trên. Có vẻ sơ sài vì đã                                    mất hẳn phần kiến trúc phía trên                                    trong cuộc nội chiến tại Trung Quốc                                    vào năm 1949. Ta thấy có dáng một                                    nhân vật đang cầm súng. Tiêu đề trên                                    bưu thiếp “NAM QUAN (Tonkin)…” đây                                    là bên phía Việt Nam khi qua cổng                                    nhỏ để đứng sát với cổng lớn (vào                                    lúc này có lẽ kiến trúc cổng nhỏ                                    cũng đã mất). Theo sử liệu Trung                                    Quốc, trong cuộc giao tranh vào năm                                    1949 thì toàn bộ phần trên cổng đã                                    bị phá hoại hoàn toàn (tham khảo                                    hình E2).

D2. Cổng Nam Quan (2) Hình đăng                                    trên tạp chí “National Geographic”                                    do GS Nguyễn Văn Canh đưa lên mạng                                    và không rõ niên đại. Một số bạn                                    nghi ngờ bức ảnh này không chính xác                                    với hình ảnh của Ải Nam Quan. Tuy                                    nhiên so sánh với hình D1, ta đã                                    thấy kiến trúc cùng kiểu của hai                                    hình. Tại đây, dãy tường thành chạy                                    lên cao đến vách núi trắng tương ứng                                    với hình C3-C4, có thể xác định là                                    hình được chụp từ cao điểm bên phía                                    Việt Nam.


E1. Không xác định (1) Một hình                                    ngôi chùa trên đường đi Long Châu                                    nơi có cổng giao thiệp với Việt Nam                                    là Bình Nhi Quan. Cùng với Nam Quan                                    và Bình Nhi Quan còn có Thủy Khẩu                                    Quan là 3 cổng quan yếu để vào đất                                    Việt Nam nên gọi chung là “Tam                                    Quan”, có khi cổng Nam Quan còn gọi                                    là riêng là “Tam Quan” do ở vị trí                                    quan trọng hàng đầu so với hai cổng                                    Bình Nhi-Thủy Khẩu. Nơi hình này có                                    tiêu đề “Chine - NAM QUAN – Loc Hang                                    Thiap”. Chưa rõ chữ “Loc Hang Thiap”                                    là gì nhưng hình xác định là Nam                                    Quan trên đất Trung Quốc, có phải là                                    một ngôi chùa trong “Trấn Nam Quan”                                    hay không? Hay là thuộc Trấn Bình                                    Nhi Quan?


Quân đội Trung Quốc đứng trên                                    tường thành giương cờ trong cuộc                                    chiến thắng quân Tưởng Giới Thạch                                    vào ngày 11.12.1949 tuyên bố giải                                    phóng Quảng Tây. Thế tường thấp với                                    cổng và trên mặt tường cổng có chữ                                    “Trấn Nam Quan”.

Phụ ảnh: Hình chụp chính diện                                    của Trấn Nam Quan trong ngày giải                                    phóng Quảng Tây tháng 12.1949. Trên                                    mặt tường cổng thành ta thấy rõ chữ                                    “Trấn Nam Quan”. (phòng trưng bầy                                    lịch sử Hữu Nghị Quan)


F1. Toàn cảnh Ải Nam Quan Do trinh sát quân Nhật Bản chụp vào tháng 6 năm 1940 trước khi tiến hành “cuộc chiến 3 ngày” nhằm đạt mục đích đưa quân vào lãnh thổ Đông Dương. Hình được mô tả:“…thấy được đường xe lửa Lao Cai-Côn Minh. Lại có đường xe ô-tô từ Đồng Đăng lên tận Trấn Nam Quan. Bờ tường thành này bên trong là đất Tàu, ngay bên ngoài là Bắc bộ Đông Dương”. 
Từ cao điểm như trong hình ta thấy rõ vị trí lô cốt như đã xem qua hình B2. Có khả năng lô cốt đã xây dựng trên một nền kiến trúc cổ xưa của Việt Nam . Và còn “Suối Phi Khanh” nơi thấm lệ của Nguyễn Trãi, có ai nhận ra chưa?


Sau khi chiếm thành Hànội lần thứ hai vào năm 1882, quân Pháp tiến về biên giới phía Bắc vì lúc bấy giờ triều đình Huế đã nhờ quân Tàu giúp Việt Nam đánh Pháp. Lúc đó Tàu Quốc vẫn coi Việt Nam như là “chư hầu” của mình nên được dịp họ tràn qua chiếm đóng nhiều tỉnh phía Bắc vùng biên giới.
Quȃn Tàu đòi hỏi một biên giới cắt lìa miền Bắc bằng con đường từ Lào Kay (Lào Cai) đến bờ biển Ɖông.

Tháng 2, 1885 tướng Negrier chỉ huy Lữ đoàn 2 trong chiến dịch Lạng Sơn trong đó Quȃn Ɖoàn Viễn Chinh đã đánh đuổi quȃn Tàu và đã chiếm lại Lạng Sơn.
Pháp tung hải quân đánh chiếm được những đảo Pescadores và Formose (Taiwan) của Tàu nhưng Pháp không đủ quân để đánh với một nước 400 triệu dân nên đã giảng hoà trong hiệp ước ký tại Thiên Tân ngày 9 tháng 6 năm 1885 trong đó buộc Tàu Quốc chấp nhận là không còn coi Việt Nam là“thuộc quốc” của mình nữa và hứa là sẽ tôn trọng lãnh thổ Việt Nam mà các đường biên giới sẽ được 2 nước (Pháp & Tàu) xác định sau. 

Ảnh: Tướng Pháp Brière de L’Isle và ban tham mưu trước giờ tấn công chiếm lại Lạng Sơn tháng 1, 1885 
                                       (Ảnh bác sĩ Hocquard)

Phụ ảnh: Liên quân Pháp-Việt (trường Sĩ quan Đồng Đăng) 
Những người bảo vệ Ải Nam Quan thất thủ trước quân Nhật (25.09.1940)


Trên Cột mốc số 18 ta đọc được: “Tàu-Việt Quốc Giới, Trấn Nam Quan Ngoại, Đệ Thập Bát Hiệu" - No.18