(Trình bày ngày 5-01-2014 tại Sacramento, và ngày 18-01-2014 tại Orange County.)
1.- CHIẾN TRANH LẠNH
Chiến tranh lạnh bắt đầu từ năm 1946,
sau thế chiến thứ hai (1939-1945), là tình trạng tranh chấp căng thẳng, gay cấn
và quyết liệt giữa hai khối tư bản và cộng sản (CS). Nói trắng ra, đây
là cuộc tranh chấp giữa hai tập đoàn
quyền lợi tư bản và CS. Hai tập đoàn
quyền lợi nầy đối chọi nhau về tất cả các mặt, nhưng hai
bên không trực tiếp đánh nhau vì các cường quốc
đứng đầu hai khối cùng thủ đắc võ khí nguyên tử, sợ chiến tranh nguyên tử xảy
ra, thì cả hai bên đều thiệt hại nặng nề.
Chiến tranh lạnh, có một số đặc điểm
như sau: 1) Mỗi khối không phải là một tổ
chức thống nhứt, không có chỉ huy chặt chẽ.
2) Các quốc gia trong mỗi khối vẫn duy trì quyền lợi riêng tư, nên trong nội bộ mỗi khối, các quốc
gia vẫn xảy ra tranh chấp quyền lợi với nhau, nhiều khi không kém phần quyết liệt. Ví dụ giữa Hoa Kỳ và Pháp trong khối tư bản, giữa Liên Xô và Trung Cộng trong
khối CS. 3) Quyền lợi quốc gia của các nước luôn luôn thay đổi
theo hoàn cảnh và theo thời gian nên chính sách đối ngoại cũng thay đổi theo thời
gian. (Ví dụ Hoa Kỳ, Pháp, Liên Xô, Trung Cộng.) 4) Các nước
nhỏ yếu bị các nước cường
quốc lợi dụng. Các cường quốc dùng các nước nhỏ để
trao đổi quyền lợi giữa các cường quốc. 5)
Trong chiến tranh lạnh, có một số tranh chấp địa phương, bùng nổ thành những điểm
nóng, mà các cường quốc trong hai khối đứng về hai phía đối đầu nhau.
Từ khi xảy ra chiến tranh lạnh trên thế
giới năm 1946, tại Á Châu, hai điểm
nóng quan trọng là chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) và chiến tranh Việt Nam
(1960-1975). Trong cả hai cuộc chiến Triều
Tiên và Việt Nam, Hoa Kỳ đều ủng
hộ hai miền Nam tự do, chống lại hai miền Bắc CS, nhưng
Hoa Kỳ áp dụng hai chiến lược
khác nhau tại hai cuộc chiến nầy.
2.-
CHIẾN LƯỢC HOA KỲ TẠI NAM VIỆT NAM: PHÒNG THỦ
Tại Triều Tiên, Hoa Kỳ tấn công Bắc Triều
Tiên để phòng thủ Nam Triều Tiên, tức Hoa Kỳ lấy công làm thủ.
Tại Việt Nam, Hoa Kỳ không tấn công Bắc
Việt Nam mà chỉ phòng thủ ở Nam Việt Nam,
tức Hoa Kỳ lấy thủ làm thủ.
Cả hai nước Triều Tiên và Việt Nam đều có
biên giới giáp ranh với Trung Cộng ở phía bắc.
Khi quân Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên năm
1950, quân đội Hoa Kỳ cùng quân đội Liên Hiệp Quốc giúp Nam Triều Tiên, đánh đuổi
quân Bắc Triều Tiên đến sông Áp Lục (Yalu River), là biên giới với Trung Cộng. Quân Trung Cộng tràn qua giúp Bắc Triều Tiên. Sau ba năm đánh nhau qua lại, hai bên đình chiến năm
1953 ở vĩ tuyến 38, chia hai nước Triều Tiên.
Vì vậy, khi tham chiến ở Việt Nam năm 1965,
các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ bị ám ảnh bởi chiến tranh Triều Tiên. (Mark Moyar, Triumph
Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, New York: Cambridge University
Press, 2006, tr. 306.) Hoa Kỳ lo ngại nếu
đánh ra Bắc Việt Nam, thì Trung Cộng sẽ can thiệp như ở Triều Tiên, nên tại Nam
Việt Nam, Hoa Kỳ chủ trương chỉ phòng thủ ở Nam Việt Nam, phía nam đường phi
quân sự ở vĩ tuyến 17, không tấn công ra Bắc Việt Nam, tránh đụng chạm đến Trung Cộng.
3.-
CHÍNH SÁCH KHÔNG CHIẾN THẮNG
Chiến lược
phòng thủ của Hoa Kỳ có thể tóm gọn qua câu nói của đô đốc Grant Sharp, tư lệnh
Lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương 1964-1968: “Chính phủ chúng ta lập lại để làm rõ rằng những mục tiêu của chúng ta
trong cuộc tranh chấp ở Việt Nam là giới hạn.
Chúng ta không buộc phải tiêu diệt chế độ Hà Nội, không cưỡng ép dân
chúng Bắc Việt Nam phải chấp nhận một hình thức chế độ khác và cũng không tàn
phá Bắc Việt Nam. Chúng ta đơn giản muốn
Bắc Việt Nam ngưng điều khiển và ngưng yểm trợ phiến quân Việt cộng ở miền Nam
và đưa lực lượng của họ về nhà. Chiến lược
điều khiển chiến tranh của chúng ta phản ảnh những mục tiêu giới hạn nầy.” (Nguyên
văn: “Our Government has repeatedly made it clear that our objectives in the
Vietnam conflict are limited. We are not ought to destroy the Hanoi regime, or
to compel the people of North Vietnam to adopt another form of government, nor
are we out to devastate North Vietnam. We simply want North Vietnam to cease
its direction and support of the Vietcong insurgency in the South and take its
forces home. Our strategy for the conduct of the war reflects these limited
objectives.”) (William D. Pawley & Richard R. Tryon, Jr., “Why the
Communists are Winning as of 1976 and How They Lost in 1990”, http://www.gratisbooks.com/, chữ
khóa: “Getting bogged down in Vietnam”.)
Do chủ trương chiến tranh giới hạn
(limited war), bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đưa ra
những “quy tắc tham chiến” (rules of
engament) tức quy tắc quân đội ứng xử khi tham chiến ở NVN như một thứ cẩm
nang, nhằm ngăn ngừa và giới hạn những ngẫu biến ở biên giới Hoa Việt hay vùng
phi quân sự vĩ tuyến 17.
Quy tắc tham chiến hạn chế các mục tiêu
tấn công, và hạn chế các hoạt động của Không quân, giảm hỏa lực làm giảm sức mạnh
quân đội Hoa Kỳ. Ai vi phạm, sẽ bị trừng
phạt nặng. (ví dụ trường hợp đại tướng
John Lavelle năm 1972.)
“Những
quy tắc nầy bảo đảm rằng chúng ta không thể thắng và cộng sản cũng không thể thất
bại.” (Nguyên văn: “These rules
insured that we could not win and that the communists could not lose.”)
(Steve Farrell, Why We Lost in Vietnam - The Untold Story, University of
Toronto, School of Continuimg Studies, The Moral Liberal. )
Thượng nghị sĩ đảng Cộng Hòa Barry
Goldwater tuyên bố tại Taipei (Đài Bắc)
khi đến Đài Loan viếng tang tổng thống Tưởng Giới
Thạch, gọi đây là “chính sách không chiến thắng” (“no win policy”). (The
Bryan Times, Thursday, April 17-4-1975.)
4.-
CHIẾN LƯỢC PHÒNG THỦ KHÔNG HỮU HIỆU VỚI KHỦNG BỐ VÀ DU KÍCH
Trong chiến tranh Nam Việt Nam, cộng sản
Việt Nam sử dụng chiến thuật khủng bố và du kích. Quân du kích CS khủng bố, đánh phá khắp nơi
trên toàn quốc, gây thiệt hại mỗi ngày một ít, mỗi nơi
một ít, nhưng “tích tiểu thành đa”,
lâu ngày làm hao mòn quân đội Nam Việt Nam và quân đội Hoa Kỳ.
Thật rất khó chống lại du kích chiến, nhất
là trong địa hình rừng núi như
Việt Nam. (Ngày nay, người Mỹ tận dụng hết khả năng quân sự vẫn không chống lại được du kích Al-Qaeda, Taliban, Afghanistan.)
Muốn chận đứng du kích CS ở Nam Việt Nam,
chỉ có cách duy nhứt là chận đứng ngay từ gốc,
tức là hậu phương lớn của du kích CS, là Bắc Việt Nam, tức phải tấn công Bắc Việt
Nam, mới chận đứng được du kích CS trên toàn cõi Nam Việt
Nam. Như Hoa Kỳ đã từng đánh ra Bắc Triều
Tiên trước đây mới chận đứng hẳn du kích CS ở Nam Triều Tiên.
Vì không đánh ra Bắc Việt Nam để chận đứng
du kích từ tận gốc, mà chỉ mở những cuộc hành quân bình định
ở Nam Việt Nam và ngồi chờ du kích đến quấy phá mới phản công, nên dù trang bị
tối tân, quân đội Nam Việt Nam và Hoa Kỳ không thể tiêu diệt hết khủng bố và du
kích của CS ở Nam Việt Nam.
Hoa Kỳ còn lo ngại quân đội Nam Việt Nam bất ngờ tấn công ra Bắc Việt Nam để giải tỏa áp
lực của CS ở Nam Việt Nam, nên Hoa Kỳ ngăn chận tất cả những đề nghị từ phía Việt
Nam Cộng Hòa tấn công ra Bắc Việt Nam. Ví
dụ trong cuộc mít-tin tại Sài Gòn ngày 19-7-1964, kỷ niệm Ngày Quốc hận [ngày
ký kết Hiệp định Genève 20-7-1954], trung
tướng Nguyễn Khánh hô hào Bắc tiến. Đại
sứ Maxwell Taylor và các viên chức Mỹ có mặt tại cuộc mít-tin tránh né không
bình luận. (John S. Bowman, The Vietnam
War, Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tr. 42.) Ngày 1-12-1965, trung tướng Nguyễn Chánh Thi
gởi thư lên chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu đề
nghị Bắc tiến; đồng thời tướng Thi còn gởi thư cho đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn
công khai đề nghị Bắc tiến. (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam, một trời tâm sự, California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt.
319=344.) Năm 1972, trong mùa hè đỏ lửa.
quân Bắc Việt Nam tràn qua vùng phi quân sự ở vĩ tuyến 17. Quân đoàn I đề nghị đưa quân vượt qua vĩ tuyến
17 đánh ngược ra Bắc. Được tin nầy, phía
cố vấn Hoa Kỳ liền giới hạn cấp số xăng, cấp số đạn và ngưng tiếp tế lương khô
cho Lữ đoàn 1 Kỵ binh Việt Nam Cộng Hòa nhằm chận đứng cuộc Bắc tiến. (Hà Mai
Việt, Thép và Máu, Thiết giáp trong chiến
tranh, Texas, 2005, tr. 103.)
Với chiến lược
phòng thủ tại NVN, quân đội Hoa Kỳ không thất bại, nhưng
quân đội Hoa Kỳ cũng không chiến thắng, dậm chân tại chỗ. Trước
tình hình nầy, vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ quyết định
thay đổi sách lược.
5.-
HOA KỲ THAY ĐỔI VÌ LÝ DO QUỐC NỘI
Chiến tranh kéo dài, dân chúng Hoa Kỳ mệt
mỏi, chán nản, nổi lên phản đối. Phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ lên mạnh chỉ
sau vài năm Hoa Kỳ tham chiến. Trong niên khóa 1969-1970, xảy ra 1,800 cuộc
biểu tình, 7,500 người bị bắt giữ, 247 vụ đốt phá, 462 người bị thương mà 2/3
là cảnh sát và 8 người chết. Từ tháng 1-1969 đến tháng 2-1970 có 40,000 vụ ném
bom, hay âm mưu ném bom, hay đe dọa ném bom liên hệ đến chiến tranh, gây thiệt
hại 21 triệu Mỹ kim, hàng trăm người bị thương và 43 người chết. (Richard
Nixon, No more Vietnams, London: W. H. Allen, 1986, tr. 126.)
Phong trào phản chiến Hoa Kỳ lên cao vì
trong thời điểm nầy, ngoài quân đội chuyên nghiệp, Hoa Kỳ còn có binh sĩ động
viên. Thân nhân binh sĩ động viên phản đối
mạnh mẽ chiến tranh vì sợ con em phải bỏ mạng trên chiến trường Việt Nam. (Luật động
viên ở Hoa Kỳ được bãi bỏ ngày 27-1-1973.
Ngày nay, quân đội Hoa Kỳ chỉ gồm toàn quân nhân chuyên nghiệp.)
Tin tức phản chiến, chống chiến tranh Việt
Nam, được các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ đưa
lên truyền hình, chiếu liên tục suốt ngày làm nản lòng dân chúng Hoa Kỳ. Có thể nói phong trào phản chiến Hoa Kỳ là đồng
minh hữu hiệu và là nội tuyến đắc lực của Công sản Việt Nam. Các chính trị gía và các đảng phái muốn đắc cử,
phải điều chính sách lược để thu phục lòng dân Hoa Kỳ, mới được phiếu bầu.
6.-
HOA KỲ THAY ĐỔI VÌ LÝ DO QUỐC TẾ
Vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên
70, các chính trị gia Hoa Kỳ dựa trên quan niệm địa lý chính trị học
(geopolitics), như sau: "Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa
giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiễn
nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó.
Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít võ khí nguyên tử, nhưng
lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông
đảo của họ." (Roger Warner, Shooting at the Moon [Bắn trăng],
Steerforth Press, South Royalton, Vermont, 1996, tr. 333-334.)
Từ đó, giới chính
trị Hoa Kỳ đưa
ra nhận định mới. “Hy sinh Nam Việt
Nam mới thật là đáng giá. Còn hơn là hao
phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ Nam Việt Nam mà
ít hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa
Trung Quốc nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô." (Roger Warner, sđd.
tr. 336.) Lúc đó, cuộc tranh chấp Liên Xô
– Trung Cộng càng ngày càng gay gắt. Hoa
Kỳ muốn khai thác mối chia rẽ nầy, lôi kéo Trung Cộng về phía Hoa Kỳ.
Bill Sullivan, thứ trưởng ngoại giao Hoa
Kỳ đặc trách Đông Á và Thái Bình Dương, trả lời một cuộc phỏng vấn rằng: "Như thế, tôi đi đến kết luận, và điều
nầy nghe ra có vẽ tráo trở, rằng không thắng cuộc chiến nầy thì chúng ta sẽ khá
hơn. Đặc biệt nữa là người Trung Quốc đã
khai thông với chúng ta, và làm cho người Trung Quốc tách rời khỏi Liên Xô và
nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn nhiều việc chiến
thắng ở Việt Nam." (Roger Warner, sđd. tr. 336.)
Vì vậy, lúc đó người Hoa Kỳ nghĩ rằng: “Thua
trận ở Việt Nam lành mạnh cho Hoa Kỳ hơn là thắng trận. Rằng thua trận nằm trong quyền lợi quốc
gia. Rằng đó là lợi thế... Đó là quan niệm
cấp tiến triệt để vào thời đó, rằng thua trận và phó mặc các đồng minh Đông nam
Á của chúng ta cho số phận của họ, như thế mới đúng là cách làm của chúng ta."
(Roger Warner, sđd. tr. 333.)
Như trên
đã viết, dù là tư
bản hay cộng sản, quyền lợi của mỗi nước
luôn luôn thay đổi theo hoàn cảnh. Trước đây, vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đến Nam Việt Nam để
ngăn chận sự bành trướng
của cộng sản nhất là Trung Cộng. Nay
cũng vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ tìm cách rút lui khỏi Việt Nam. Năm 1969, tổng thống Richard Nixon đưa ra kế
hoạch “Việt Nam hóa” chiến tranh (Vietnamization), là một mỹ từ để chỉ việc
chuyển gánh nặng quân sự cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa, rồi Hoa Kỳ rút quân đội
Hoa Kỳ về nước.
Đồng thời, Hoa Kỳ nhận thấy hố chia rẽ
giữa Trung Cộng và Liên Xô càng ngày càng sâu rộng. Hoa Kỳ tìm cách thân thiện với Trung Cộng, vừa
nhờ Trung Cộng áp lực với Bắc Việt Nam để Hoa Kỳ rút quân, đem tù binh Hoa Kỳ về
nước, vừa lôi kéo Trung Cộng về phía Hoa Kỳ, tách xa Liên Xô.
7.-
TRUNG CỘNG: THAM VỌNG XUỐNG ĐÔNG NAM Á
Các lãnh tụ Trung Cộng không khác gì các
vua chúa Trung Hoa ngày xưa, luôn luôn nuôi mộng xâm lăng Việt Nam để tràn xuống
Đông Nam Á. Lịch sử cho thấy quân đội
Trung Hoa thời quân chủ không thể chiến thắng được quân đội Đại Việt. Vì vậy, lần nầy, Trung Cộng thay đổi sách lược,
nhìn ra Biển Đông nhắm đến Hoàng Sa, là
quần đảo của Việt Nam trong Biển Đông, nằm trên
thủy lộ chiến lược từ eo biển Malacca ra Thái Bình Dương.
Nguyên từ 24-2 đến 29-4-1958 tại Genève,
Liên Hiệp Quốc tổ chức Hội nghị về luật biển. Do những tranh cãi tại Genève về
chiều rộng của hải phận quốc gia và hải phận quốc tế, Mao Trạch Đông tuyên bố
ngày 28-6-1958: “Hiện nay, Thái Bình Dương không yên ổn. Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta
làm chủ nó.” (Jung Chang and Jon Halliday, The Unknown Story MAO,
New York: Alfred A. Knopf, Publisher, 2005, tr. 426.) Phát biểu nầy là khởi đầu
cho chủ trương mới của Trung Cộng về Biển Đông và Thái Bình Dương.
Năm
tháng sau, ngày 4-9-1958, Quốc hội Trung Cộng đưa ra bản tuyên cáo về hải phận,
gồm 4 điều. Trong 4 điều nầy, Trung Cộng
đưa ra hai điểm quan trọng: 1) Xác định hải
phận Trung Cộng rộng 12 hải lý. 2) Xác định hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa vốn thuộc lãnh thổ Việt Nam, là của
Trung Cộng (điều 1 và điều 4).
Đáp lại tuyên cáo ngang ngược nầy, Phạm
Văn Đồng thủ tướng Bắc Việt Nam, thừa lệnh Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng Lao
Động tức đảng Cộng Sản Việt Nam, gởi cho Trung Cộng công hàm ngày 14-9-1958,
tán thành bản tuyên cáo ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Cộng, tức Bắc Việt Nam
tán thành chuyện hải phận 12 hải lý của Trung Cộng, đồng
thời tán thành luôn rằng các quần đảo Hoàng Sa,và Trường Sa, thuộc lãnh thổ
Trung Cộng. Đây là tội phản quốc lớn lao
nhất trong lịch sử Việt Nam từ cổ chí kim.
Năm
1963, trong cuộc họp với đại diện
đảng Lao Động Việt Nam (tức đảng Cộng Sản
Việt Nam), Mao Trạch Đông nói: “Tôi sẽ làm chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam Á.” Tháng 8-1965, trong cuộc họp của Ban Chấp
hành Trung ương đảng
Cộng Sản Trung Quốc, Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt
Nam, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai, Singapore…” (Sự thật về
quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua, Hà
Nội: NXB Sự Thật, 10-1979, Chương
“Việt Nam trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc”.) Trong khi đó, Hoa Kỳ xích lại với Trung Cộng
từ năm 1971.
8.-
HOA KỲ – TRUNG CỘNG XÍCH LẠI GẦN NHAU
Tháng 3-1969, chiến tranh giữa Liên Xô
và Trung Cộng bùng nổ ở trên sông Ussuri.
Trung Cộng muốn tìm một đồng minh mới để làm đối trọng với Liên Xô. Trong khi đó,
Hoa Kỳ đang tìm cách rút lui dần dần khỏi Việt
Nam, cũng muốn thân thiện với Trung Cộng để nhờ Trung Cộng áp lực với Cộng sản
Việt Nam và tách Trung Cộng ra khỏi Liên Xô.
Hai kẻ cựu thù Hoa Kỳ và Trung Cộng nay đều
có nhu cầu xích lại gần nhau.
Sau một thời gian thăm dò, liên lạc, thương
thuyết mật giữa các phái đoàn Hoa Kỳ và Trung Cộng, ngày 9-7-1971, Henry
Kissinger bí mật đến Bắc Kinh. Năm sau, tổng
thống Hoa Kỳ Richard Nixon đi thăm Trung Cộng ngày 21-2-1972. Nixon thông báo cho các lãnh tụ Trung Cộng biết
là Hoa Kỳ sẽ đơn phương rút quân khỏi Nam Việt Nam, không đòi
hỏi Bắc Việt Nam rút quân khỏi Nam Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ không báo cho Việt Nam
Cộng Hòa biết.
Khi Richard Nixon về nước, Chu Ân Lai qua Hà Nội tường thuật cho
giới lãnh đạo Bắc Việt Nam. Bắc Việt Nam
liền mở cuộc tấn công Nam Việt Nam mạnh mẽ từ tháng 4-1972. (Mùa hè đỏ lửa).
Lúc đó, “Kissinger đã phái Winston Lord tới
New York gặp Hoàng Hoa, đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, để trao đổi một
“bức điện miệng” nhắn Trung Quốc: "Hải quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại tại
khoảng cách 12 dặm kể từ quần đảo Hoàng Sa”.” (Henry A. Kissinger, Ending
the Vietnam War, New York: Nxb.
Simon & Schuster, 2003, tr. 246. Huy Đức trích lại, Bên thắng cuộc,
I: Giải phóng, New York: Osin Book, 2012 , tr. 109.) Đổi lại, Trung Cộng giúp Hoa Kỳ bằng cách áp lực
Bắc Việt Nam trở lại thảo luận nghiêm chỉnh tại Hội nghị Paris, nhằm giải quyết
chiến tranh Việt Nam.
Như thế, ngay từ năm 1972, Hoa Kỳ ngầm hứa
hẹn đồng ý để cho Trung Cộng tự do hành động ở Hoàng Sa. Trung Cộng chờ đợi cơ
hội ra tay. Cuối cùng, Trung Cộng đánh
chiếm Hoàng Sa ngày 19-1-1974.
Cần chú ý về thời điểm
nầy: 1) Sau hiệp định Paris (27-1-1973), Hoa Kỳ rút
quân hoàn toàn ra khỏi Nam Việt Nam, và không trở lui nữa. 2) Liên Xô tăng
cường viện trợ gấp 4 lần cho Bắc Việt Nam để tấn công Nam Việt Nam. 3) Nam Việt Nam
bận rộn chống đỡ cuộc tấn công của Bắc Việt Nam. 4) Trung
Cộng dự đoán Bắc Việt Nam sẽ thắng thế, nên quyết
định chiếm Hoàng Sa trước khi Nam Việt Nam sụp đổ. 5) Đầu năm
1974, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tìểu Bình quyết định kế hoạch tấn công Hoàng Sa. Ngày 17-1-1974, Mao Trạch Đông phê chuẩn báo
cáo của Diệp Kiếm Anh xin đánh Hoàng
Sa. (Tân Hoa Xã ngày 6-8-2013 và BBC ngày 20-12-2013.)
9.-
PHẢN ỨNG CỦA HOA KỲ SAU TRẬN HOÀNG SA
Lúc đó
Cơ quan Trung Ương
Tình báo (CIA) Hoa Kỳ theo sát tình hình Biển Đông và Hoàng Sa. Hằng ngày, CIA ra bản tin Central
Intelligence Bulletin (CIB) và trình nạp thẳng đến
Văn phòng tổng thống Hoa Kỳ. Bản tin ngày 19-6-1971 viết: “Những đoàn công voa hải quân từ Yu-lin (Du Lâm) trên
đảo Hải Nam hiện tới Hoàng Sa thường xuyên, nhất là Woody Island (đảo Phú Lâm),
một trong những đảo lớn nhất trong nhóm. Bảo vệ đoàn tàu chủ yếu là tàu khu trục,
là tàu chiến lớn nhất trong hạm đội Nam Hải của Trung Quốc.” (BBC, ngày 30-12-2013.) Như thế Chính phủ Hoa Kỳ nắm bắt rất rõ những
hoạt động của Hải quân Trung Cộng ở Biển Đông. Năm 1972, khi xảy ra chiến cuộc “Mùa hè đỏ lửa”, Hoa Kỳ đã
giao cho Trung Cộng một “thông điệp
miệng” về vấn đề Hoàng Sa (đã trình bày ở trên).
Trong trận Hoàng Sa, quân đội Hoa Kỳ
hoàn toàn làm ngơ và tránh xa Hoàng Sa, đến nỗi phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại “gọi
điện thoại về Bộ tư lệnh Hải Quân xin can thiệp với cố vấn Mỹ yêu cầu Đệ thất Hạm
đội Mỹ vớt các thủy thủ Việt Nam, nhưng dường như họ có được chỉ thị nên không
một chiến hạm nào đến gần nơi cuộc xảy ra hải chiến.” (Hồ Văn Kỳ Thoại, Can
trường trong chiến bại, tr.
171.)
Sau trận Hoàng Sa, gặp Han Hsu (Han Xu),
quyền trưởng phái đoàn liên lạc TC tại Washington DC ngày 23-1-1974, ngoại trưởng
HK Kissinger nói: “Hoa Kỳ không có lập trường trong việc ủng hộ tuyên bố chủ
quyền của Nam Việt Nam tại các đảo nầy.”
(BBC Vietnamese, cập nhật 12:24 GMT - thứ Hai, 3 tháng 10, 2011.)
Gần một tuần sau trận Hoàng Sa
(19-1-1974), trong cuộc họp tại Bộ Ngoại giao HK ngày 25-1-1974, do ngoại trưởng
Henry Kissinger chủ tọa, đô đốc Thomas H. Moorer, tham mưu trưởng Liên quân HK,
báo cáo với Kissinger: “Chúng ta đã tránh xa vấn đề... Chỉ thị của tôi là
tránh xa khỏi toàn bộ khu vực [Hoàng Sa].” (BBC Vietnamese, cập nhật
12:24 GMT - thứ hai, 3 tháng 10, 2011.)
KẾT LUẬN
Chiến tranh lạnh toàn cầu đưa đến trận
Hoàng Sa ngày 19-1-1974. Ngược lại trận Hoàng Sa đánh dấu sự thay đổi
mối quan hệ quốc tế trong chiến tranh lạnh toàn cầu.
Trận Hoàng Sa một lần nữa cho thấy khi
Việt Nam có nội chiến, đất nước chia rẽ, nội lực dân tộc sút giảm, kẻ
thù bên ngoài thừa cơ hội xâm lăng nước
ta.
Trận Hoàng Sa tiêu biểu cho lập trường bảo vệ đôc
lập, chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
và quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Trong khi
đó, Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Bắc Việt Nam theo chủ nghĩa cộng sản, làm tay sai cho
Liên Xô và Trung Cộng, phạm tội phản quốc, nhượng
đất đai của
tổ tiên cho ngoại bang, để mưu cầu viện trợ nhằm tấn công Việt Nam Cộng
Hòa, thực hiện tham vọng thống trị toàn cõi Việt Nam.
Hoa Kỳ đến
giúp Việt Nam Cộng Hòa vì quyền lợi của Hoa Kỳ, và cũng vì quyền lợi của Hoa Kỳ,
Hoa Kỳ sẵn sàng rút quân về nước, bỏ
rơi đồng
minh. Từ năm
1972, Hoa Kỳ đã ngầm thỏa thuận về Hoàng Sa với Trung Cộng.
Cũng vì quyền lợi của Trung Cộng, Trung Cộng sẵn sàng tách ra khỏi Liên Xô và
xích lại gần với Hoa Kỳ, làm thay đổi cục
diện chiến tranh lạnh toàn cầu.
Đây là một kinh nghiệm quý báu về vấn đề đồng
minh trong tương quan quyền lợi giữa các nước.
Chỉ có đồng minh khi có quyền lợi. Hết quyền lợi, hết đồng
minh.
Chiếm được
Hoàng Sa, chẳng những Trung Cộng kiểm soát sự lưu
thông trên Vịnh Bắc Việt, mà còn kiểm soát thủy lộ từ Malacca qua Biển Đông, nhập
vào Thái Bình Dương.
Trong tương lai Hoàng Sa càng trở nên quan trọng
khi Trung Cộng bắt đầu thành lập khu
vực “nhận diện phòng thủ không phận” (Air Defense Identification Zone = ADIZ)
trên quần đảo nầy.
Khi Hoa Kỳ thay đổi
sách lược toàn cầu, rút quân và cắt giảm viện trợ
cho Việt Nam Cộng Hòa, Nixon và Kissinger dự liệu là Việt Nam Cộng Hòa có thể bị
sụp đổ trong vòng 18 tháng sau hiệp định Paris.
(Kenneth Hughes, The Paris "Peace" Accords Were a Deadly Deception
(Jan 31, 2013)
(<http://hnn.us/articles/paris-peace-accords-were-deadly-deception>.)
Tuy nhiên, quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn
tiếp tục chiến đấu anh dũng, chống trả cộng sản mãnh liệt, khiến Kissinger đã
than một câu để đời: “Tại sao họ không chết lẹ đi cho rồi? Điều tệ nhất có thể xảy ra là họ cứ sống dai
dẳng hoài.” (Ron Nessen, It Sure Looks Different from the Inside,
Chicago: Playboy Press, 1978, tr. 129.
Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter trích dẫn, Hồ sơ mật dinh Độc
Lập, Los Angeles: C K Promotions, INC, 1987, tr. 512.)
Nghe câu nầy thì thật buồn cho thế thái
nhân tình, nhưng đồng thời phải khâm phục sức chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng
Hòa. Quân đội
chúng ta không thua trận, nhưng phải
ngưng chiến đấu
vì sự thay đổi của hoàn cảnh chính trị thế giới.
Hoàn cảnh chính trị thế giới và bạo lực
CS đã đẩy
chúng ta ra khỏi Việt Nam, nhưng
không một thế lực nào có thể đẩy Việt
Nam ra khỏi trái tim chúng ta. Người Việt luôn luôn nuôi mộng trở về quang
phục quê hương, giải thể chế độ
cộng
sản bạo tàn, đòi lại Hoàng Sa cho tổ quốc thiêng liêng.
Ngày nay tình hình Đông Á đang thay đổi
một lần nữa, là cơ hội cho chúng ta vận động giải thể nhà
cầm quyền cộng sản Việt Nam. Người Việt
Hải ngoại chúng ta cần phải hết sức ủng hộ một cách thực tế những nhà tranh đấu
dân chủ trong nước, những phong trào đòi hỏi dân chủ trong nước. Trào lưu dân
chủ sẽ xóa bỏ độc tài.
Chỉ khi nào chế độ
cộng sản Việt Nam bị giải thể thì người Việt mới bắt đầu tính sổ đòi đất, đòi
biển với Trung Cộng; bởi vì giải thể chế độ cộng
sản Việt Nam mới chấm dứt những cam kết ngầm giữa đảng Cộng Sản Việt Nam và đảng
Cộng Sản Trung Quốc, từ thời Hồ Chí Minh năm 1950 cho đến Hội nghị Thành Đô năm
1990. Chấm dứt những cam kết ngầm mới có
thể nói chuyện đòi đất đòi biển trở về với tổ quốc chúng ta.
TRẦN GIA PHỤNG
(California, 05-01-2014)