Nhóm Hành Khất (Danlambao) - Trong hạn chế bài viết, nên chỉ tạm nêu lên vài nét “nổi bật” trong cuộc đời của vài nhân vật Cộng sản chính và được phân ra thành thành hai nhóm trong ba thế hệ: nhóm thứ nhất gồm Kart Heinrich Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, và nhóm thứ thứ hai gồm Joseph Stalin, Mao Zedong, Hồ Chí Minh, Kim Il-Sung. Tất cả sự kiện thực tế đều được dựa trên những tài liệu của trang mạng en.wikipedia sau khi được kiểm tra, những bài viết cá nhân của những học giả nghiên cứu, Giáo sư, và nhà báo ngoại quốc, và một số cuốn sách ngoại ngữ được cho là có giá trị xác thực.
1- Nhóm thứ nhất:
(Từ trái sang phải là Marx, Engels, Lenin)
a- Kart Heinrich Marx (1818--1883):
Kart Marx được xem là cây cổ thụ về lý thuyết Chủ nghĩa Cộng sản qua Bộ sách “Das Kapital” (“Tư bản Luận”), được sinh ra trong một gia đình trung lưu người Hòa Lan gốc Do Thái, ở nước Phổ (nước Đức thời phong kiến) gốc, có truyền thống theo đạo Do Thái (Judaism), sau đổi theo đạo Tin Lành (Protestantism) thuộc giáo phái Martin Luther (i.e. Lutheranism, đạo Tin Lành của Tây phương,) nhằm tránh pháp chế bài Do Thái lúc bấy giờ. Nhưng khi lớn lên, ông ta trở thành kẻ vô thần, hâm mộ triết lý Hegel nhưng thuộc tả phái Hegel tự xưng là nhóm Thanh niên Hegel, chống đạo Tin Lành, áp dụng biện chứng pháp của Hegel để phát triển chủ thuyết duy vật, chủ thuyết xã hội, chủ thuyết duy lý, và chủ thuyết bài thần --là những chủ thuyết đã có trước từ lâu. Ông ta được cho ăn học hết bậc đại học và đạt đuợc bằng Tiến sĩ Triết học Đức. Cha ông ta là một luật sư, phía bên ngoại cũng là người Hòa Lan gốc Do Thái, có công ty Điện tử Phillip ở thủ đô Amsterdam, và người cậu là chủ ngân hàng và nhà kỷ nghệ tư bản giàu có ở thủ đô London vốn là người mà người vợ của ông ta, Jenny von Westphalen (còn được gọi là Jenny Marx) --gánh chịu khốn khổ nhất vì chồng con-- thường hay đến để vay tiền khi sinh sống ở London, ngoài phần tiền chu cấp hàng tháng cho ông ta bởi người bạn thân và là đồng chí mình, Friedrich Engels vì tiền nhuận bút cho những bài viết trên 6 tờ báo ở 6 nước khác nhau không đủ trang trải cho sinh hoạt cuộc sống của gia đình đông con --7 người, nhưng sau nầy chỉ còn lại 3 người con gái trưởng thành.
(Johanna Bertha Julie Jenny von Westphalen (1814--1881),
xuất thân từ một dòng họ rất giàu có, gốc Do Thái,
người Hòa Lan, trở thành, Jenny Marx, người vợ của Karl Marx vào năm 1843)
xuất thân từ một dòng họ rất giàu có, gốc Do Thái,
người Hòa Lan, trở thành, Jenny Marx, người vợ của Karl Marx vào năm 1843)
(Jenny Marx lớn hơn Karl Marx 4 tuổi)
Trong cuốn sách vốn nhận được Giải thưởng Sách Quốc gia năm 2012, là “Love and Capital: Karl and Jenny Marx and the Birth of a Revolution” (“Tình yêu và Tư bản: Karl và Jenny Marx và sự Ra đời của cuộc Cách mạng”) của nữ nhà báo với 20 năm trong nghề và là nhà nghiên cứu sử liệu, Mary Gabriel - cũng là người hâm mộ Karl Marx, dầy khoảng 700 trang, được Elaine Showalter điểm sách trong bài viết “Love and Capital: Karl and Jenny Marx and the Birth of a Revolution,” vào ngày 14/10/2011 trên washingtonpost.com, như sau:
“Nhưng “Tình yêu và Tư bản” là cuốn tiểu sử từ lúc khởi đầu --nói về cuộc sống và sự nghiệp của Karl Marx từ viễn ảnh của người vợ và những đứa con của ông ta và đặt lịch sử của Chủ nghĩa Mác-xít trong những bối cảnh của một lịch sử gia đình. Những tiết lộ và những mâu thuẫn tạo nên sức hấp dẫn. Đối với một nhà lý luận vĩ đại về tư bản và kinh tế, đáng kinh ngạc là ông Marx không biết lo xa và không biết gì về tiền bạc”.
Trong phần mở đầu, tác giả bài điểm sách trên, Elaine Showalter, vị nữ Giáo sư Anh ngữ tại Đại học Princeton, và là nhà chuyên nghiệp về văn hóa Victoria, vốn là người viết về Eleanor Marx, người con gái út của ông Marx, đã viết như sau:
“Khi người vợ của nhân vật chính trị, đang mang thai đứa con thứ tư của họ, thực hiện chuyến đi ngắn để cố gắng quyên tiền cho công việc của ông ta, ông ta đã ngủ với người quản gia sống trong nhà và làm cho cô ta có thai. Trong cơn hoảng loạn, ông ta thuyết phục người luôn theo sau trung thành nhất của mình để nhận là quan hệ cha con, và đứa bé trai đã được gởi đi để được nuôi dưỡng bởi một gia đình khác”.
Nhân vật chính trị đó là Karl Marx và người vợ của ông ta, Jenny Marx, đang mang thai đứa con thứ tư, đó là bé Henry Edward Guy (tên gọi khác là “Guido”, nhưng vắn số: 1849--1850). Sau khi ông Marx trở lại Paris từ thành phố Cologne, Đức khi bị trục xuất vì âm mưu bạo loạn, định lật đổ chế độ quân chủ phong kiến, và nhà cầm quyền Paris sau đó cũng trục xuất gia đình ông ta. Con đường duy nhất còn lại là trú ngụ tại London từ năm 1849 đến cuối đời mình. Sự quan hệ của ông Marx với người quản gia, có thể bắt đầu từ khoảng năm 1949, sau khi đến Anh Quốc.
Người quản gia đó là Helene Demuth, một tớ gái thuộc gia đình nông dân, bắt đầu phục vụ trong trong gia đình von Westphalen, nhà Mẹ của Jenny Marx, từ lúc 14 tuổi, và sau đó được gởi đến phục vụ cho gia đình ông Marx từ năm 1845, lúc họ từ Paris đến thành phố Brussels, Bỉ, một thời gian trước khi chuyển đến thành phố Cologne, Đức, sau nầy. Trong bài viết về Helen Demuth trên en.wikipdia, phần Biography, có đoạn:
“Mặc dù sự ghê tởm của ông Marx về vấn đề bóc lột những người lao động, cô Demuth không bao giờ được trả lương cho những phục vụ của mình”
Và trong bài viết “Marx’s Illegitimate son” (“Đứa con hoang của Marx”) của vị Giáo sư Lý thuyết Chính trị, Terrell Foster Carver, tại Đại học Bristol, Hiệp Quốc Anh, cho biết là:
“Bà ta đã để lại mọi thứ (95 đồng bảng Anh) cho ‘đứa con trai Frederick Lewis Demuth’ của mình, có tên khác lúc sinh ra là Henry Frederick, theo giấy khai sinh của đứa bé, qua đó không cho thấy tên của người cha nào”.
Frederick (tiếng Đức viết là Friedrich) là tên của ông Engels (Frederick Engels) và Henry (tiếng Đức viết là Heinrich) là tên lót của ông Marx (Karl Heinrich Marx). Điều nầy cho thấy, dường như ông Marx muốn lưu lại dấu hiệu gì đó cho đứa bé cho việc nhận diện sau nầy bên trong những thành viên gia đình qua giấy tờ chứng minh, nhưng bề ngoài đó thì sử dụng tên của ông Engels để che đậy dư luận.
(Helene “Lechen” Demuth (1820--1890) trong thập niên 1850s,
người quản gia trung thành của gia đình ông Marx.
Đó là lúc cô ta mang thai khi được 30 tuổi, qua quan hệ
với ông Marx và hạ sinh bé trai vào năm 1851)
người quản gia trung thành của gia đình ông Marx.
Đó là lúc cô ta mang thai khi được 30 tuổi, qua quan hệ
với ông Marx và hạ sinh bé trai vào năm 1851)
Cuốn sách từ nguyên bản tiếng Đức “Unbekannte Dokumente über Marx’ Sohn Frederick Demuth” (“Unknown Documents concerning Marx’s Son Frederick Demuth”) (“Những tài liệu Chưa được Biết liên quan đến Đứa con trai Frederick Demuth của Marx”), của hai tác giả người Đức, Heinrich Gemkow, và Rolf Hecker được trang mạng Beiträge zur Geschichte der Arbeiterbewegung (Sự đóng góp cho Lịch sử của Phong trào Lao động) nhắc đến từ tháng 4/1994. Đây là một tài liệu khó tiếp cận về những bức thư trao đổi của những người có ít nhiều quan hệ với Karl Marx, Frederick Engles, Frederick Demuth, và mấy cô con gái trưởng thành của Karl Marx. Mặc dù hai tác giả thừa nhận rằng những tài liệu nầy không đưa ra một minh chứng kết luận rằng ông Marx là cha đẻ của Frederick Demuth, đề tựa là điều gì mà hai tác giả muốn xác định hơn.
Và gần đây, trên trang wochenspiegelonline với bài viết “Über das Leben von Helene „Lenchen“ Demuth” (“Về cuộc đời của Helene ‘Lenchen’ Demuth”) vào ngày 6/02/2014, lên tiếng mời gọi cuộc thảo luận về chủ đề Lechen Demuth và Jenny Marx vào ngày 17/02/2014 tại Viện Bảo Tàng Sankt Wendel. (‘Lenchen’ là tên riêng của Helene Demuth được đặt cho bởi ông Marx, và ngay cả ông ta cũng có nhiều cái tên riêng khác, cả mỗi thành viên trong gia đình nhằm tránh sự theo dõi của mật vụ, và tai tiếng khi hòa nhập vào xã hội khác)
(Tác phẩm thứ ba của nhà điêu khắc Kurt Tassotti, người Đức,
là tượng đồng Helene Demuth đang mang thai, được đặt
dọc theo Bức tường cổ ở thị trấn Sankt Wendel, thuộc tiểu bang
Saarland, Đức, vào năm 2012, nơi mà bà ta được sinh ra)
là tượng đồng Helene Demuth đang mang thai, được đặt
dọc theo Bức tường cổ ở thị trấn Sankt Wendel, thuộc tiểu bang
Saarland, Đức, vào năm 2012, nơi mà bà ta được sinh ra)
Tuy nhiên điều đáng lưu ý là trên trang mạng vn.wikipedia không hề nhắc đến vấn đề nầy và ngay cả nhân vật Helen Demuth và trong bài viết “At Home With Karl Marx” của Simon Sebag Montefiore, trên trang nytime, điểm sách “Love and Capital”, đã dí dỏm viết rằng:
“Hoặc như tác giả giải thích một cách không cần thiết: ‘Không biết là liệu việc nầy có phải là lần đầu tiên hay cuối cùng mà hai người đã có quan hệ tình dục.’ Tại sao việc nầy hoặc là một trong hai? Chắc chắn là việc đó có thể đã là lần thứ hai hoặc lần thứ 20 - và, trong sự mạo hiểm của việc thách thức cuộc tìm hiểu thông suốt chuyện tình dục của người Mác-xít một cách kỳ cục của bà Gabriel, những điều đáng làm một lần thì thường đáng làm một lần nữa. Cách nào nào đi nữa, cô Lenchen đã sinh ra một đứa con trai, Freddy (i.e. là Frederick Demuth, một cách gọi riêng khác). Engels giả vờ là cha của đứa bé, vốn là người đã trở thành một trong những bí mật về tiểu sử của ông Marx: Chính Stalin đã ra lệnh việc đó phải bị chôn vùi trong những kho tài liệu lưu trữ”
Quả thật, cho đến nay, người ta chưa tìm ra được sử kiện nào về vấn đề nầy trong kho tài liệu lưu trữ ở Liên Xô vốn được cho phép tham khảo trong hạn chế nào đó. Và những nước hiện còn đang theo chế độ Cộng sản hoặc những tổ chức Cộng sản trên thế giới không bao giờ dám để lộ điều bí mật nầy nếu họ biết hoặc chưa từng được biết đến.
Trong khoảng 34 năm phục vụ như là người tôi tớ trong gia đình ông Marx, và 7 năm trong nhà của ông Engels sau khi ông Marx qua đời, bà ta dành dụm được tất cả là 95 đồng
bảng Anh, tương đương 5 năm rưởi làm việc của một nữ công nhân trong nhà máy dệt, trong suốt cuộc đời của người quản gia. Số tiền đó có thể có được là trong 7 năm làm việc trong nhà của ông Engels vì gia cảnh của gia đình ông Marx rất túng thiếu, nghèo nàn, và bẩn thỉu (như trong chương 8 của cuốn sách “Love and Capital” cho biết qua báo cáo của nhân viên Phổ theo dõi ông ta trong thời gian còn ở thành phố Brussels, Bỉ) khi phải di chuyển hay bị trục xuất từ nước nầy sang nước khác trong khoảng 6 năm (1843--1849).
Nhưng trong bức hình dưới đây, gồm 3 đứa con gái của ông Marx và người bạn thân Engels, giả như như cô bé áp út Jenny Julia Eleanor khoảng 10 tuổi trong bức hình, tức là vào năm 1865, lúc ông Marx được 47 tuổi - đó là khoảng thời gian đang cư ngụ vĩnh viễn ở London-- cho thấy cuộc sống của họ khá sung túc hơn với sự trợ cấp hàng tháng của ông Engels qua cở xưởng của gia đình để lại ở London và sự giúp đỡ của người cậu giàu có, chủ ngân hàng và nhà kỷ nghệ tư bản, của Jenny Marx. Trong bài viết trên smithsonianmag “How Friedrich Engels’ Radical Lover Helped Him Father Socialism” của Mike Dash vào 1/08/2013, cho biết là:
“Ngay cả trước khi ông Engels trở nên khá giàu, ông ta thường gởi cho ông Marx nhiều như 50 bảng Anh một năm --tương đương vào khoảng 7.500 đô hiện nay, và vào khoảng 1/3 tiền phụ cấp hàng năm mà ông Engels nhận được từ cha mẹ mình”.
So với mức lương của nam công nhân trong nhà máy dệt khoảng 36 bảng Anh một năm theo bài viết “Living and working conditions” trên bbc.co.uk, gia đình ông Marx nhận được khoảng 2 năm tiền lương của một công nhân trong thời gian ở thành phố Manchester, Anh Quốc mặc dù đó chỉ là tiền chu cấp trong giai đoạn đầu khi ông Engels chưa càng lúc càng giàu hơn với vai trò quan trọng hơn trong nhà máy dệt ‘Ermen và Engels’ sau năm 1855.
(Ba đứa con gái còn lại của ông Marx và người bạn thân Engels,
từ trái sang phải: Friedrich Engels, Karl Marx (hàng trên)
và Jenny Laura (chị thứ hai), Jenny Julia Eleanor (áp út), Jenny Caroline (chị cả))
từ trái sang phải: Friedrich Engels, Karl Marx (hàng trên)
và Jenny Laura (chị thứ hai), Jenny Julia Eleanor (áp út), Jenny Caroline (chị cả))
Sau khi người vợ mất, 2 năm sau, ông Marx cũng mất và 12 năm sau đến lượt ông Engels qua đời vào năm 1895. Tác giả của bài viết “At Home With Karl Marx”, cho biết thêm:
“Khi bà Jenny mất vào năm 1881 và ông Marx mất vào năm 1883, những đứa con sống sót của họ, cô Tussy (i.e. tên riêng khác của Eleanor) và cô Laura, và những người đàn ông trong cuộc đời của họ, trở thành những người lãnh đạo phong trào, đặc biệt là sau khi ông Engels đã để lại cho họ một phần đáng kể của tài sản 4.8 triệu đô của ông ta”.
Tuy thế, vị Giáo sư Terrel Foster Carver cho biết thêm rằng tờ di chúc được viết vào ngày 29/07/1893, tức là đã được soạn cách đó 2 năm trước khi ông Engels qua đời, không hề có tên Frederick Demuth, đứa con hoang của ông Marx, thậm chí trong bản di chúc bổ sung vào ngày 26/07/1895, trước 1 tháng ông ta qua đời, mặc dù đứa con hoang đó lại mang cái tên Frederick của ông ta mà ông ta đã phải nhận dùm cho ông Marx. Dù là thế, ông Engels đã không dám đưa đứa bé về nuôi trong nhà, mà tìm cách giao cho nơi chăm sóc trẻ vốn là rất phổ biến trong thập niên 1850s, cho những gia đình nghèo.
Từ đó, ba cô con gái của ông Marx có cuộc sống sung túc hơn, và thậm chí họ có người giúp việc trong nhà như bà Helene Demuth đã từng phục vụ trong gia đình ông Marx. Mặc dù sau đó, đứa con hoang của ông Marx cũng không được ba cô con gái Mác-xít thừa nhận khác hơn là đứa con của bà quản gia nhà mình.
Sau nầy, Eleanor Marx (áp út) đã tự tử vào lúc 43 tuổi, 1898, khi phát hiện ra người đàn ông của mình, cũng là một nhà Mác-xít, Edward Bibbins Aveling, vốn là người mà cô Eleanor sống chung không chính thức từ năm 1884 --mặc dù ông ta đã kết hôn chính thức trước đó và vẫn duy trì danh phận cho đến năm 1892-- đã đánh cắp tiền và bí mật thành hôn chính thức với nữ nghệ sĩ sân khấu trước đó một năm, 1897. Người cuối cùng là Laura Marx, 66 tuổi, cùng người chồng Mác-xít, 69 tuổi, Paul Lafargue, tự tử khi cảm thấy mình không còn hữu dụng cho phong trào Cộng sản. Và họ đã để lại lá thư trình bày lý do, và không quên viết thêm câu: “Chủ nghĩa Cộng sản Muôn năm ! Đệ nhị Quốc tế Cộng sản Muôn năm !” Ngoại trừ Caroline Marx, người chị cả, tuy mất hơi sớm lúc 39 tuổi, 1883, nhưng để lại 5 cháu trai và 1 cháu gái cho dòng họ Marx bên ngoại.
(Còn nữa)
__________________________________
Những tài liệu tham khảo:
Kart Heinrich Marx (1818--1883):
1- Trên trang en.wikipedia, “Karl Marx”; “Hegelianism”; “Helene Demuth”; “Laura Marx”; “Edward Aveling”; “Mary Burns”; “Lydia Burns”.
2- Bài viết trên marxmyths “Marx’s Illegitimate Son” của vị Giáo sư Lý thuyết Chính trị, Terrell Foster Carver, tại Đại học Bristol, Hiệp Quốc Anh.
3- Bài viết trên washintongpost “Love and Capital: Karl and Jenny Marx and the Birth of a Revolution” của vị nữ Giáo sư Anh ngữ, Elaine Showalter, tại Đại học Princeton, Hoa Kỳ.
4- Tác phẩm “Love and Capital: Karl and Jenny Marx and the Birth of a Revolution” của Mary Gabriel, được xuất bản vào tháng 9/2011.
5- Trang de.wikipedia, “Helena Demuth”.
6- Trên trang wochenspiegelonline với bài viết “Über das Leben von Helene „Lenchen“ Demuth”(“Về cuộc đời của Helene ‘Lenchen’ Demuth”) vào ngày 2/02/2014.
7- Bài viết trên nytime “At Home With Karl Marx” của Simon Sebag Montefiore, vào ngày 23/11/2011.
b- Friedrich Engels (1820--1895):
Ông Engels được xem là cộc trụ thứ hai của lý thuyết Cộng sản. Ông ta xuất thân từ một gia đình giàu có, kinh doanh về sản xuất bông vải ở Đức và có thêm vài nhà máy kỷ nghệ khác, thậm chí có phần hùn làm ăn ở London, thuộc đạo Tin Lành. Tuy thế, cậu ấm Engels không hoàn tất được bậc Trung học. Vào năm 1841, lúc được 21 tuổi, chàng công tử phải thi hành nghĩa vụ quân sự như là một công dân Phổ nhưng chỉ có một năm. Đó là lúc, chàng công tử Engels được huấn luyện quân sự ở thủ đô Berlin trong Đội pháo Ngự lâm, và có dịp gia nhập nhóm tả phái Hegel, mang khái niệm vô thần, chống lại đạo Tin Lành của gia đình mình.
(Friedrich Engels lúc khoảng 22 tuổi, vào năm 1842,
khi vừa mới đến Manchester, Anh Quốc)
Sau khi được gia đình bóc khỏi quân đội vào năm 1842, chàng công tử Engels được gởi đến nhà máy sợi ‘Ermen and Engels’ thuộc khu Victoria, có phần hùn lớn của gia đình, ở thành phố Manchester, Anh Quốc. Cũng là lần đầu tiên, anh ta gặp Karl Marx lúc đó là 24 tuổi, lớn hơn anh ta 2 tuổi, tại Pháp trong khi trên đường đến Anh Quốc. Trong hai năm ở đó và sau nầy, khi trở lại Anh Quốc, anh ta sống chung với cô gái Ái Nhĩ Lan tha hương cầu thực, Mary Burns, nhưng không bao giờ thành hôn chính thức vì cả hai đồng tình trên quan điểm chống lại việc tổ chức cưới hỏi kiểu trưởng giả. Theo như tác giả Roy Whitfield trong bài nghiên cứu “The Doube Life of Friedrich Engels” (“Cuộc đời Hai mặt của Friedrich Engels”) có cơ sở chứng minh của mình, cho là cô bé Mary Burn có thể đã là nữ công nhân trong nhà máy đó từ lúc 9 tuổi, và sau đó đến năm 18 tuổi (1941), cô ta cùng người em gái Lydia Burns 14 tuổi xin làm việc nhà cho một họa sĩ. Kế đó, vào năm 1843, hai chị em Ái Nhĩ Lan vào giúp việc nhà cho Friedrich Engels. Trong 20 năm làm vợ, phụ giúp thâu thập tài liệu, lo việc nhà, tuy nhiên, cô Mary Burns gần như là một bí mật trong quan hệ với nhà kỷ nghệ tư bản Engels. Trong bài viết “Engels, Friedrich [Frederick] (1820–1895), businessman and revolutionary leader” (“Friedrich Engels (1820--1895), nhà Kinh doanh và là người Lãnh đạo Cách mạng”) của Gareth Stedman Jones trên Oxford Dictionary of National Biography (Tự điển Oxford về Tiểu sử Dân tộc) cho biết:
“Ở thành phố Brussels, Bỉ, vào năm 1847, thí dụ, một chứng nhân ghi nhận rằng cô Mary không được nhận biết bởi bà Marx; tương tự thế, vào năm 1851, trong trao đổi thư từ với ông Marx, ông Engels vẫn nhắc đến chính mình như là người độc thân. Cũng không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy là một trong hai chị em họ Burns từng được giới thiệu với gia đình ông Marx”
Sau khi Mary Burns mất vào năm 1863, lúc 40 tuổi, Karl Marx được cho biết. Và “Trên mặc khác, ông Engles cảm thấy đau đớn trong sâu thẩm khi ông Marx chỉ bảy tỏ sự đáng tiếc qua loa về cái chết của cô Mary trong bức thư van xin tài chánh cho gia đình mình”
Bài viết “How Friedrich Engels’ Radical Lover Helped Him Father Socialism” của Mike Dash có nhắc đến một đoạn nguyên văn của ông Marx như sau:
“Đó là điều rất ư khó khăn đối với anh, vốn là người đã có căn nhà với cô Mary, được tự do và đã rút ra khỏi tất cả sự nhơ nhớp của con người”.
Và ông Engels đã trả đủa lại trong sự tức giận:
“Bao gồm những người quen biết thuộc hạng phàm phu tục tử, đã cho tôi thấy, trong khoảnh khắc nầy vốn đã đánh vào tôi một cách thâm sâu, sự cảm thông và tình bạn nhiều hơn những điều mà tôi mong đợi. Anh bạn tìm thấy khoảnh khắc nầy thích hợp để trưng bày sự vượt trội của trí tuệ lạnh lùng của bạn”.
Sau đó, ông Engels công khai sống người em gái, Lydia Burn, với tên riêng là Lizzie cho đến khi cô ta qua đời vào năm 1878, lúc 51 tuổi. Trong 15 năm làm vợ, cô ta cũng không thành hôn chính thức với ông Engels; mãi đến khi cô Lizzie sắp mất trên giường bệnh, ông ta đành chìu lòng người vợ phá bỏ những nguyên tắc Cộng sản để thỏa mãn ao ước cuối cùng của cô ta là được chính thức thành hôn với ông ta.
(Lydia “Lizzie” Burns vào khoảng năm 1865, lúc 38 tuổi, công khai
sống chung với ông Engels từ lúc 36 tuổi, 1863, và chỉ được tuyên
bố chính thức cưới hỏi vào lúc 51 tuổi trong vài giờ trước khi qua
đời trên giường bệnh vào năm 1878 vì tinh thần Cộng sản cực đoan
của Friedrich Engels được thâm nhiễm từ Karl Marx)
Trên thực tế, chàng công tử Engels của thập niên 1840s rất phong lưu như trong bài viết “Marx’s Illegitimate Son” của vị Giáo sư Lý thuyết Chính trị, Terrell Foster Carver, trích dẫn từ Marx and Engels, Collected Works (London: Lawrence & Wishart, 1975--2004), qua lá thư của Friedrich Engels viết cho Karl Marx vào năm 1847 từ Paris:
“Điều thiết yếu tuyệt đối là anh bạn ra khỏi thành phố Brussels buồn chán một lần và đến thủ đô Paris, và về phần của tôi, tôi có sự khao khát rất nhiều đi chè chén no say với anh bạn. Nếu tôi có thu nhập là 5.000 quan Pháp, tôi sẽ không làm gì cả ngoại trừ tự làm vàtiêu khiển cho chính mình với những người phụ nữ cho đến khi tôi rã rời. Nếu không có những người phụ nữ Pháp nào, cuộc đời sẽ không đáng sống. Nhưng miễn là có những ả bán hoa, thật là hay và tốt đẹp biết bao!”
Trong bài viết “Feminist friend or foe?” (“Người bạn hay Kẻ thù của Phái nữ ?”) của Tristram Hunt, vốn là người ủng hộ Đảng Lao động, nhận xét về ông Engels như sau:
“Cuộc đời của Friedrich Engels, một người Mác-xít làm chủ nhà máy, là một trong những điều cực kỳ tự mâu thuẫn riêng biệt là khi điều đó liên quan đến vấn đề nữ quyền. Ông ta là một nhà xã hội chủ nghĩa vốn là người lên án việc sử dụng những gái mại dâm như là “việc bóc lột hữu hình nhất một việc trực tiếp tấn công thể chất giai cấp vô sản bởi giai cấp trưởng giả”, nhưng rồi ông ta thường xuyên thụ hưởng những dịch vụ của họ. Ông ta đòi hỏi vấn đề nữ bình, nhưng không thể chịu nổi người bạn chia sẻ thuộc những phụ nữ có tinh thần cao cả. Ông Engels là một kiến trúc sư có trí tuệ về nữ quyền xã hội chủ nghĩa, và là người phân biệt giới tính theo kiểu cách lỗi thời”.
Bài viết “Engels, Friedrich [Frederick] (1820–1895), businessman and revolutionary leader” của Gareth Stedman Jones, có đoạn:
“Từ tháng 11/1850 đến tháng 7/1869, ông Engels đã làm việc đầu tiên như là một nhân viên và sau đó (từ năm 1861) như là một người có phần hùn trong công ty ‘Ermen và Engels’, những nhà sản xuất bện sợi bông ở thành phố Manchester. Thu nhập của ông ta tăng từ khoảng 100 bảng Anh cho mỗi năm vào đầu thập niên 1850s đến khoảng 3.000 bảng Anh trong năm 1869. Trong suốt giai đoạn nầy, ông Engels đã kéo dài một cuộc sống hai mặt rất tinh vi. Như là một người Anh Quốc đại diện của công ty gia đình, ông ta duy trì chỗ ở tại trung tâm thành phố Manchester và tham gia vào lối sống của tầng lớp quý tộc trong kinh doanh của thành phố. Ông ta là một thành viên của Câu lạc bộ Albert và Manchester Athenaeum, cưỡi ngựa trong cuộc săn của Hội Săn bắn Cheshire, và bảo trợ Học viện Schiller”.
Câu lạc bộ Albert là nơi tụ tập của giai cấp trung lưu gốc Đức kinh doanh về bông sợi trong thành phố Manchester nơi bùng nổ kỷ nghệ hóa và là trung tâm trao đổi về bông sợi vào thế kỷ 19. Manchester Atheneaum là một xã hội dành cho “sự tiến triển và tỏa rộng kiến thức” trong một tòa nhà sang trọng, có thư viện, nơi giải trí, ăn uống, hội họp, v.v. của giai cấp quý tộc. Hội Săn bắn Cheshire là hội của những thành viên quý tộc thích cưỡi ngựa cùng đàn chó trong những cuộc săn bắn những con cáo. Học viện Schiller là một tổ chức gồm những nhà tư tưởng về chính trị và kinh tế quốc tế.
Và bài viết “Engels, Friedrich [Frederick] (1820–1895), businessman and revolutionary leader” của Gareth Stedman Jones trên Oxford Dictionary National Biography, cho biết chi tiết hơn:
“Sau khi Peter Ermen đã về hưu vào năm 1853, vai trò người hùn vốn giữa Godfrey Ermen và Frederick Engels thâm niên đã được làm mới lại. Dưới một hợp đồng 9 năm tiến hành từ tháng 6/1855, ông Engels, người trẻ hơn, hưởng được lợi ích một cách đáng kể. Từ 263 bảng Anh trong mỗi năm vào năm 1855, phần thu nhập của ông ta tăng lên 1.059 bảng Anh đến năm 1859”.
Cuộc sống hai mặt của ông Engels: một mặt là đời sống càng lúc càng trưởng giả hơn từ mức lương cơ bản 100 bảng Anh và 7.5 lợi tức từ phần hùn của gia đình, lên khoảng 263 rồi lên đến 3.000 bảng Anh, sau đó về hưu non vào năm 1869, lúc 49 tuổi với số tiền 12.500 bảng Anh so với mức lương của một nam công nhân nhà máy hảng dệt của ông ta là khoảng 36 bảng Anh theo như bài viết “Living and working conditions” trên bbc.co.uk. Và một mặt là những hoạt động đấu tranh cho giai cấp vô sản, bị bóc lột trong khi chính đời sống trưởng giả mà ông ta đang hưởng thụ lúc bấy giờ, cũng không khác gì sự bóc lột trên giai cấp đó. Sự bóc lột đó được san sẻ cho gia đình Karl Marx trong suốt thời gian còn lại của ông ta ở Anh Quốc khi nhận lấy phần tiền chu cấp hàng năm từ ông Engels để sinh sống mà cả gia đình Marx không cần phải lao động nhưng lại có cuộc sống khá hơn so với giai cấp lao động lúc bấy giờ.
Riêng về vấn đề đứa con hoang của người quản gia Helene Demuth trong gia đình Marx, có người nghi ngờ rằng tác giả chính là ông Engels, vì ông ta từng là một công tử phong lưu, có nhiều quan hệ với những ả bán hoa ở Pháp từ hạng sang đến bình dân. Như trong bài viết “How Friedrich Engels’ Radical Lover Helped Him Father Socialism” của Mike Dash, đưa ra bài nghiên cứu thuộc bậc Tiến sĩ của Belinda Susan Webb vào năm 2012, có tựa đề “Mary Burns”, thuộc tư liệu của Đại học Kingston không được ấn hành, trong sự nghi ngại rằng người vợ không chính thức của ông Engels, Mary Burns, là một ả bán hoa hạng bình dân mà ông ta đã gặp vài lần trước đây:
“Belinda Webb chú ý rằng người ta cho biết Mary Burns từng bán những trái cam tại Hội trường Khoa học của thành phố Manchester và ‘việc bán cam’ đã từng là cách nói bóng gió cho việc có liên quan đến trong vấn đề trao đổi tình dục”.
Cách viết của người Anh Quốc khi đề cập đến một ả bán hoa ngụ ý là ả bán cam vốn có xuất xứ từ câu chuyện có thật, nổi tiếng của nàng Nell Gwynne bán cam tại Hí viện Drury Lane, sau nầy trở thành tình nhân của vua Charles II từ năm 1670 đến cuối đời của ông ta.
Vì thế, sự nghi ngờ rằng ông Engels là người cha của đứa con hoang kia, cũng có thể có cơ sở. Tuy nhiên, nếu xét rằng chàng công tử Engels có thừa tiền trong cuộc sống phong lưu của mình, thì một Helene Dumuth chưa hẳn là điều khao khát của ông ta, vả lại ông ta đã có Mary Burns trước đó. Ông Engels đôi khi ghé thăm và đàm luận với ông Marx, riêng ông Marx hầu như chỉ quanh quẩn trong nhà. Vì vậy, cơ hội tiếp xúc với Helene Dumuth của ông Marx nhiều hơn ông Engels, nhất là những khi bà Marx vắng nhà, chạy tìm thêm tiền phụ giúp. Hơn nữa, trong những thời gian sống với Mary Burns, hai người không có con và ngay cả lúc sống công khai với Lydia Burns, cũng không có con. Điều đó cho thấy là dường như ông Engels không có khả năng truyền giống, ngoại trừ Karl Marx vốn là người đã chứng minh khả năng của mình qua một gia đình gồm 7 người con.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” trên trang marxists (tiếng Việt) hoặc (tiếng Anh) “Manifesto of the Communist Party” của Frederick Engels vào năm 1848 cũng do Karl Mark gợi ý trước và đưa ý kiến trong Phần II: Giai cấp Vô sản và Chủ nghĩa Tư bản, trang 43, nói về những biện pháp sẽ có thể áp dụng chung chung trong những quốc gia tiến bộ nhất. Mục thứ 3 là “Bãi bỏ tất cả quyền thừa kế”. Tuy nhiên, ông Engels lại viết di chúc để lại quyền thừa kế một phần nào đó trong tài sản cá nhân cho 3 đứa con của Karl Marx. Đối với những người Cộng sản trên khắp mọi nơi, mục thứ 3 nầy hoàn toàn không được áp dụng vì điều đó thực sự đụng chạm rất lớn đến quyền lợi cá nhân của những người Cộng sản mà đáng lý ra, theo chủ thuyết Cộng sản: tất cả tài sản thừa kế đều phải sung công vào xã hội, vì tài sản đó như là lợi tức thặng dư không do chính những người thừa kế tạo ra bằng sức lao động, đưa đến sự giảm năng xuất và ảnh hưởng đến giá cả thị trường kinh tế. Tương tự như ông Engels đã lý luận về việc bãi bỏ gia đình và quyền tư hữu trong tác phẩm “Nguồn gốc của Gia đình, của Chế độ Tư hữu, và của Nhà nước” trên trang marxists (tiếng Việt) hoặc (tiếng Anh) “The Origin of the Family, Private Property and the State” của Frederick Engels vào năm 1884 mà qua đó trong bài viết (dưới dạng pdf) “Marx, Engels, and the Abolition of the Family” (“Marx, Engels, và việc Bãi bỏ Gia đình”) của Richard Weikart trên trang csustan.edu (California State University, Stanislaus) của Đại học California thuộc phân khoa Lịch sử ở thị trấn Stanislaus, phê bình và phân tích rất tỉ mỉ về vấn đề bãi bỏ gia đình. Ngay cả Karl Marx, mặc dù trên lý thuyết là ủng hộ quyền tự do lựa chọn bạn đời nhưng chính ông ta can thiệp trực tiếp vào việc cô gái út, Eleanor Marx, yêu thương một người khá lớn tuổi hơn cô ta và chưa có thu nhập vững chắc cho cuộc sống.
Ông Engels là người luôn tỏ ra chống đối mạnh mẽ việc tổ chức đám cưới mà ông ta, và Karl Marx, cho là kiểu cách của giới trưởng giả. Ba cô gái còn lại của ông Marx không tổ chức cưới hỏi hoặc nhờ tu sĩ chứng giám, ngoại trừ trường hợp của ông Engels nhằm thỏa nguyện cho người vợ sắp chết và trường hợp của ông Marx nhằm làm vui lòng bên vợ. Tuy nhiên, những người Cộng sản về sau, từ Lenin, Stalin, và những con cái của họ, ngay cả những người Cộng sản ở nước khác như Việt Nam, Trung Hoa hiện nay lại ưu thích tổ chức đám cưới theo kiểu cách của giới trưởng giả và càng lúc càng phô trương lớn hơn giới trưởng giả tư bản chính hiệu.
(Tượng đài Marx-Engels tại Dinh thự Cộng hòa, Đức,
với hàng chữ chung quanh bên dưới: “wir sind unschuldig”
(“Chúng tôi Vô tội”) vào ngày 29/07/1991)
_________________________________
Những tài liệu tham khảo:
Friedrich Engels (1820--1895):
2- Bài viết trên jewishcurrents “Ab. Cahan Meets Friedrich Engels” của Yankl Stillman, vào ngày 1/12/2008.
3- Tác phẩm “The Frock-Coated Communist: The Revolutionary Life of Friedrich Engels” của Tristram Hunt.
4- Bài nghiên cứu “The Double Life of Friedrich Engles” của Roy Whitfield.
5- Bài viết “Engels, Friedrich [Frederick] (1820–1895), businessman and revolutionary leader” của Gareth Stedman Jones trên Oxford Dictionary National Biography.
6- Bài viết trên smithsonianmag “How Friedrich Engels’ Radical Lover Helped Him Father Socialism” của Mike Dash vào 1/08/2013.
7- Bài viết trên theguardian “Feminist friend or foe?” của Tristram Hunt (người ủng hộ Đảng Lao động, và là dân biểu sau nầy) vào ngày 29/04/2009.
8- Bài viết trên bbc.co.uk “Living and working conditions”
9- Tác phẩm “Nguồn gốc của Gia đình, của Chế độ Tư hữu, và của Nhà nước” trên trang marxists (tiếng Việt) hoặc (tiếng Anh) “The Origin of the Family, Private Property and the State” của Frederick Engels vào năm 1884.
10- Bài viết (dưới dạng pdf) “Marx, Engels, and the Abolition of the Family” của Richard Weikart trên trang csustan.edu (California State University, Stanislaus).
11- Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” trên trang marxists (tiếng Việt) hoặc (tiếng Anh) “Manifesto of the Communist Party” của Frederick Engels vào năm 1848.
c- Vladimir Ilyich Lenin (1870--1924):
Ông Lenin là nhân vật thường được gắn liền với cuộc Cách mạng Tháng Mười để khởi đầu một nhà nước Cộng sản Sô-Viết và với tham vọng muốn biến cả thế giới trở thành Cộng sản dưới ảo vọng đại đồng vô tưởng. Ông ta tên thật là Vladimir Ilyich Ulyanov - sau nầy đổi thành Lenin nhằm tránh sự ruồng bắt của cảnh sát Tsar (Nga hoàng) - được sinh ra trong một gia đình trung lưu, có học vấn, giàu có vốn xuất thân từ giai cấp nông nô thời Trung cổ. Bà nội của ông ta có nguồn gốc Mông Cổ, và mẹ của ông ta có nguồn gốc Do Thái cũng thuộc gia đình trung lưu, có học vấn, giàu có. Ông ta được cho ăn học đầy đủ và cuối cùng có được bằng luật sư tương đương với điểm danh dự trong vòng 1 năm.
Thuở nhỏ, cậu bé Ulyanov còn có tên gọi khác trong gia đình là Volodia. Theo vị nữ Giáo sư lịch sử học của trường Cao đẳng Wellesley, có bằng Tiến sĩ từ Đại học Harvard, Nina Tumarkin, qua cuốn sách “Lenin Lives!: The Lenin Cult in Soviet Russia” (“Lenin Sống mãi !: Sự sùng bái Lenin ở Nga Sô”) cho biết là:
“Cậu ta cũng là một đứa trẻ độc đoán, vốn là người trêu ghẹo những anh chị em, những người họ hàng, nghĩ ra những trò chơi mới, ra những quy luật, thích nắm quyền”.
Mặc dù cậu ta chứng tỏ là một học gương mẫu, thông minh, nhưng ít khi nào nhận được lời khen thưởng của người cha cho những thành tựu của mình như là cách sửa đổi lành mạnh. Người anh của cậu bé, Alexander (còn có tên Sasha), người mà cậu ta ngưỡng mộ và hay bắt chước, theo người chị cả Anna của cậu ta cho biết là thật ra người anh thứ hai Sasha không thích những hình ảnh về tính chất của cậu bé Volodia vốn “làm mếch lòng người”: tính kiêu ngạo, khuynh hướng nhạo báng, và tính láo xược của cậu ta. Như trên en.wikipedia cho biết thêm, vào lúc 16 tuổi, anh chàng Vladimir trở nên thất thường, và kình chống, không lâu từ đó về sau anh ta bác bỏ niềm tin vào Thượng Đế sau cái chết của người cha. Kế đó chàng sinh viên Alexander, người anh thứ hai, bị treo cổ vì là người được chọn thi hành việc ám sát Tsar (Nga hoàng) với quả bom tự chế vào năm 1887. Cũng vì thế, anh chàng Vladimir sau khi vào Đại học cũng vào năm 1887, khoảng ba tháng sau cái chết của Alexander, đã tham gia nhóm sinh viên cách mạnh và bị trục xuất khỏi trường vì bị xem là người cầm đầu cuộc chống đối ban quan trị nhà trường. Anh ta bị ở tù chỉ hai ngày và được trả về thái ấp Kokushkino của mình dưới sự giám sát. Đó là thờ gian rảnh rỗi cho anh ta đọc những cuốn sách triết lý mang tư tưởng cách mạng, cấp tiến, của người anh để lại. Và năm sau, 1888, gia đình được cho phép dời về vùng Kazan nơi mà anh ta gia nhập vào nhóm cách mạng khác và được giới thiệu về cuốn sách “Das Kapital (“Tư bản Luận”) phần I của Karl Marx --mà theo Giáo sư Nina Tumarkin, nó được dịch sang tiếng Nga vào năm 1872 (sau nầy những người Cộng sản thường hay tuyên truyền rằng ông Lenin tìm thấy cuốn sách “Das Kapital” nằm trong ngăn bụi bặm ở thư viện nào đó bên Anh Quốc như là một khám phá bất ngờ và rất giá trị). Sau khi dời đến vùng Samara, khoảng ba năm sau từ khi bị trả về quê nhà, vào năm 1890, mẹ của anh ta xin nhà cầm quyền cho anh ta được đi thi tốt nghiệp Đại học ngành luật và năm sau, anh ta đã qua được những kỳ thi đó với số điểm cao.
(Vladimir Ilyich Lenin (1870--1924) vào năm 1895 và vị hôn thê Nadezhda “Nadya” Krupskaya (1869--1939), là một cô giáo có tư tưởng Mác-xít, xuất thân từ gia đình trung lưu hơn nhưng về sau bị nghèo khổ, thuộc dòng họ quý tộc. Họ thành hôn trong nhà thờ vào năm 1898, nhưng hai người không có con)
Thật ra, nếu không có cuộc Cách mạng tháng Hai thành công thì sẽ không có cuộc Cách mạng tháng Mười cũng vào năm 1917. Đó là cuộc tuần hành vào ngày 8/03 nhân Ngày Phụ nữ Quốc tế ở thành phố Petrograd (là thành phố Saint Petersburg bị đổi tên vào năm 1914, và vào năm 1924, sau khi Lenin nắm lấy chính quyền, bị đổi thành Leningrad. Một lần nữa tên cũ của thành phố, Saint Petersburg, được trả lại vào năm 1991 sau khi Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ) của hàng ngàn phụ nữ Nga đi ngang qua những hảng xưởng gần đó làm khởi động hơn 50.000 công nhân trong cuộc đình công. Khi toán lính của Tsar (Nga hoàng) được điều động đến, họ không dám bắn vào những phụ nữ Nga mà bắt đầu nổi loạn và nhập vào những người biểu tình chống lại toán cảnh sát và an ninh. Trong những ngày cuối cùng những lực lượng Quân đội nổi loạn sát cánh với những nhà cách mạng. Tsar bị thay thế bởi Chính phủ Lâm thời Nga dưới quyền của Hoàng tử Georgy Lvov song hành quyền lực với nhóm lãnh đạo Petrograd Sô-Viết của những nhà xã hội chủ nghĩa, bao gồm những chính khách trong Duma (Hạ viện) và những người Menshevik (i.e. Thiểu số) của nhà Mác-xít Julius Martov --là nhóm không ủng hộ, và tranh chấp quyền lực với những người Bolshevik của Lenin.
Ông Lenin chỉ xuất hiện sau khi Quyền lực Song hành được thành lập. Ông ta được chính quyền Đức tài trợ và đưa đi bằng một toa xe lửa độc nhất xuyên qua nước Đức từ thành phố Zürich lớn nhất của Thụy Sĩ để trở về Nga vào tháng 4/1917. Kể từ đó, ông ta khích động nhóm Bolshevik của mình phá vỡ Quyền lực Song hành và tấn công Dinh thự Mùa đông để tiêu diệt toàn bộ dòng tộc Tsar (Nga hoàng) hầu thâu tóm quyền lực mà qua đó được gọi là cuộc Cách mạng tháng Mười.
Vấn đề tài chánh cũng là một việc nan giải cho công cuộc cách mạng của ông Lenin. Vì vậy, sau cuộc Cách mạng 1905, - vốn khởi đầu vào tháng 12/1904 qua cuộc đình công của 80.000 công nhân ở thành phố St. Petersburg (Petrograd) và được dẫn đầu bởi tu sĩ Georgy Gapon thuộc dòng Bảo thủ Chính thống tiến đến Dinh thự Mùa đông để trình bản kiến nghị, tuy đưa đến khoảng 1.000 chết nhưng làm bùng nổ thêm những cuộc nổi loạn khác dưới sự khích động của những người Bolshevik, phần lớn và Menshevik-- ông Lenin cùng những đồng chí mình tổ chứccuộc đánh cướp ngân hàng Tiflis với 40 người chết và 50 người bị thương cả hai bên, cảnh sát và nhóm đánh cướp, để đổi lấy số tiền cướp được là 341,000 ru-bi (tương đương vào khoảng 3.4 triệu đô vào năm 2008).
Trong đám tang của cặp vợ chồng Mác-xít: Paul Lafargue và Laura Marx vào năm 1911 ở Pháp, theo lời người vợ của ông Lenin, là Nadezhda Konstantinovna “Nadya” Krupskaya, ông ta đã nói với bà ta rằng:
“Nếu người ta không thể làm việc cho Đảng lâu hơn nữa, người ta phải có khả năng nhìn thẳng vào sự thật và chết giống như gia đình Lafargue”
Đến lượt ông Lenin, khi cú bệnh bộc phát lần thứ hai vào tháng 12/1922 làm cho ông ta bị bại liệt phía bên phải, sau đó, ông ta mới chịu rút khỏi những hoạt động chính trị. Tuy thế, có lẽ ông ta nghĩ rằng mình vẫn còn khả năng làm việc cho Đảng, nên không tự tử như ý niệm mà có lần ông ta đã nói với người vợ mình trong đám tang nhà Mác-xít Lafargue. Và ngay cả trong suốt khoảng 1 năm, sau khi ông ta hứng chịu cú bệnh bộc phát lần thứ ba vào tháng 3/1923, phải ngồi xe lăn và bị câm trước khi mất vào tháng 1/1924, nhưng ông ta vẫn “không có khả năng nhìn thẳng vào sự thật và chết giống như gia đình Lafargue, khi không còn có thể làm việc cho Đảng”.
Và về chứng bệnh của ông ta, trang en.wikipedia cho biết:
“Mặc dù việc chẩn đoán chính thức về cái chết từ những hậu quả bộc phát, nhà khoa học Nga, Ivan Pavlov,báo cáo rằng ông Lenin chết vì bệnh giang mai tác động đến thần kinh, theo một công bố của V. Lerner và nhữngđồng nghiệp trong Tạp chí Thần kinh học Âu châu (European Journal of Neurology) vào năm 2004. Những tác giả cũng lưu ý rằng ‘Điều có thể là kỹ thuật DNA tương lai được áp dụng cho thể chất bộ não được bảo quản của ông Lenin có thể cuối cùng thiết lập hay bác bỏ bệnh trạng giang mai thần kinh như là nguyên nhân chính cho cái chết của ôngLenin’.”
(Vladimir Lenin vào tháng 3/1923 hứng chịu cú bệnh
bộc phát thứ ba làm cho ông ta bị câm và phải ngồi xe lăn cho đến chết)
Và bài viết trên nytimes “A Retrospective Diagnosis Says Lenin Had Syphilis” (“Sự chuẩn đoán trở lại cho biết là ông Lenin có bệnh Giang mai”) của C.J. Chivers trên vào ngày 22/06/2004, về cuộc thảo luận của những bác sĩ Âu châu vốn được đăng trên The European Journal of Neurology (Tạp chí Thần kinh học Âu châu) có đoạn như sau:
“Trong số những người ủng hộ kết luận của họ là nữ Bác sĩ Deborah Hayden, tác giả của của cuốn sách “Bệnh lậu: Thiên tài, sự Điên rồ, và những Bí ẩn của bệnh Giang mai” (“Pox: Genius, Madness, and the Mysteries of Syphilis”)(do nhà xuất bản Basic Books, 2003).
‘Một số lượng những người viết tiểu sử Lenin đã thông báo rằng những bác sĩ có mặt lúc ông ta mất nghi ngờ là bệnhgiang mai, nhưng cho đến khi bài viết nầy không ai đã thu thập thông tin xác đáng lại vào một nơi,’ bà Hayden viết trong một tin thông báo qua thư mạng. ‘Những tác giả lập luận một cách đáng thuyết phục rằng ông Lenin đã chịu khốn khổ từ bị bệnh giang mai viêm mạch máu màng não trên giường bệnh của mình’.”
Ông Lenin luôn tỏ ra là một người rất khôn khéo trong chính trị, biết lúc nào nên nhường bước trước áp lực (qua những lần hợp tác và ký hòa ước nhượng đất cho Đức), và tấn công khi nào có thời cơ (cuộc Cách mạng tháng Mười). Cũng như ông ta luôn tỏ ra là một mô hình gương mẫu, và vì lý do nầy, ông ta không thích sự sùng bái cá nhân mà chính quyền Sô-Viết đã xây dựng chung quanh ông ta như là một thánh nhân của Chủ nghĩa Cộng sản và những huyền thoại về tuổi thơ ông ta cùng cha mẹ. Tuy thế, ông ta thừa nhận rằng việc sùng bái cá nhân có thể mang lại nhiều lợi ích trong việc kết hợp đồng nhất cho phong trào. Điều nầy được chứng minh một lần nữa trong tác phẩm “Lenin Lives!: The Lenin Cult in Soviet Russia” của Nina Tumarkin, qua lời văn của chính ông Lenin:
“Chúng ta làm quá ít trong việc giáo dục người dân bằng những tấm gương và mô hình sống động, trung thực được lấy ra từ tất cả moi trường cuộc sống, nhưng điều nầy là một công việc chính yếu của báo chí trong suốt cuộc chuyển đổi từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa cộng sản”.
Theo tác giả Robert Service, nhà lịch sử và tiểu sử, của tác phẩm “Lenin: A Biography” được xuất bản vào năm 2000, ông Lenin là
“một người hay u sầu và thay đổi, phơi bày sự thèm khát thực sự về bạo lực mặc dù không có ham muốn lôi cuốn chính cá nhân mình vào việc giết chóc.”
Theo tác giả Richard Pipes của tác phẩm “The Russian Revolution: 1899--1919” được xuất bản vào năm 1990, ông Lenin là
“một người có cái nét của sự tàn bạo và không phơi bày sự thương xót cho những người bị giết chết do nguyên nhân cách mạng”.
Và tác giả cũng khẳng định rằng điều nầy phát triển ra ngoài từ bản chất lạnh lùng hơn là thú tính tàn ác của ông ta.
_______________________________
Những tài liệu tham khảo:
Vladimir Ilyich Lenin (1870--1924):
1- Trên trang en.wikipedia, “Vladimir Lenin”; “Nadezhda Krupskaya”; “February Revolution”; “Karl Marx”; “Revolution of 1905”; “1907 Tiflis bank robbery”.
2- Tác phẩm “Lenin Lives!: The Lenin Cult in Soviet Russia” của vị nữ Giáo sư lịch sử học của trường Cao đẳng Wellesley, có bằng Tiến sĩ từ Đại học Harvard, Nina Tumarkin, được xuất bản vào tháng 4/1997.
3- Bài viết trên nytimes “A Retrospective Diagnosis Says Lenin Had Syphilis” của C.J. Chivers trên vào ngày 22/06/2004.
4- Tác phẩm “Lenin: A Biography” của Robert Service được xuất bản vào năm 2000.
5- Tác phẩm “The Russian Revolution: 1899--1919” của Richard Pipes được xuất bản vào năm 1990.
2- Nhóm thứ hai:
a- Joseph Stalin (1878--1953):
Joseph Stalin hoặc Iosif Vissarionovich Stalin là một nhân vật nối tiếp sau ông Lenin, được biết đến trên thế giới và trong nước Sô-Viết như là nhà độc tài Cộng sản, tương tự như Hitler là nhà độc tài Đức Quốc xã, từ giữa thập niên 1920’s cho đến lúc mất, 1953. Tên thật của ông ta là Ioseb Besarionis Dze Jugashvili. Chữ “Stalin” có nghĩa là thép, như là một trong những cái tên cách mạng khác của ông ta theo dạng như kiểu người Pháp tự đặt thêm tên cho mình trong thời chiến, cách mà những người Bolshevik ưu thích sử dụng và trở thành như một tập tục riêng cho hầu hết tất cả những người Cộng sản trong nước khác.
Cậu bé Ioseb được sinh ra trong một gia đình lao động, thường bị hành hạ bởi người cha ghiện rượu, Besarion Jughashvili, vốn là người làm lụn bại công việc vá giầy của mình. Sau đó, ông ta bị trục xuất khỏi thị trấn Gori, thuộc vùng Tiflis Governorate (là quốc gia Georgia ngày hôm nay) vì tội hành hung vị cảnh sát trưởng Nga hoàng. Năm 16 tuổi, chàng thanh niên Ioseb được trợ cấp học bổng để vào trường dòng Tiflis Chính thống Georgia ở vùng Tbilisi, sau đó bị đuổi khỏi nhà trường vì thiếu tiền học phí. Và từ đó, anh ta tham gia vào Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga, là một nhóm Mác-xít và hoạt động toàn phần thời gian, sống nhờ vào những tiền quyên góp.
Sau đó, chàng thanh niên Ioseb gia nhập vào nhóm Bolshevik khi Vladimir Lenin mới thành lập.Cuộc đánh cướp ngân hàng Tiflis vào năm 1907 - xảy ra lúc anh chàng Ioseb được 29 tuổi, sau khi anh ta có vợ - dưới sự điều động của ông Lenin, là một trong những hoạt động cách mạng của anh ta như là tuyên truyền, xách động đình công, và ám sát.
(Ioseb Besarionis dze Jughashvili (Joseph Stalin)
lúc 15 tuổi, 1893 và lúc 23 tuổi, 1901)
(Người vợ đầu tiên của Joseph Stalin, Ekaterina "Kato"
Svanidze (1885--1907), thành hôn vào năm 1906 và sau
khi hạ sanh đứa con trai vào tháng Ba năm sau, đã qua
đời vào khoảng 9 tháng sau vì bệnh)
Người vợ đầu tiên của ông ta qua đời sau một năm sống chung, và để lại đứa con trai duy nhất tên là Yakov Iosifovich Dzhugashvili. Vào đầu Thế Chế thứ II, chàng Yakov đã tham gia vào Hồng quân Liên Xô và bị bắt bởi Đức Quốc xã vào năm 1941 lúc mang chức vụ Trung úy. Sau khi bị chuyển trại đến trại tập trung Sachsenhausen - không chỉ có tù binh chiến tranh mà còn có những phần tử tội phạm dân sự, những người Cộng sản, những người theo tôn giáo Jehovah's Witnesses (i.e. Những Chứng nhân của Đức Jehovah), và những người Do Thái-- ở thị trấn Oranienburg vào tháng 3/1943 và bị bắn chết vào khoảng giữa tháng 4/1943, độ một tháng sau đó vì anh ta muốn tìm cái chết khi cố tình tiến gần đến hàng rào kẽm gai và bất tuân những lời cảnh cáo của lính canh. Lý do hữu lý nhất cho việc tìm đến cái chết của anh ta sau khoảng 4 năm bị giam giữ chính là sự kiện Joseph Stalin không đồng ý trao đổi Thống chế Friedrich Paulus của Đức bị bắt được với đứa con trai tù binh của mình. Như trên en.wikipedia, trích dẫn lời nói của ông Stalin từ bài viết “Historical Notes: The Death of Stalin's Son” trên trang Time vào ngày 1/03/1968 như sau:
“Anh bạn có trong tay không chỉ là đứa con trai Yakov của tôi, nhưng là hàng triệu những đứa con trai của tôi. Hoặc là anh bạn thả tất cả họ ra hoặc là đứa con trai của tôi sẽ chia sẻ số phận của họ”.
Trên trang rt (là trang Ukraine TimeLine) có bài viết “Stalin’s son was executed in Nazi camp – archives” (“Người con trai của Stalin đã bị Hành quyết ở trại Đức Quốc xã -- tin từ những kho lưu trữ tư liệu”) vào ngày 10/05/2012, có cả phần thu hình bản tin tường thuật của đài RT, đã khẳng định rằng Trung úy Yakov đã hét lên “Bắn !” khi anh ta cố tình bỏ qua những lời đe dọa của lính canh trên vọng gác qua những cuộc phỏng vấn một số người sống sót từng có mặt trong trại sau Thế Chế thứ II. Tuy nhiên, lúc bấy giờ và mãi về sau, qua sự tuyên truyền của nhà nước Liên Xô, nhiều người vẫn tin rằng Trung úy Yakov đã hy sinh trong trận chiến.
(Yakov Iosifovich Dzhugashvili (1907--1943), đứa con
trai duy nhất của Joseph Stalin và người vợ đầu tiên)
(Trung úy Hồng quân Liên Xô, Yakov Dzhugashvili, bị
bắt quân Đức vào ngày 16/07/1941, người thứ hai từ trái)
(Sổ thông hành của Yakov Dzhugashvili)
(Xác của Trung úy Yakov Dzhugashvili trên hàng rào kẽm gai
của trại tập trung Sachsenhausen ở thị trấn Oranienburg, Đức,
nơi anh ta mới bị chuyển trại đến vào tháng 3/1943 và bị bắn chết
vào khoảng giữa tháng 4/1943, sau gần 4 năm bị giam giữ)
Người vợ thứ hai mà ông Stalin lúc 41 tuổi cưới hỏi vào năm 1919 sau khi người vợ trước mất được 19 năm, là Nadezhda Sergeevna Alliluyeva, còn có tên khác trong gia đình gọi là Nadya, vào lúc 18 tuổi. Họ có được 1 trai tên là Vasily Iosifovich Dzhugashvili sinh năm 1921 và 1 gái, Svetlana Iosifovna Alliluyeva, sinh năm 1926. Nadezhda Stalin qua đời lúc 31 tuổi, 1932, sau 13 năm sống chung với chồng mình, với cái chết có nhiều nghi ngờ rằng chính Joseph Stalin là thủ phạm mà phần đông những người Nga đều cho là thế. Có nhiều nguồn tin khác nhau về cái chết của bà ta, như trong tác phẩm “Kremlin Wives” của Лариса Николаевна Васильева (Larissa Vasilieva) vào năm 1992, nơi trang 70, cho biết là:
“Bà Nadezhda nằm bên cạnh giường ngủ trên vũng máu kế bên khẩu súng lục mà người anh trai Parvel mang về từ nước ngoài như là món quà”.
Nhưng không khẳng định về lý do cái chết. Và đó là tất cả câu chuyện được kể lại sau nầy cho đứa con gái của bà ta, Svetlana.
Hoặc như trong tác phẩm “Khruschev Remembers: The Glasnost Tapes”(“Khruschev ghi nhớ: Những cuốn băng về chính sách Cởi mở”), được dịch ra bởi Jerrold L. Schecter và Vyacheslav V. Luchkov từ những cuộc phỏng vấn Nikita Sergeevich Khrushchev (là nhà lãnh đạo Liên Xô, sau khi Joshep Stalin mất) được ấn hành vào năm 1990, nơi trang 14 ghi theo lời của ông Khrushchev:
“Sau đó một lần nữa, trong một hoặc hai ngày, Kaganovich tụ tập lại một nhóm như trước đây và nói rằng ‘Tôi thay mặt Stalin nói chuyện. Ông ta yêu cầu tôi tụ tập các ông lại với nhau và cho các ông biết điều gì đã xảy ra. Bà ta không chết một cách tự nhiên. Bà ta tự tử”.
Kaganovich được nhắc đến, chính là Lazar Kaganovich, lúc bấy giờ là Bí thư đầu tiên của Ủy ban Trung ương của Đảng Cộng sản Ukraine, là một cựu Bolshevik sống sót được qua cuộc Thanh trừng Vĩ đại của ông Stalin từ năm 1934 đến 1940. Ông ta cũng được biết đến như là một “Lazar Sắt thép”.
Hoặc như trong tác phẩm “Before and After Stalin: A Personal Account of Soviet Russia from the 1920s to the 1960s” của Aino Kuusinen (là người vợ của Otto Wilhelm (Wille) Kuusinen vốn là người thành lập Đảng Cộng sản Phần Lan, sau khi thất bại trong cuộc nội chiến phải trốn qua Liên xô và làm việc cho ông Stalin) được dịch ra bởi Paul Stevenson từ tiếng Đức, được ấn hành vào năm 1974, nơi trang 92 có đoạn như sau:
“Thật bất ngờ, nữ Bác sĩ N. ra dấu và chỉ vào một vài vết bầm đen to lớn trên cổ thi thể. Chúng tôi nhìn gần hơn, và sau đó trao đổi những cái nhìn lấm léc thầm lặng - điều rõ ràng đối với tất cả chúng tôi là bà ta đã bị bóp cổ.”
Aino Kuusinen tường thuật lại theo lời người bạn thân vốn là một trong ba vị nữ Bác sĩ được gọi đến Cung điện Kremlin để trang điểm lại cho thi thể người vợ của ông Stalin, trước khi để vào quan tài chưng bày trước những người khách đến dự.
(Người vợ thứ hai của Joshep Stalin, Nadezhda Sergeevna
Alliluyeva (1901--1932), thành hôn vào năm 1919, lúc 18 tuổi
và ông chồng được 41 tuổi. Họ có 1 trai và 1 gái sau nầy. Qua
đời lúc 31 tuổi, sau 13 năm sống chung, với cái chết có nhiều
nghi ngờ rằng chính người chồng của bà ta là thủ phạm)
Trong khi đó, nhiều thông tin chính thức và bán chích thức của nhà nước Cộng sản Liên Xô cho là bà ta mất vì bệnh viêm ruột dư, hoặc uống quá liều thuốc ngủ vì sức khoẻ yếu. Tuy nhiên, qua nhiều tư liệu khác nhau với một ít chi tiết được phơi bày đó đây, cho thấy là câu chuyện tối mật nầy sau bức màn sắt Liên Xô có thể được hình dung như sau:
Ngày 7/12/1932 là lễ Kỷ niệm Cách mạng thường niên của Liên Xô, thường kéo dài cả tuần trong những cuộc liên hoan ăn nhậu thoải mái trong mọi hàng ngũ các cấp, và những món quà trao đổi nhau --có thể nói là lớn hơn cả ngày Giáng Sinh. Tuy năm 1932 cũng là năm đói kém bùng phát trước tiên ở Ukraine rồi lan ra đến những vùng lân cận đưa đến tổng số người chết từ 5 đến 10 triệu vào năm 1933 vì chương trình kỷ nghệ hóa của vị lãnh đạo cách mạng thế giới Stalin --như ông ta thường kiêu hãnh tự xưng-- nhưng cuộc lễ vẫn tưng bừng ở Cung điện Kremlin từ ngày nầy đến ngày khác. Sau cuộc diễn hành rầm rộ ngày hôm sau, 8/12, Ủy viên Nhân dân Kliment Yefremovich Voroshilov, cũng là Thống tướng, mời những người bạn thân thiết, bao gồm vợ chồng ông Stalin, đến căn nhà chung cư to lớn dự tiệc --sát vách căn nhà chung cư của ông Stalin. Joseph Stalin thường hay uống rất nhiều khi có dịp tiệc tùng, và tánh thô lỗ của ông ta qua hành động cùng lời nói càng hiện rõ hơn khi quá chén khiến cho bà Stalin không thể nào chịu được trước những người bạn của mình. Bà ta bỏ ra về trước với sự tháp tùng của ông Voroshilov lúc khoảng 1 giờ sáng.
Sau đó, mọi người lần lượt ra về, Joseph Stalin là người cuối cùng bước ra với người vợ của ông Gusev vốn là người thuộc về quân đội (theo như ông Khrushchev kể lại) và ngủ với bà ta ở một căn nhà nghĩ mát trong vùng Zubalovo, cách nơi ở của bà Nadya (Nadezhda) khoảng nửa cây số. Ông Stalin cũng được biết đến với tính phong lưu, bất chấp người phụ nữ đó là vợ của ai. Vì không thấy ông Stalin trở về, nên bà Nadya phone tìm kiếm và cuối cùng được một nhân viên bảo vệ cho biết tin tức trên. Khoảng 4 giờ sáng, ông Stalin trở về nhà trong vẻ mệt mõi, và cuộc cãi lộn bắt đầu khi bà Nadya thức giấc. Cho thấy là nguyên nhân cuộc cãi lộn vì ghen tuông hơn là về chính trị (phản đối công cuộc kỷ nghệ hóa) hay vấn đề xã hội (nạn đói kém ở Ukraine) như một số tác giả đưa thêm vào vì bản thân bà Nadya không phải là một hình ảnh chính trị hay xã hội mà chỉ là người làm nhiệm vụ người vợ, an hưởng cuộc sống sung túc, giàu sang, được trọng nể và bổng lộc. Bà ta chỉ hành động khi cảm thấy quyền người vợ bình thường bị tổn thương quá nhiều.
Có thể là Joseph Stalin trong lúc giận dữ đã bóp cổ người vợ mình quá mạnh bạo (với những dấu tay còn in lại) đến nổi bà ta tắt thở, và sau đó dàn cảnh tự tử bằng phát súng trong phòng ngủ. Kế đó, ông ta ra ngoài tiếp tục ngủ và được đánh thức bằng tiếng điện thoại báo tin lúc hừng sáng sau khi một số người quản gia phát hiện và thông báo cho nhân viên bảo vệ. Chính ông Voroshilov nghe tiếng kêu cứu của bà Nadya và chạy qua nhưng đã quá trễ (theo như bà Aino Kuusinen kể lại trong cuốn sách được nhắc đến ở trên. Sau nầy ông Voroshilov luôn bị đe dọa mặc dù ông ta từng là cánh tay đắc lực nhất trong cuộc Thanh trừng Vĩ đại trước đó).
(Ngôi mộ của người vợ Josef Stalin, Nadya Alliluyeva tại
nghĩa trang Novodevichy ở Moscow --không phải là
nghĩa trang Novodevichy ở Saint Petersburg)
(Bức điêu khắc bên trên bia mộ của Nadezhda Alliluieva,
với bàn tay phải chạm vào cổ mình ở ngay nơi mà những
dấu in ngón tay của kẻ bóp cổ đã từng hiện rõ)
Joseph Stalin nắm lấy quyền lực ngay sau cái chết của Vladimir Lenin vào năm 1924, khoảng 3 năm sau khi đứa con trai của người vợ thứ hai ra đời, 1921. Mặc dù ông ta được chính ông Lenin cất nhắc vào vài trò quyền lực, Joseph Stalin lại trở thành cái đích đáng ngờ nhất đối với Vladimir Lenin. Trong “Di chúc của Lenin” hoặc còn có tên là “Letter to the Congress” (“Lá thư cho Quốc hội”) có phần bổ sung di chúc về Joseph Stalin như sau:
“Stalin quá thô lỗ và và sự khiếm khuyết nầy, mặc dù còn có thể dung thứ được giữa những người Cộng Sản chúng ta và trong việc giải quyết trong vòng chúng ta, càng lúc không thể dung thứ được trong vai trò một vị Tổng thư ký. Đó là lý do tại sao tôi đề nghị rằng các đồng chí nên suy nghĩ về một cách rút ông Stalin ra khỏi chức vụ đó và bổ nhiệm một người khác trong vị trí thay thế ông ta vốn là người khác biệt đối với Đồng chí Stalin trong tất cả những khía cạnh khác, trong việc chỉ có một lợi điểm, một cách cụ thể, đó là về sự khoan dung hơn, trung thành hơn, lịch sự hơn, và ân cần hơn đối với các đồng chí, ít thất thường hơn, v.v. Hoàn cảnh nầy có thể dường như là một chi tiết không đáng kể. Nhưng tôi nghĩ rằng từ quan điểm về biện pháp bảo vệ chống lại sự chia rẽ và từ quan điểm về điều mà tôi đã viết ở trên về mối quan hệ giữa ông Stalin và ông Trotsky, điều đó không phải là một chi tiết [nhỏ], nhưng chính là một chi tiết vốn có thể cho là sự quan trọng quyết định.”
Cũng nên nhắc lại là Joseph Stalin không bao giờ “khoan dung” đối với bất cứ ai dám tỏ ra không tuân phục ông ta --bằng chứng là cuộc Thanh trừng Vĩ đại triệt hạ hầu hết những cựu Bolshevik, cũng là những người bạn, đồng chí của ông ta, mặc dù họ vẫn đang phục vụ trong guồng máy Liên Xô, ngoại trừ một số ít cũng là những cựu Bolshevik sống còn vốn nhờ vào việc tuân lệnh ông Stalin ra tay tiêu diệt lại chính những đồng chí Bolshevik của mình, như trường hợp ông Voroshilov, là Thống tướng lúc bấy giờ-- vì thế, không có gì là phi lý khi kết luận rằng ông Stalin chính là thủ phạm giết chết người vợ mình.
Vasily Iosifovich Dzhugashvili còn được biết đến như là Vasily Iosifovich Stalin, đứa con trai của người vợ thứ hai của ông Stalin, cũng tham gia vào Hồng quân lúc 18 tuổi trong những ngày đầu Thế Chiến thứ II, 1939 --nhưng thực chất là mãi đến năm 1941, Đức Quốc xã mới phá vỡ Hiệp ước Không xâm phạm với Liên Xô-- như đứa con trai của người vợ thứ nhất, và hưởng được nhiều ưu đãi hơn anh chàng Yakov Stalin, lúc bấy giờ được 32 tuổi. Anh ta hội nhập vào bộ phận hậu cần của Lực lượng Không quân như là một sĩ quan kiểm tra máy bay; trong vào 9 năm sau, 1948, anh ta trở thành vị Chỉ huy Lực lượng Không quân. Bốn năm sau, 1952, anh ta bị loại khỏi chức vụ vì một tai nạn máy bay trong ngày diễn quân khi ra lệnh tiến hành cuộc biểu diễn không lực trong thời tiết rất xấu.
Tiếp theo là cái chết của ông Stalin vào tháng 3/1953, khoảng 1 tháng sau, Vasily Dzhugashvili bị bắt vì bị cho là tiết lộ thông tin bí mật quốc gia trong buổi ăn tối với những chính khách ngoại quốc. Sau 7 năm bị cầm tù trong một nơi giam giữ đặc biệt, anh ta được thả ra, nhưng từ đó về sau, càng bị bạc đãi hơn ngoài chút chu cấp của nhà nước, và qua đời vào 2 năm sau, 1962, lúc 41 tuổi vì uống quá nhiều rượu.
Riêng đứa con gái của người vợ thứ hai của ông Stalin, Svetlana Alliluyeva, sau ít nhất là 3 đời chồng (được hai đứa con của 2 người chồng trước), và do ảnh hưởng phía bên người chồng thứ ba --dù không chính thức cưới hỏi vì sau cái chết của người cha mình, bà ta đã mất hết những đặc quyền và những quan chức Sô-Viết chống đối-- là một nhân vật chính trị Cộng sản Ấn Độ, Brajesh Singh, qua làm việc bên Liên Xô, bà ta cuối cùng quyết định xin ở lại Ấn Độ vào khoảng đầu năm 1967, lúc 41 tuổi sau khi ông chồng Brajesh qua đời vào tháng 11/1968, nhưng chính quyền Ấn Độ từ chối vì sợ làm hỏng những mối quan hệ với Liên Xô. Bà ta tìm đến tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Ấn Độ, và được một nhân viên thuộc cơ quan tình báo Mỹ, CIA, sắp xếp đi du lịch qua Ý và đến nước Thụy Sĩ trung lập tạm trú trong ba tháng. Chính Hoa Kỳ cũng e ngại gây thiệt hại cho mối quan hệ đang tiến triển với Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Cuối cùng, Tổng thống Lyndon B. Johnson, trên bình diện nhân đạo, đã đồng ý chấp nhận bà ta vào Hoa Kỳ và yêu cầu rằng không nên làm ầm ỉ thái quá. Bà ta đến thành phố New York vào tháng 4/1967.
(Svetlana Alliluyeva, đến New York vào ngày 27/4/1967,
lúc 41 tuổi, và có quốc tịch Hoa Kỳ vào năm 1978)
Cũng vào năm 1967, Svetlana Alliuyeva là tác giả của cuốn sách “Twenty letters to a Friend” (“Hai mươi Lá thư Cho một Người bạn”) được dịch ra bởi Priscilla Johnson McMillan, kể về cuộc sống thuở còn là “con chim sẻ bé nhỏ” hay “nàng công chúa bé nhỏ” (mà người cha bà ta thường hay gọi, lúc mẹ bà ta còn sống, nhưng sau khi người vợ mất, ông ta hầu như cách biệt hai đứa con) và diễn tả lại những cảm giác, cùng những cảm nhận về chế độ Cộng sản Liên Xô. Qua cuốn nầy, bà ta thu được hơn 2.5 triệu đô.
(Cuốn sách “Twenty letters to a Friend” mang
về 2.5 triệu đô cho tác giả vào năm 1967)
Tiếp theo là cuốn sách “Only One Year” (“Chỉ một Năm”) vào năm 1969, mô tả những biến cố chung quanh việc bỏ theo Tây phương. Vào năm 1970, bà ta thành hôn với William Wesley Peters, một nhà kiến trúc sư, và đổi tên thành Lana Peters, sau đó có một bé gái, Olga Peters nhưng cuộc hôn nhân chỉ được 2 năm. Sau khi đến Anh Quốc vào năm 1982, hai mẹ con trở lại Liên Xô vào năm 1984 và được phục hồi quyền công dân Sô-Viết. Cuốn sách thứ ba là “The Faraway Music” (“Âm nhạc Xa vời”) vào năm 1984 trong thời gian ở Liên Xô, phát họa sự vỡ mộng của mình với Hoa Kỳ và Anh Quốc khi cho là bà ta mất tự do vì luôn bị tình báo hai nước theo dõi. Sau những cuộc đụng chạm với những người có thẩm quyền ở Liên Xô, hai mẹ con dời về vùng Tbilisi, Georgia, là quê hương của người cha mình, Joseph Stalin, nhưng lại cảm thấy không khá hơn gì Moscow và tuyên bố từ bỏ quyền công dân Sô-Viết. Cuối cùng, họ quyết định trở lại Hoa Kỳ vào năm 1986. Sau một thời gian liên tục qua lại giữa Hoa Kỳ và Anh Quốc, bà ta trở về an trí ở Hoa Kỳ, tránh tiếp xúc với nhiều người và gần như sống cô lập, và qua đời vào năm 2011 tại thành phố Wisconsin.
Trong cuốn sách “Twenty letters to a Friend”, bà ta gợi nhớ lại giây phút sắp mất của người cha mình vì bệnh xuất huyết màng óc là “những giờ cuối cùng không gì cả ngoài sự bóp nghẹt từ từ”. Và trong khoảnh khắc đó, ông ta bất ngờ mở mắt ra và đảo mắt nhìn quanh phòng:
“Chính là một cái liếc nhìn kinh khủng, điên dại hoặc có lẽ tức giận và đầy nỗi sợ hãi cái chết... Cái liếc nhìn quét qua mọi người trong một giây. Sau đó, một cái gì đó không thể nào hiểu được và kỳ quái đã xảy ra mà cho đến ngày hôm nay, tôi không thể quên và hiểu nổi. Ông ta nhấc bàn tay trái của mình lên như thể là ông ta đang chỉ vào một cái gì đó bên trên và mang xuống tai ương trên tất cả chúng tôi”.
Có phải chăng đó là oan báo của người vợ thứ hai, Nadezhda Alliluyeva, đòi nợ thủ phạm vốn là người cố tình che lấp tội lỗi mình, và chôn vùi bức thư tuyệt mạng của bà ta ? Cũng là một cái chết bị bóp nghẹt từ từ nhưng chỉ khác là chính cơ thể của ông ta bóp nghẹt mình vì một vị lãnh đạo cách mạng thế giới với quyền uy tột bực trong một chế độ độc tài toàn trị Cộng sản, khó có ai có đủ khả năng làm cho ông ta bị chết nghẹt một cách chậm rãi như thế. Suốt cuộc đời ông ta là một kẻ vô thần, nhưng không thể nào không sợ hãi trước Thần chết.
Trong cuốn sách đó, bà ta bày tỏ cảm tưởng về vấn đề tôn giáo lúc vào tuổi 35 như sau:
“Tôi, vốn là người đã từng được dạy dỗ từ thuở nhỏ sớm nhất bởi xã hội và gia đình tôi để trở thành một người vô thần và duy vật, đã thực sự là một trong những người vốn không thể sống mà không có Thượng Đế... Đơn giản hơn là nhằm phân chia con người hôm nay thành những người có lòng tin và những người không tin tưởng”.
Và khi nhận xét về cuộc Cách mạng Nga:
“Không có một cuộc cách mạng nào đã từng phá vỡ quá nhiều giá trị vì người dân như cuộc Cách mạng Nga của chúng tôi”.
“Người dân muốn cách sống mà phần còn lại của Âu châu đã từng hưởng thụ từ lâu, cuối cùng đến với nước Nga”.
Chính Vladimir Lenin là người đầu tiên lót đường một cách khôn khéo, ngấm ngầm cho bệnh sùng bái, và Joseph Stalin là người làm phát triển cơn bệnh đó đến mức điên dại hoàn hảo nhất không thua gì Hitler trong những năm nào, với hàng trăm hình tượng khắp nước và những quốc gia nằm trong quỷ đạo Liên Xô. Ngay cả nền văn hóa, giáo dục cũng được biến đổi theo cung cách sùng bái lãnh tụ như là vị Thượng Đế bằng xương bằng thịt nào đó. Và cơn bệnh đó không chỉ bao trùm hầu như toàn thể dân Nga mà còn lan rộng đến những nước khác trong khối Cộng sản, đáng kể nhất là Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ. Chính là cơn bệnh nguy hiểm nhất đã từng ảnh hưởng trầm trọng trong nhiều thế hệ Cộng sản và cũng đang còn tiềm ẩn trong thế hệ hiện tại của những nước không còn là Cộng sản.
___________________________
Những tài liệu tham khảo:
Joseph Stalin (1878--1953):
1- Trên trang en.wikipedia, “Joseph Stalin”; “Ekaterina Svanidze”; “Vladimir Lenin”; “Nadezhda Alliluyeva”; “Svetlana Alliluyeva”; “Yakov Dzhugashvili”; “Sachsenhausen concentration camp”; “Vasily Dzhugashvili”; “Svetlana Alliluyeva”; “Otto Wille Kuusinen”; “Kliment Voroshilov”.
2- Bài viết trên trang rt “Stalin’s son was executed in Nazi camp – archives” vào ngày 10/05/2012.
3- Tác phẩm “Kremlin Wives” của Лариса Николаевна Васильева (Larissa Vasilieva) vào năm 1992, được dịch lại bởi Larissa Vasilieva và Cathy Porter vào năm 1994.
4- Tác phẩm “Khruschev Remembers: The Glasnost Tapes”, được dịch ra bởi Jerrold L. Schecter và Vyacheslav V. Luchkov từ những cuốn băng phỏng vấn Nikita Sergeevich Khrushchev, được ấn hành vào năm 1990.
5- Tác phẩm “Before and After Stalin: A Personal Account of Soviet Russia from the 1920s to the 1960s” của Aino Kuusinen, được dịch ra bởi Paul Stevenson từ tiếng Đức, được ấn hành vào năm 1974.
6- Trên trang maxists có đăng “Letter to the Congress” là Di chúc của Lenin vào tháng 12/1922 và phần bổ sung di chúc vào tháng 1/1923.
7- Bài viết trên news.bbc.co.uk “1967: Stalin's daughter defects to the West” vào ngày 9/03/1967.
8- Bài viết trên nytimes “Lana Peters, Stalin’s Daughter, Dies at 85” của Douglas Martin vào ngày 28/11/2011.
9- Bài viết trên rt “Prisoner of the name: Joseph Stalin’s daughter dies” vào ngày 29/11/2011.
10- Bài viết trên bbc.co.uk “Stalin's daughter Lana Peters dies in US of cancer” vào ngày 29/11/2011.
11- Tác phẩm “Twenty letters to a Friend” của Svetlana Alliuyeva được dịch ra bởi Priscilla Johnson McMillan, được ấn hành vào năm 1967.