Luận
về một đề tài chính trị (người ta
thường dùng 2 chữ “chính luận” cho ngắn gọn) bằng tiếng Việt mà lại để tựa bài
bằng tiếng La tinh thì có vẻ bất ổn, nhưng tựa đề bằng tiếng La tinh có nghĩa rộng hơn tựa đề bằng tiếng Việt,
do vậy độc giả có thể hiểu PAX AMERICANA
có nghĩa là “ HÒA BÌNH KIỂU MỸ “, hay “ HÒA BÌNH CỦA NƯỚC MỸ “ , hoặc là “ HÒA
BÌNH CHO NƯỚC MỸ” thì cũng không sai với
thực tế là mấy !
Học thuyết này không được người kế nhiệm là
Tổng Thống Bill Clinton áp dụng triệt để, một phần vì ông Bill Clinton chưa hiểu
gì mấy đến học thuyết này, phần khác Tổng Thống Bill Clinton và đảng Dân Chủ
đang là lãnh đạo của Hoa Kỳ (cũng là của thế giới) nhưng chưa ý thức được “vai
trò lãnh đạo thế giới” một cách đúng mức ,cho nên về mặt “đối ngoại” Hành Pháp
của ông Clinton đã có những bước đi lạng quạng (trộn lẫn với qườ quạng). Từ vai
trò của Hoa Kỳ tại vùng “sừng châu Phi” như ở Somalia, Erythrea, Ethiopia…cho đến
chiến cuộc ở Bosnia, Nam Tư cũ, rồi ngay cả khi 2 tòa đại sứ của Hoa Kỳ ở Phi
Châu bị khủng bố (số thương vong lên đến hàng trăm người) và chiến hạm Cole bị
phá hoại tại hải cảng Aden của Nam Yemen, hành pháp Clinton cũng chỉ trả đũa
chiếu lệ qua việc cho các tàu hải quân bắn hỏa tiễn Tomahawk vào các vùng rừng
núi Afghanistan (không ai biết bọn khủng bố có bị thiệt hại hay không ) . Ý kiến
riêng của tôi là Osama Bin Laden và tổ chức al-quaida đã thăm dò phản ứng của
chính phủ Bill Clinton, thấy chính phủ Clinton phản ứng yếu ớt và chiếu lệ, cho
nên tổ chức khủng bố Hồi Giáo mới tiến
hành kế hoạch tấn công triệt hạ nước Mỹ vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 trong nhiệm
kỳ đầu tiên của Tổng Thống George W. Bush.
Phản ứng đầu tiên để trả đũa bọn khủng bố Hồi
Giáo, Tổng Thống Bush hạ lệnh xuất quân tấn công vào Afghanistan để lật đổ
chính chuyền Taliban đã và đang bảo trợ cho al-quaida. Mọi người đều e sợ rằng
Hoa Kỳ sẽ rơi vào vũng lầy Afghanistan như Liên Sô trước đó mới 10 năm vì ai
cũng biết người Afghanistan hiếu chiến và cuồng tín cực độ, nhưng chỉ trong 3
tuần lễ quân đội Hoa Kỳ đã lật đổ chính quyền Taliban , đuổi các thủ lãnh của
Taliban chạy trốn vào vùng rừng núi giáp
ranh với Pakistan. Phản ứng thứ hai là quốc hội Hoa Kỳ thông qua luật Patriot
Act cho phép Hành Pháp “nghe lén” các phương tiện thông tin của đại chúng để
truy tìm những âm mưu khủng bố phá hoại nước Mỹ. Mặt khác thanh lọc những phần
tử đáng nghi ngờ không cho nhập cảnh vào nước Mỹ ( thanh lọc ngay từ các tòa đại
sứ Mỹ tại các quốc gia khác) đồng thời trục xuất những phần tử có dính líu đến
bọn khủng bố Hồi Giáo hiện đang cư ngụ tại Hoa Kỳ.
Luật Patriot Act được Lưỡng Viện Quốc Hội
Hoa Kỳ thông qua mà chỉ có 01 phiếu chống của một nữ dân biểu da đen thuộc đơn
vị Oakland Bắc Cali (bà này chống cho phải phép vì chẳng lẽ biểu quyết ở xứ dân
chủ như Hoa Kỳ mà lại có tới 100% các phiếu thuận thì giống mấy xứ Cộng Sản quá
), tỷ lệ như vậy thì coi như đạt 99.9%,
và nói theo kiểu của Việt Cộng : luật Patriot Act được thông qua với “tuyệt đại
đa số”các nghị sĩ và dân biểu liên bang Hoa Kỳ. Một bình luận gia chính trị
trên đài truyền hình Mỹ (tôi quên mất tên) mà trong cuộc bầu cử năm 2000 đã bênh
vực ứng cử viên Al Gore , đã khen Tổng Thống Bush quyết định sáng suốt bằng những
lời phát biểu như là : “…cũng may là
ông Bush đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ, chứ nếu
ông Al Gore đắc cử thì tôi không biết ông Gore phải làm gì trong thời kỳ dầu
sôi lửa bỏng như thế này…”.
Những chính trị gia người Mỹ cũng khôn lắm, thiếu gì những “đại gia” về Luật mà
tại sao họ lại chọn giáo sư Đinh Đồng Phụng Việt làm trưởng nhóm soạn thảo luật
Patriot Act ? Câu trả lời là giáo sư Việt không có tham vọng chính trị và cũng
không có ý định tranh cử, các ông bà luật gia dù Mỹ trắng hay Mỹ đen cũng đều sợ
đứng đầu ủy ban soạn thảo luật Patriot Act sẽ ảnh hưởng bất lợi cho cá nhân họ
khi ra tranh cử về sau, cho nên họ đã chọn giáo sư Đinh Việt – một người tỵ nạn
Cộng Sản, soạn thảo luật chống khủng bố toàn cầu,gần giống như luật chống Cộng
của VNCH ngày xưa vậy !!! Sau khi luật Patriot Act được thông qua, phân
khoa Luật của trường Đại Học Luật Khoa của Đại Học Texas “offer” cho ông một ghế Giáo Sư Thực Thụ , giáo sư Đinh Việt liền rời
chức Thứ Trưởng Tư Pháp về làm giáo sư tại đại học Texas.
Mặc dù ẩn mình trong khu rừng núi giữa biên
giới Afghanistan và Pakistan, Osama bin Laden vẫn có khả năng điều khiển hệ thống
al-quaida - đã ảnh hưởng và khống chế toàn thể chính quyền các quốc gia Arab và
Bắc Phi . Để vô hiệu hóa hiệu năng của hệ
thống al-quaida, Tổng Thống George W. Bush quyết định đem đại quân tiến vào
Trung Đông. Cho đến nay (2014), người ta cũng chưa hiểu rõ là chỉ với tin tức
tình báo chưa rõ rệt (là Saddam Hussein đang thủ đắc vũ khí hóa học có khả năng
giết người hàng loạt ) mà Tổng Thống Bush quyết định tấn công Iraq vào năm
2003, để rồi sau đó không tìm ra chứng cớ hữu hiệu nào cả. Tôi không chủ quan
khi đưa ra nhận định là : Tổng Thống Bush quyết định đưa đại quân Hoa Kỳ sang
Trung Đông với 2 mục đích là giải cứu
các chính quyền Trung Đông thoát khỏi sự cướp đoạt chính trị từ tổ chức
al-quaida và rồi sau đó dẹp tan tổ chức này. Iraq được chọn làm chiến trường
chính vì Saddam Hussein đang có tham vọng làm trùm khối Hồi Giáo Sunni để hình
thành đế quốc Hồi Giáo, quân đội Hoa Kỳ trú đóng tại Iraq sẽ là miếng mồi thu
hút các chiến binh Hồi Giáo quá khích của toàn vùng Trung Đông tìm đến Iraq để
được làm “Thánh Tử Vì Đạo” . Và quân đội Hoa Kỳ với vũ khí hiện đại sẽ giúp những chiến binh Hồi
Giáo quá khích mau chóng lên gặp đấng Allah để hưởng trinh tiết của 72 gái còn
trinh – (theo như kinh thánh của họ) mà không gặp sự lên án của thế giới vì các
Thánh Tử Vì Đạo này không có quốc tịch Iraq !!!
Chú thích của người viết : Tổng Thống Bush khi ra Quốc Hội Hoa kỳ đọc bản báo cáo đặc biệt
do cựu Ngoại Trưởng James Baker III cầm đầu, ông đã bỏ không đọc 5 trang báo
cáo của ủy ban nói về các ông hoàng +
các bà công chúa trong vương triều Arab
Seoud đã phải đút lót cho tổ chức al-quaida để bọn này để cho họ yên ( mặt khác
các ông hoàng +các bà công chúa xứ Arab Seoud cầu viện Hoa Kỳ trừ khử bọn quái
ác này - mà họ không có khả năng) . Đó
là lý do chính để Tổng Thống Bush đem đại quân qua Trung Đông, chỉ có Saddam
Hussein là ngu, mặc dù đại sứ Iraq tại Liên Hiệp Quốc đã báo động cho Saddam là
Hoa Kỳ sẽ đem quân qua Iraq là thật chứ không phải là hù dọa, ông đại sứ này
khuyến cáo là nên đáp ứng các đòi hỏi của
Hoa Kỳ như là cho phái đoàn vào thanh sát các địa điểm tình nghi chứa vũ khí
sát hại hàng loạt… Saddam không nghe vì tin tưởng vào 3 đại cường Nga, Trung Cộng,
Pháp có quyền phủ quyết tại Hội Đồng Bảo An (khổ nỗi Hoa Kỳ “bypass” không cần
họp nên 3 đại cường “bồ tèo” của Saddam không có dịp thi thố “quyền phủ quyết”
), Saddam cũng nghĩ rằng quân lực Iraq dư sức chận đứng quân đội Hoa Kỳ tại biên giới,
để rồi sau đó y sẽ bỏ tiền túi vận động kêu gọi bọn phản chiến la gào đòi rút
quân như hồi chiến tranh Việt Nam . Khi quân đội Hoa Kỳ chuẩn bị xong, sắp đến
giờ N là khởi hành, Saddam loan báo là sẽ đồng ý cho phái đoàn Hoa Kỳ vào Iraq
thanh sát các địa điểm bị tình nghi chứa chấp các loại vũ khí tàn sát hàng loạt,
thì đã “ too late ”.
Trận chiến Iraq hồi năm 2013, quân đội Hoa
Kỳ đánh bại quân đội Iraq chỉ trong 3 tuần lễ và một thời gian ngắn sau đó, 2
con trai của Saddam bị giết trước khi Saddam Hussein bị bắt: sau 5 tuần lễ, Tổng
Thống George W. Bush tuyên bố trên một chiến hạm đậu ngoài khơi San Diego rằng
“các chiến dịch hành quân lớn trên chiến trường Iraq chấm dứt”. Bộ trưởng quốc
phòng Donald Rumfield xin từ chức, Tổng Thống Bush yêu cầu ông Rumfield ngồi lại
Bộ Quốc Phòng trong khi chờ đợi ông tìm người thay thế. Đa số các nhà bình luận
thời sự cho rằng ông Rumsfield xin từ chức vì không thành công trong việc mang
lại hòa bình và ổn định cho Iraq, họ bình luận trên những gì mà họ thấy bên
ngoài Tòa Bạch Ốc và như chúng ta được biết: những gì thể hiện bên ngoài thì
không phải là thực chất bên trong chính sách của chính phủ Mỹ.
Ông Rumfield được Tổng Thống Bush khen ngợi
vì thành quả trận tấn công Iraq chỉ là kết quả của bài TEST của ông Rumfield đệ
trình lên Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ ngay từ thời ông Bush chưa là ứng cử viên được Đảng
Cộng Hòa đề cử. Qua chiến thắng tại Iraq, tôi nhận thấy 3 thành quả lớn lao của
ông Rumfield :
1/Thành
quả thứ nhất : Ông Rumfield đã vận chuyển 183,000 quân nhân Hoa Kỳ tham
chiến tại Iraq chỉ trong vòng 72 giờ, ông đã sử dụng tất cả phi cơ vận tải của
quân đội để chuyển quân đã đành, mà ông còn trưng dụng tất cả các phi cơ dân dụng
của tất cả các hãng máy bay của Hoa kỳ để chuyển quân (trong khi đó chính phủ
Hoa Kỳ trả tiền cho các hãng hàng không dân sự để thuê bao các máy bay ngoại quốc
chuyên chở hành khách Hoa Kỳ thay thế).
Chúng ta nên để ý rằng, chức vụ Chủ Tịch Ban Tham Mưu Liên Quân Hỗn Hợp của Hoa
Kỳ (tương đương với chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng của quân đội các quốc gia
khác) thông thường do một Đại Tướng Lục Quân hay do một Đô Đốc Hải Quân phụ
trách, nhưng trong thời ông Rumfield làm
Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, một Đại Tướng Không Quân (tôi không nhớ tên) làm Chủ Tịch
Ban Tham Mưu Liên Quân Hỗn Hợp, điều đó cũng có nghĩa là cuộc chiến sắp tới tại
Trung Đông , Không Quân Hoa Kỳ sẽ nắm phần trọng trách.
2/Thành
quả thứ hai: Sử dụng Không Lực
Hoa Kỳ làm mũi nhọn chính - để tránh trở
ngại do các quốc gia lân cận của Iraq không cho không lực Hoa Kỳ quá cảnh, Bộ
Quốc Phòng Hoa Kỳ đã đặt hàng mua các phi cơ oanh tạc chiến lược bay thẳng từ
các căn cứ quân sự ở tiểu bang Arkansas sang Iraq tác chiến (dĩ nhiên phải tiếp
tế nhiên liệu trên không từ các phi cơ vận tải C-130 , C-141 và Galaxy C-5 từ đảo
Guam trên Thái Bình Dương và đảo San Diego Garcia tại Ấn Độ Dương).
3/Thành
quả thứ ba : Phát minh chiến thuật dùng các đơn vị cấp đại đội của
Ranger (tương tự như đơn vị Biệt Động Quân của QL/VNCH) và các đơn vị cấp đại đội
của Special Force (tương tự như các đơn vị Biệt Kích của Lực Lượng Đặc Biệt của
QL/VNCH) dùng trực thăng nhảy vào sau lưng các đại đơn vị của địch để cắt đứt
các đường tiếp liệu nước và thực phẩm cũng như vũ khí đạn được của quân địch.
Người ta ngạc nhiên vì quân đội Iraq thiện chiến đã “cù cưa” với quân đội Iran
suốt 8 năm trời bất phân thắng bại, vậy mà vào năm 2003 các tư lệnh chiến trường
của quân đội Iraq lại bỏ chạy hay đầu hàng quá mau chóng như vậy ? Có người còn
phỏng đoán rằng CIA đã mua chuộc các tướng lãnh của Iraq rồi hay sao ? Iraq là một xứ sở có nhiều sa mạc lại ít mưa
không như miền đồng bằng sông Cửu Long của VNCH, cho nên khi biết đường tiếp viện
nước uống bị cắt đứt thì các tướng tư lệnh các sư đoàn bộ binh hay sư đoàn thiết
giáp của Iraq phải bỏ chạy hay đầu hàng vì con người có thể nhịn đói 1 tuần hay
10 ngày chứ không thể nhịn khát quá 2 ngày được (trước đó vào năm 1973, trong
trận chiến 6 ngày , quân đoàn III và quân đoàn IV của Ai Cập đã phải đầu hàng
trên sa mạc Sinai và rồi sau đó hội Hồng Thập Tự Quốc Tế - được sự cho phép của
chính phủ Israel – chở nước uống vào sa mạc Sinai tiếp tế cho 2 quân đoàn của
Ai Cập ! ). Sự đầu hàng quá mau chóng của lực lượng Iraq đã làm giảm thiếu tối
đa thương vong của quân đội Hoa Kỳ đồng thời đã giảm thiểu chiến phí rất nhiều.
Về vấn đề quân đội Hoa Kỳ bị thiệt hại do
quân du kích đặt bom và tấn công trong đường phố, chúng ta có thể hiểu là các
quân nhân tác chiến của Hoa Kỳ không được
huấn luyện để đối phó với các vấn đề an ninh trật tự của thành phố, cho nên sau
khi các chiến dịch hành quân lớn chấm dứt, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ kêu gọi các
quân nhân trừ bị tái nhập ngũ mà đa phần là các quân nhân trừ bị này đang nằm
trong lực lượng Cảnh Sát. Ông Rumfield nói với Tổng Thống Bush là ông đã hoàn
thành nhiệm vụ của ông, việc kế tiếp của Iraq nằm trong lĩnh vực chính trị và
bình định (pacification) , không phải sở trường của ông, và sau này như chúng
ta đã thấy : ông Robert Gates – cựu viên chức của cơ quan CIA thay thế ông
Rumfield làm Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng.
Khi các chiến dịch hành quân lớn tại Iraq
chấm dứt, các cuộc hành quân lớn nhỏ đã được tiến hành tại Arab Seoud , Yemen
và một số các quốc gia trong vùng Trung Đông và Bắc Phi mà tổ chức al-quaida có
hậu cứ, nhưng điều quan trọng nhất là các ngân hàng của các quốc gia vùng Trung
Đông và Bắc Phi đã phải tuân lệnh chính
phủ Hoa Kỳ là “freeze” tất cả các
accounts của al-quaida và các trương mục tư nhân đứng mũi chịu sào cho
al-quaida. Các “Thánh Tử Đạo” lên Thiên Đàng gặp đấng Allah thì còn có người
tình nguyện vào điền khuyết, chứ các accounts đang làm business cho al-quaida bị
freeze và tiền dollars bị mất thì không thể điền khuyết được, cho nên sau cuộc
tấn công của Hoa Kỳ vào Trung Đông thì tổ chức al-quaida không đạt được thành
tích nào coi cho được hết cả, giản dị là “NO MONEY, NO ACTION” vậy thôi. Theo
nhận xét của tôi, thành quả của chiến dịch “phong tỏa kinh tế” của Hoa Kỳ quan
trọng hơn là thành quả đã đưa được khoảng 100,000 “Thánh Tử Vì Đạo” lên Thiên
Đàng, dẫn chứng : ngay khi bị hạ sát hồi 2012, lãnh tụ Osama bin Laden của tổ
chức al-quaida có trong túi không tới 150 Euro (nên nhớ là trước khi Hoa Kỳ tấn
công vào Afghanistan, Osama bin Laden có trong tay hàng trăm triệu dollars ).
Ghi chú của người viết
: nếu làm một bài tính, cứ mỗi “Thánh Tử Vì Đạo” của Hồi Giáo được “enjoy “với
72 gái còn trinh , thì trong cuộc chiến tại Iraq vào năm 2003 cho đến bây giờ
2014, với hơn 100,000 “Thánh Tử Vì Đạo”
lên Thiên Đàng, thì Đấng Allah phải cung cấp 7.2 triệu gái trinh cho các Thánh
Tử Vì Đạo này ??? Bởi vậy các họa sĩ chuyên vẽ hí họa ở xứ Đan Mạch nhỏ bé đã có một bức họa vẽ
một người đàn ông giống như vị tiên tri Muhammad đang dùng cellulaz phone gọi
cho ai đó ở dưới cõi trần – với lời chú thích độc địa như là : “…nói
với chúng nó là hãy bớt đánh bom tự sát đi ( nghĩa là- hãy lên thiên đàng chậm
chậm lại) , lên nhanh và nhiều quá , làm sao tao “order” gái trinh cho kịp...”
Gần đây, tại Iraq phe Sunni và tổ chức ISIL
tiến quân nhanh chóng , chiếm được một phần đất của Syria giáp ranh với Iraq
cũng như chiếm được một số thành phố
quan trọng của Iraq như Mosul, như Tikrit (quê hương của Saddam Hussein ), ngay
cả thủ đô Baghdad có nguy cơ bị thất thủ , Thủ Tướng Maliki của phe Shi ‘ite
kêu gọi Hoa Kỳ giúp đỡ ; nhưng coi bộ chính phủ Obama ngó lơ, chỉ gửi tới Iraq
300 nhân viên dân sự (có lẽ giúp ích cho việc tình báo và thu thập tin tức) chứ
không thể có việc quân đội Hoa Kỳ trở lại Iraq tái chiến dù bất cứ hình thức
nào (may ra không lực Hoa Kỳ chỉ sử dụng phi cơ không người lái – drone mà
thôi). Những người cực hữu của Hoa Kỳ thì cho rằng Tổng Thống Obama quá yếu, họ
la lên rằng chính phủ của Tổng Thống Obama không thật tâm giúp chính quyền Iraq trở thành một chính quyền mạnh có khả năng thống
nhất đất nước…bằng cớ là không viện trợ cũng như không huấn luyện quân đội Iraq
có khả năng tác chiến cao. Dẫn chứng : phe Sunni và tổ chức ISIL ít quân hơn
nhưng những người cầm đầu quân sự của nhóm này đều là những sĩ quan cao cấp của
quân đội Iraq dưới thời Saddam, cho nên quân đội Iraq (hiện nay)đông hơn nhưng
ô hợp, thiếu trang bị và kỹ thuật chiến đấu kém đã phải bỏ chạy…
Theo ý kiến của tôi , Tổng Thống Obama bị trách oan vì
những lý do khách quan như sau :
Lý
do thứ nhất : người Mỹ là tổ sư sáng lập ra hệ
điều hành computer (thí dụ như ông Bill Gates
của công ty Microsoft) cho nên sáng kiến của ông Gates được chính phủ Mỹ
áp dụng trong việc điều hành MỘT TRẬT TỰ
TOÀN CẦU. Trong hệ điều hành computer, tất cả các software được download vào máy
đều sử dụng chung EXIT PROGRAM : tôi cũng sẽ không giải thích nhiều về chi tiết
của EXIT PROGRAM,nhưng để cho dễ hiểu, EXIT
PROGRAM giúp cho người sử dụng bước ra khỏi program mình đang làm (thí dụ
program thứ nhất ) để access vào program thứ nhì, access vào program thứ
ba..v..v..Rồi một lúc nào đó, người sử dụng quay trở lại program thứ nhất mà
các data – datum vẫn được save và không
cần khởi động lại từ đầu. Chuyện rút quân ra khỏi Iraq đã có từ thời Tổng Thống Bush còn tại chức,
do đó đến phiên Tổng Thống Obama là phải hoàn tất, chứ không phải ông Obama
thích và muốn “rút quân” theo ý kiến riêng của ông và của Đảng Dân Chủ. Không một
chính phủ nào lại muốn chi tiêu chiến tranh (dĩ nhiên là quá tốn kém) cho một
cuộc chiến kéo dài vô thời hạn.
Lý
do thứ hai : Cộng Sản Việt Nam cũng như Trung Cộng
và Liên Sô (cũ) thường hay la toáng lên
rằng “Đế Quốc Mỹ áp dụng chủ nghĩa thực dân kiểu mới” . Đây chỉ là lối tuyên
truyền xảo trá một chiều và cũng là một ngộ nhận sai bét vì rõ ràng khi lên
ngôi vị “cường quốc số một”, Hoa Kỳ
không đi xâm lăng chiếm hữu bất cứ quốc gia nào để làm thuộc địa cả ! Hoa Kỳ có
một sức mạnh ghê gớm mà cha đẻ của chủ nghĩa Cộng Sản là Marx và Engel (cũng như
Lenine , Staline và Mao Trạch Đông sau này) không bao giờ nghĩ đến : đó là sức mạnh của
người tiêu thụ Hoa Kỳ. Thực tế chúng ta thấy rằng, tất cả các quốc gia –từ các
quốc gia tiên tiến đến các quốc gia chậm tiến và kể cả các quốc gia thù nghịch về ý thức hệ với Hoa Kỳ - đều muốn
bán hàng cho Hoa Kỳ, bởi vì chỉ có dân chúng Hoa Kỳ mới chịu mua sắm và sẵn
sàng mắc nợ credit cards để mua các sản phẩm high-tech và fashion hiện đại.
Lý
do thứ ba : năm 1974, khi chứng kiến trận tranh
tài Vô Địch Bóng Tròn Thế Giới năm 1974 , đội banh của Hòa Lan trình diễn một đấu pháp khác lạ, đó
là lối đá banh theo đấu pháp tổng lực , nghĩa là không có hàng tiền đạo, trung vệ hay hậu
vệ gì hết. Họ đã tấn công đối phương bằng 10 cầu thủ giữ vai trò tiền đạo và
khi kéo về sân nhà phòng thủ tất cả 10 cầu thủ đều là hậu vệ. Trong tất cả những
cuộc chiến tranh cận đại, chỉ có Hoa Kỳ mới có khả năng sử dụng CHIẾN TRANH TỔNG
LỰC để vô hiệu hóa đối phương, thí dụ khi ban bố tình trạng chiến tranh sau vụ
tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tổng Thống Bush đã vận dụng mọi khả năng của
Hoa Kỳ như ngoại giao, tình báo hải ngoại , an ninh nội địa , quân đội, kỹ nghệ
tin học, kỹ nghệ chế tạo vũ khí mới (bom áp nhiệt của Kỹ Sư Dương Nguyệt Ánh là
một thí dụ), ngân hàng và tiền tệ trở
thành vũ khí mà các sách vở của các tổ
sư binh gia chiến lược như Tôn Tử và Clausewitz đều chưa nghĩ tới. Tôi phải kể
thêm là thị trường chứng khoán cũng là loại vũ khí mới mà chỉ có duy nhất Hoa Kỳ
mới có đủ khả năng sử dụng.
Dẫn chứng : vài năm
trước đây, các nước phương Tây và Hoa Kỳ thường la lên rằng Iran sắp sửa cho nổ
quả bom nguyên tử đe dọa nền hòa bình thế giới , Do Thái (Israel) thì lên tiếng
là sẽ dùng không quân để oanh tạc các lò nguyên tử trước khi chúng được vận
hành để chế bom. Thế rồi, sau đó Iran không thể có máy móc để làm giàu chất
plutonium và uranium nên kế hoạch chế bom nguyên tử cũng chỉ là giấy tờ để các
nhà đàm phán của các phe “bàn qua tán lại” cho hết thì giờ. Rất ít người biết rằng, kế hoạch chế bom nguyên tử của
Iran bị Hoa Kỳ dùng “thị trường chứng khoán ” phá hỏng. Cao điểm của giá dầu
thô lúc bấy giờ là suýt soát 140 dollars / một barrel ; tự nhiên không ai biết
rõ lý do nào, giá dầu thô lại bị sụt giảm xuống chỉ còn khoảng 40 dollars/ một
barrel. Iran và Nga sản xuất khoảng 2 triệu thùng dầu thô mỗi ngày, như vậy mỗi
nước mất 200 triệu dollars mỗi ngày và trong vòng một tháng mỗi nước bị mất 6 tỷ
dollars . Khoảng thời gian đó, nước Nga đã
phải 6-7 lần phá giá đồng bạc và phải
lấy số dollars dự trữ để mua nhu yếu phẩm cho dân chúng tiêu dùng. Iran
cũng phải làm y hệt như Nga, nghĩa là thay vì có dollars thu lợi từ giá dầu lên
cao, thì nay không còn dollars dự trữ để
mua trang thiết bị cho các nhà máy làm
giàu plutonium và uranium nữa, cho nên trái bom nguyên tử của Iran vẫn còn dậm chân tại các phòng thí nghiệm.
Tại sao giá dầu thô lại tăng lên tới 140
dollars / một barrel và tại sao đang từ 140 dollars tại tụt xuống 40 dollars / một barrel ??? Theo sự phỏng đoán có cơ sở của tôi, chính phủ Hoa Kỳ
đã dùng thị trường chứng khoán làm vũ khí để ngăn chận tham vọng điên cuồng của
các giáo sĩ hệ phái Shi’ite đang lãnh đạo nước Iran. Chính phủ Hoa Kỳ tung tiền thu mua rất nhiều
dầu thô, bỏ vào các kho dự trữ ở Texas, New Mexico, Arkansas… cho nên giá dầu
thô giá tăng đáng kể (số lượng dự trữ đủ để thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ của Hoa Kỳ
trong vòng 6 tháng – nếu xảy ra trường hợp chiến tranh). Giá dầu sụt giảm vì
chính phủ Hoa Kỳ đem bán số dầu dự trữ ra thị trường. Rồi khi Iran hết dollars
dự trữ, giá dầu thô lại từ từ lên trở lại .
Lý
do thứ tư : từ thế kỷ thứ bảy – sau khi tiên
tri Muhammad qua đời, Hồi giáo bị phân
hóa thành 2 hệ phái Sunni và Shi’ite, thù hận chém giết nhau hơn 14 thế kỷ (và cho đến nay – thế
kỷ 21 – vẫn còn thù hận chém giết nhau chí chóe). Hoa Kỳ không tạo ra sự thù hận
giữa 2 hệ phái của đạo Hồi, cho nên Tổng Thống Bush cũng như Tổng Thống Obama
không cảm thấy có trách nhiệm và nghĩa vụ để can ngăn hay làm cảnh sát “giữ gìn
hòa bình” cho dân chúng Iraq !!
Lý
do thứ năm : chính phủ Hoa Kỳ không muốn giúp đỡ
chính phủ Iraq hiện nay , vì biết chắc rằng chính phủ của thủ tướng Maliki chỉ
là cánh tay nối dài của chính quyền
Iran : chính phủ của ông Maliki đã đặt quyền lợi phe nhóm của mình (hệ phái Shi’ite)
cân nặng hơn quyền lợi của quốc gia Iraq. Sau cuộc bầu cử quốc hội, phe Shi’ite
chiếm đa số nên thủ lãnh của phe Shi’ite được chọn làm Thủ Tướng chính phủ. Hiến
Pháp mới của Iraq qui định Phó Thủ Tướng
chính phủ là thủ lãnh phe Sunni và Chủ Tịch Quốc Hội là lãnh đạo của sắc tộc
Kurd. Trong 8 năm cầm quyền, phe Shi’ite của ông Maliki đã chèn ép người Kirk
và trả thù phe Sunni (Phó Thủ Tướng là
người phe Sunni bị ông Maliki truy tố tội ủng hộ khủng bố và đã rời Baghda từ
lâu, còn Chủ Tịch Quốc Hội là người Kurd thì cũng không còn điều khiển Quốc Hội
Iraq nữa vì lý do an ninh cá nhân không được bảo đảm). Quân đội Hoa Kỳ còn hiện diện tại Iraq thì
phe Sunni chưa dám làm mạnh, bây giờ Hoa Kỳ đã rút hết quân tác chiến thì phe
Sunni chuyển động ngay. Theo ý kiến của tôi
: khi người Iraq không biết bảo nhau đoàn kết xây dựng đất nước Iraq,
thì Hoa Kỳ chẳng dại gì mất công dạy bảo hay ngăn trở các cuộc nội chiến, do đó
tương lai trông thấy được của Iraq là sẽ chia 3 : phía bắc giáp ranh với Thổ
Nhĩ Kỳ sẽ là quốc gia của người Kurd, miền Trung Iraq (tiếp giáp với Syria )sẽ
là quốc gia của phe Sunni , sau cùng miền Nam (diện tích lớn hơn 2 miền kia,
nhiều tài nguyên hơn…lại tiếp giáp với Iran) sẽ là quốc gia của phe Shi’ite.
Tôi đã trình bày khái lược (không đi vào
chi tiết) những phương tiện mà chính phủ Hoa Kỳ đã sử dụng để thực thi chính sách
PAX AMERICANA. Như vậy cứu cánh của PAX
AMERICANA là những gì ? Dĩ nhiên sự liệt kê của tôi trong bài viết này sẽ
không đầy đủ, mong đợi những ý kiến đóng góp thêm của quý vị độc giả để những
người Việt tỵ nạn Cộng Sản chúng ta tự chọn lựa và tự quyết định đứng về chiến
tuyến nào trong cuộc đấu tranh một mất một còn giữa cái THIỆN và cái ÁC của loài người.
Cứu
cánh thứ nhất : PAX AMERICANA
phải đem lại hòa bình cho quốc gia Hoa Kỳ và nhân dân Hoa Kỳ. Chiến
tranh là điều không hay , không tốt…nhưng nếu không thể tránh khỏi thì bãi chiến
trường phải nằm ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ. Dẫn chứng : Thế chiến thứ nhất và thế
chiến thứ hai đều xảy ra tại Âu Châu và Đông Nam Á, cho nên khi 2 cuộc thế chiến
này chấm dứt, chỉ có một mình Hoa Kỳ là có khả năng tái thiết cho phe thắng trận
cũng như 2 quốc gia Đức và Nhật – là 2 quốc gia thua trận
Đây cũng là lý do chính để giải thích tại
sao vừa mới bị al-quaida phá hủy Twin Tower ở New York ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tổng Thống Bush mở ngay 2 cuộc chiến tại Afghanistan và Iraq để thu hút các chiến binh Hồi giáo quá khích
tập trung vào chiến đấu với đội quân chuyên nghiệp và thiện chiến của Hoa Kỳ
thay vì cứ loay hoay ngăn chận bọn phá hoại ngay tại Hoa Kỳ. Và nếu chiến tranh
ngay tại nội địa Hoa Kỳ thì tinh thần của dân chúng Hoa Kỳ sẽ bất ổn và hoang
mang vô cùng.
Cứu
cánh thứ hai : PAX AMERICANA
phải thể hiện tinh thần THƯỢNG TÔN LUẬT PHÁP của Quốc Gia Hoa Kỳ : ngay
từ thời lập quốc, các tổ phụ của Hoa Kỳ đều là những luật sư có tinh thần dân
chủ và nhân bản cho nên Hiến Pháp của Hoa Kỳ đứng vững suốt hơn 200 năm nay, chỉ
có thêm các tu chính án chứ không sửa đổi
hoàn toàn. Đối chiếu với nước Pháp – là nơi cách mạng dân quyền xảy ra năm 1789
(lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế của dòng họ Bourbons), cho đến nay cũng đã
phải trải qua 5 nền cộng hòa với những bản hiến pháp khác nhau. Địch thủ chính
trị của Hoa Kỳ là Liên Sô (chế độ Cộng Sản) hiện hữu từ năm 1917 đến 1991 cũng
thay đổi rất nhiều hiến pháp và bây giờ chả ai thèm nhắc tới tìm hiểu vì chế độ
Cộng Sản đã bị vất vào sọt rác Lịch Sử từ hơn 20 năm rồi.
Khi Osama bin Laden và tổ chức al-quaida
phá sập Twin Tower vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tổng Thống George W. Bush ban
hành lệnh WANTED đối với Osama bin Laden có nghĩa là LUẬT PHÁP HOA KỲ truy tố và trừng trị những tên phạm pháp, chứ
không phải là người cầm đầu Hành Pháp Hoa Kỳ “nổi giận rồi trả thù cá nhân
Osama bin Laden”. Chỉ có tên Việt Cộng đội lốt sư là Nhất Hạnh mới lên tiếng
kêu gọi Tổng Thống Bush calm down và nên lắng nghe + thương thuyết với phe Hồi
Giáo !!! Nếu nghe lời của tên Việt Cộng đội lốt sư thì xã hội Hoa Kỳ đã tan hoang từ
lâu, thí dụ từ 1930 Al Capone hoành hành ở Chicago chả hạn, cảnh sát Hoa Kỳ đâu
có ai đi thương thuyết với Al Capone ,
mà họ tìm cách bắt giữ rồi đưa ra tòa trị tội ông trùm Al Capone, về sau ông
trùm Al Capone bị nhốt ở đảo Altracaz rồi bị chết trong nhà tù (bị bệnh giang
mai) trong lúc chưa xong án tù.
Cứu
cánh thứ ba : PAX AMERICANA
phải truyền bá tư tưởng dân chủ
và giúp đỡ các nước thiết lập chế độ dân chủ. Khi còn trẻ, tôi vẫn nghĩ là cứu
cánh thứ ba khó thực hiện và thiếu hiệu quả. Nhưng thuở sinh thời, luật sư Nguyễn
Hữu Hiệu đã từng nói với tôi rằng cứu cánh thứ ba mới diệt được những chế độ độc
tài và giúp ổn định nền hòa bình thế giới. Gần đây khi quan sát tình hình chính
trị các nước Đông Âu, những quốc gia như Ba Lan, Tiệp, Slovakia, Bulgaria,
Rumania…các thể chế dân chủ dần dần được hoàn thiện thì chúng ta thấy ít xáo trộn
và ít bị rắc rối hơn những xứ Nam Tư cũ,Ukraina gần đây chả hạn. Nói rõ hơn, chính phủ Hoa Kỳ biết rõ Nga và
Trung Cộng đã “xuất cảng” chính sách “hối lộ” cho một thiểu số cầm quyền rồi
truyền dạy “kỹ thuật tham nhũng” để giữ chặt các nước đàn em cũ trong vòng tay
của họ (Việt Nam là một thí dụ điển hình nhất, đã rập khuôn theo mô hình kinh tế
của Trung Cộng – để rồi không làm sao thoát khỏi sự kiềm tỏa của Trung Cộng)
Cứu
cánh thứ tư : PAX AMERICANA
phải thể hiện tinh thần hào hiệp , hay giúp đỡ các quốc gia khác thoát
khỏi cơn hoạn nạn , nhưng chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ không làm việc theo kiểu
“Bồ Tát Cứu Độ Chúng Sinh”. Dẫn chứng : Bắc Hàn không chịu lo trồng trọt sản xuất
lương thực nuôi dân mà cứ lo”thử nghiệm hạt nhân” và “bắn thử hỏa tiễn tầm xa” để hù dọa Hoa Kỳ ,
Nhật Bản và Nam Hàn phải viện trợ cho Bắc Hàn (giống tình trạng “ăn vạ” của
nhân vật Chí Phèo trong tiểu thuyết của nhà văn Nam Cao). Năm 2004, tai nạn
sóng thần Tsunami chỉ trong không đầy một phút đã giết hơn 200,000 người ở
Indonesia (tôi không kể số người chết ở các quốc gia khác), hàng triệu người
lâm vào cảnh không còn nhà, không lương thực, không nước uống, không quần áo. Tổng
Thống Bush ra lệnh cho hạm đội Thái Bình Dương và hạm đội Ấn Độ Dương đến tiếp cứu
Indonesia; khi phóng viên hỏi cảm nghĩ của
những người sống sót, đa số phát biểu giống nhau, như là : “…sau cơn hoạn nạn,
chúng tôi thấy phi cơ trực thăng của Marines Hoa Kỳ (Thủy Quân Lục Chiến HK)
bay trên bầu trời là chúng tôi hò reo vui mừng vì biết chỉ có Hoa Kỳ mới có khả
năng và phương tiện . Ngay trong đợt đầu đã có hàng triệu chai nước uống đóng sẵn
và hàng triệu gói mì gói phân phối cho những người sống sót.
Sự viện trợ nhân đạo như vậy thì không cần
bên tiếp nhận hoàn trả, nhưng nếu là những người lương hảo, chính phủ và nhân
dân Indonesia không thể xem Hoa Kỳ là “thù nghịch” được.
Cứu
cánh thứ năm : PAX AMERICANA thể hiện phương cách hành xử của
chính phủ Hoa Kỳ đặt căn bản trên lý tưởng và quyền lợi của quốc gia Hoa Kỳ
mà không có bất cứ sự ràng buộc hay chỉ đạo từ bất cứ lý thuyết hay tổ chức tôn
giáo nào. Những người bạn gốc Công Giáo
của tôi thường khoe rằng công lao đánh đổ chế độ Cộng Sản Liên Sô hồi năm 1991
là hoàn toàn do công của Giáo Hoàng John Paul II, tôi cứ để cho họ “tự sướng” ,
chỉ nói cho họ biết là không có Tổng Thống Reagan thì ước muốn của Giáo Hoàng
John Paul II cũng vẫn chỉ là ý nghĩ, không thể chuyển qua giai đoạn “hành động” được. Một số các chiến hữu
của tôi thường hay “chửi” ông Henry Kissinger có gốc Do Thái nên hy sinh VNCH,
tôi cũng không tranh luận hay biện minh cho ông Kissinger gì cả, chỉ nhắc khéo
là “ Hoa
Kỳ không có đồng minh muôn thưở, mà cũng chẳng có kẻ thù muôn đời”, bởi
vậy nếu quốc gia Do Thái không có “lợi hòa đồng chia” với Hoa Kỳ thì có lẽ dưới áp lực và bị tấn công
nhiều lần của các quốc gia Arab xung quanh, quốc gia Do Thái đã biến mất từ lâu
rồi. Một số khác (phần lớn là các Phật tử) lại thường hay chỉ trích chính sách
“toàn cầu hóa” của chính phủ Hoa Kỳ, họ nghĩ rằng chính sách toàn cầu hóa sẽ làm
nhạt đi “tính dân tộc” của các quốc gia khác, nhưng họ quên rằng chính phủ Hoa
Kỳ không ép buộc các quốc gia khác “phải” toàn cầu hóa như Hoa Kỳ, mà là các quốc
gia khác nếu muốn tiến bộ thì tự động phải “toàn cầu hóa”, thế thôi.
Bài viết này không phải để tán tụng nịnh bợ
chính phủ Hoa Kỳ hay củng cố đánh bóng những “ưu việt” của quốc gia Hoa Kỳ. Xin
hiểu cho nội dung của bài viết này là suy nghĩ của người viết trong khía cạnh
“tích cực” của vấn đề “ảnh hưởng của Hoa Kỳ” trên toàn thế giới, tương tự như
những phát biểu của một thầy bói sờ vào một bộ phận của con voi, cho nên sự thiếu
sót là điều tất yếu. Và người viết mong đợi các suy nghĩ của các quý vị thức giả
khác về các khía cạnh khác, không phải để bày tỏ sự hơn thua về kiến thức, mà
là để tất cả những người đọc trên các diễn đàn ảo có thêm phần học hỏi và trao
đổi.
Trân trọng.
San Jose ngày 16 tháng 7 năm 2014
TRẦN TRUNG CHÍNH