Saturday, 9 August 2014

Chưa Bao Giờ Phản Động Đáng Kính Đến Thế


Trong thời gian qua, với từng bước xâm lấn ngày càng trắng trợn của Trung Cộng (TC), người ta càng thấy Ban Tuyên Giáo Trung Ương lúng túng không biết biện hộ thế nào cho chính sách cứ từ bại đến thua của lãnh đạo Đảng CSVN. Và như để bù vào khoảng trống đó, đạo quân dư luận viên (DLV) được lệnh túa ra chửi hết mọi người là "phản động".

 - Ai nhắc lại chuyện lỗ lã Bôxít Tây Nguyên và có địch trên Nóc nhà Đông Dương... là phản động.

- Ai đụng tới chỗ nhược 16 chữ vàng, 4 tốt và quan hệ hữu hảo... là phản động.

- Ai tự tưởng niệm các chiến sĩ Hoàng Sa, Trường Sa, Biên giới 1979... là phản động.

- Ai còn tiếc rẻ vụ sửa Hiến Pháp thua cả Miến lẫn Miên... là phản động.

- Ai đòi bất cứ cái gì "độc lập"... đều là phản động.

- Cả người biểu tình ôn hòa chống giàn khoan và kẻ bạo loạn được công an làm ngơ... đều là phản động.

- Và đặc biệt trên thế giới Internet, blogger, mạng xã hội... chỉ toàn là đám phản động và phản động.

Nhưng có DLV nào hay những người ra lệnh cho họ dành ra chỉ vài phút để tự hỏi "phản động" là gì không? Hoặc nếu "phản động" là thế, thì "chính động" là gì? Chính động có đương nhiên tốt không?

Phản động từ đâu ra?

Theo nghĩa đen và bình thường trong tiếng Việt thì phản động là di chuyển theo hướng ngược lại với một hướng nào đó. Nhưng trong lịch sử Việt Nam, từ "phản động" chỉ xuất hiện ở thế kỷ 20 khi được rước từ Tàu về. Đây là chữ dịch của từ ngữ nguyên thủy mà Lenin đẻ ra -- ít là thế giới tin như vậy vì Lenin dùng các chữ "phản động", "phản cách mạng" vô số lần khi còn sống. Nhãn "phản động" từ thời đó cho đến nay vẫn được dùng để lên án những ai không đồng ý với chế độ cộng sản, hay nói chính xác hơn là không đồng ý với các lãnh tụ cộng sản đang nắm quyền. Và kẻ phản động bị xem là đương nhiên xấu.

Điều cần nhấn mạnh là yếu tố "chỉ so với các lãnh tụ đang nắm quyền" khi qui kết ai là phản động. Vì đã có rất nhiều trường hợp như lãnh tụ Trotsky, một trong những cha đẻ ra chế độ Liên Bang Xô Viết. Khi Lenin còn sống, mỗi lời của Trotsky đều là chân lý và mọi kẻ bất đồng với chân lý đó đều là lũ phản động. Nhưng chỉ mấy tháng sau khi Lenin chết và Stalin thắng thế trong cuộc chạy đua lên ngôi, cũng cùng là con người và tư tưởng Trotsky đó, thì nay bị lên án là tên "cực kỳ phản động". Bà Giang Thanh là trường hợp tương tự tại Trung Quốc trước và sau ngày chết của Mao Trạch Đông. Và hiện nay là trường hợp Chu Vĩnh Khang, Giang Trạch Dân. Ông Khang từng là trùm công an - an ninh Trung Quốc, từng ném bao kẻ phản động vào chỗ chết, nhưng nay đang bị lãnh tụ đương quyền Tập Cận Bình đạp xuống cùng hàng những kẻ phản động đó. Sẽ không mấy ai kinh ngạc nếu vài tháng nữa thuyết Ba Đại Diện của ông Giang Trạch Dân bị liệt vào loại tư tưởng phản động. Và còn hàng ngàn hàng vạn thí dụ khác nữa tại từng chế độ cộng sản.

"Phản động", do đó, chỉ là vũ khí chính trị của lãnh tụ nào đang ngồi ở cực đỉnh. Các định nghĩa về "thành phần phản động" có thể thay đổi bất kỳ lúc nào. Đặc biệt trong thời Cách Mạng Văn Hóa của Mao Trạch Đông, có khi chỉ qua một đêm định nghĩa đã đổi khác, và vô số cán bộ hôm trước còn đứng giảng huấn người khác về cách mạng, hôm sau đã bị đội mũ giấy ghi chữ phản động hữu khuynh, phản động tả khuynh. "Phản động" do đó hoàn toàn không có giá trị khoa học hay luân lý, và hầu như luôn đi ngược lại đạo lý truyền thống của các dân tộc.

Dân chúng dưới mọi chế độ cộng sản, từ thời Lenin, Stalin, đến Mao Trạch Đông dài đến Tập Cận Bình, đã từ lâu đồng nghĩa "phản động" với kinh hoàng. Phản động đồng nghĩa với "không biết bị bắt đi lúc nào, ngày hay đêm, và biệt tăm tích kể từ đó" dưới thời Lenin. Phản động đồng nghĩa với "không biết sẽ bị tra tấn đến cỡ nào và sẽ tự thú thêm cho mình bao nhiêu tội nữa trước khi bị bắn" dưới thời Stalin. Phản động đồng nghĩa với "chết đói cứng đờ giữa các trại tù tuyết trắng" dưới thời Kim Nhật Thành. Phản động đồng nghĩa với "té chết trong những hố phân lỏng tại các trại lao cải" dưới thời Mao Trạch Đông.

Phản động vào Việt Nam

Từ ngày đưa chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam và đặc biệt từ khi lên nắm quyền cai trị đất nước, các đời lãnh đạo đảng CSVN đều áp dụng triệt để công thức từ các nước đàn anh vừa để tận diệt tất cả những ai không đồng ý với các lãnh tụ đang nắm quyền, vừa để giữ số đông quần chúng trong tình trạng sợ hãi thường xuyên. Trong số các hung thần chuyên cột bảng "phản động" vào cổ hàng ngàn nạn nhân trong thế kỷ 20 phải kể đến Bộ Trưởng Công An đầu tiên Trần Quốc Hoàn, Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Lê Đức Thọ, Trưởng Ban Tuyên Truyền Trung Ương Tố Hữu. Các đối tượng phản động cùng với cha mẹ, vợ con, cháu chắt và cả vòng bạn hữu của họ đều lập tức bị liệt vào loài đáng bị xa lánh, tù tội, đói khát, và vô học suốt đời.

Ngày nay cũng vậy, cả công an và ban tuyên giáo đều đang liên tục dùng lại nhãn "phản động" với ước mong nó cũng lại gióng lên sự kinh hãi tột cùng trong lòng người nghe -- cả các đối tượng lẫn những người chung quanh họ -- như trong thế kỷ trước. Họ luôn nghĩ ra những cách mới để làm cuộc đời các "thành phần phản động" phải tăng thêm phần khốn đốn, đau đớn, bất kể những người này còn ở ngoài hay đã vào tù.

Nhưng trong suốt 60 năm ngột ngạt, căng thẳng ngày đêm đó vẫn có những con người đứng lên chấp nhận mình là "phản động". Họ là những nhà trí thức như trong vụ Nhân Văn - Giai Phẩm phản đối chính sách Cải Cách Ruộng Đất và đòi quyền tự do tư tưởng; kéo dài đến những đảng viên CS cao cấp như Trần Xuân Bách, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Hoàng Minh Chính,... đòi trả quyền làm chủ đất nước cho người dân; dài đến những người yêu nước nồng nàn như Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Huỳnh Duy Thức,... báo động toàn dân về tai họa Bắc Thuộc.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao những con người này lại nhất quyết chọn con đường "phản động" như thế?

Câu trả lời có lẽ khá đơn giản: Vì họ còn lương tâm.

Phản động thật đáng kính

Chính vì còn lương tâm mà các vị này không thể đi tiếp theo hướng làm lụn bại đất nước và con người. Họ chọn hướng đi ngược lại. Chính vì còn lương tâm đối với công đức hy sinh của cha ông, đối với xương máu của đồng đội, và đối với tương lai các thế hệ cháu con mà họ nhất quyết phải đổi hướng, phải "phản động", bất chấp các tai họa trút xuống trên đầu họ và gia đình. Chỉ nội chừng đó thôi, những con người can đảm đó đã quá đáng kính phục rồi.

Nhưng còn hơn thế nữa, những con người phản động này có tầm nhìn rất xa. Từ những năm 1950, 1960, trong lúc thế hệ lãnh đạo Đảng đầu tiên còn mê tít chủ nghĩa Cộng Sản, thì những Phan Khôi, Phùng Quán, Lê Đạt, Nguyền Mạnh Tường,... đã báo trước hậu quả của nạn diệt trừ văn hóa dân tộc qua đủ loại chính sách, từ giết chết tự do tư tưởng trong lãnh vực văn hóa đến giết chết hệ thống nông nghiệp hài hòa truyền thống qua Cải Cách Ruộng Đất. Phải mất gần nửa thế kỷ sau, giới lãnh đạo Đảng mới nhận ra sai lầm, mới nhận ra những cảnh báo của nhóm Nhân Văn, Giai Phẩm là đúng. Không kính phục những con người phản động đó sao được?

Và ngày nay, vẫn đang có những tiếng nói phản động đáng kính khác vạch ra hệ quả của bản Hiến pháp đổi mới như cũ; bản Hiến Pháp chắp nối đầu gà với đuôi vịt, đang tiếp tục ghìm đất nước vào vị trí đi sau các nước trong vùng. Và trong những tuần qua, tiếp theo sau vụ giàn khoan HD981, các kêu gọi "thoát Trung" lại vang lên, ngược chiều với các dạy bảo "đã lỡ lệ thuộc lắm rồi nên phải tiếp tục nương vào Bắc Kinh mà sống".

Không kính phục sao được khi các tính toán của các nhà khoa học phản động đã được thực tế chứng minh là quá chính xác. Với các dẫn chứng khoa học và dùng kinh nghiệm của nhiều nước, các chuyên gia Việt Nam đã đưa ra các tính toán cho thấy sự tai hại, phi lý và lỗ lã của ý định khai thác Bôxít Tây Nguyên bên cạnh các nguy hiểm của việc giao Nóc nhà Đông Dương cho người nước ngoài. Các lời can gián chân thành của họ lập tức bị xem là ngược với "chủ trương lớn của Đảng". Các kết quả nghiên cứu của họ bị thay thế bằng các con số tính toán từ các "chuyên gia Trung Quốc". Và các tiếng nói phản động bị bịt hẳn với nghị quyết Cấm Phản Biện Tập Thể. Phải mất hơn 5 năm sau, lãnh đạo Đảng mới thừa nhận sự tai hại và lỗ lã tận xương tủy của các khu khai thác Bôxít Tây Nguyên (trong cùng chuỗi thất bại của nhà máy lọc dầu Dung Quất và sự lụn bại của tất cả các tổng công ty và tập đoàn kinh tế). Tiếng nói của giới chuyên gia Việt Nam chân chính không chỉ đáng kính phục mà còn rất cần thiết cho hiện tại và tương lai của đất nước. Ai biết các đặc tính của Việt Nam và yêu đất nước Việt Nam hơn những người dám phản động này?

Và ngày nay, vẫn đang có những tiếng nói phản động đáng kính khác cố gào lên khuyên can ý định xây các lò điện hạt nhân tại Việt Nam, nơi mà chỉ các đập thủy điện cũng chưa xây dựng, vận hành, hay bảo quản nổi cho ra hồn, và năm nào cũng gây ra thiệt hại nhân mạng và tài sản một cách rất vô trách nhiệm.

Không kính phục sao được khi các tư tưởng phản động đến từ những khối óc sáng suốt nhất. Trong nhiều năm toàn ban lãnh đạo Đảng nhảy tung tăng son-đố-mì giữa vòng 16 chữ vàng, 4 tốt và quan hệ hữu hảo, thì những nhà yêu nước như Điếu Cày, Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Huỳnh Duy Thức,... chấp nhận tù ngục để cố báo động với toàn dân đó là cái bẫy lừa bịp. Trong lúc lãnh đạo đảng suốt từ Hội Nghị Thành Đô đến nay liên tục nhượng bộ Bắc Kinh nhân danh "bảo vệ hòa bình và để chúng không lấn thêm nữa", thì các tiếng nói phản động đã chỉ ra nguyên lý "nhân nhượng kẻ ác chỉ là hành động khuyến khích xâm lược và chiến tranh". Thực tế hiện nay, đặc biệt với vụ giàn khoan HD981, đã chứng minh sự sáng suốt của thành phần phản động.

Và ngày nay, vẫn đang có những tiếng nói phản động đáng kính khác kêu gọi lãnh đạo Đảng phải tận dụng mùa biển động này để gấp rút kiện TC ra tòa án quốc tế. Dù thua, thắng, hay huề đều có lợi cho chủ quyền đất nước. Cùng lúc, cũng phải tận dụng khoảng thời gian quí báu này để gấp rút xây dựng các liên minh phòng thủ chung tại Biển Đông. Lãnh đạo Đảng không còn lý do gì để tiếp tục ôm chặt con đường đàm phán song phương cực kỳ tai hại hiện nay nữa. Và nhất là không được tiếp tục đẩy ngư dân tay không ra khơi làm "cột mốc sống" thay cho hải quân và cảnh sát biển nữa.

Ngày 28.7.2014, lại thêm tiếng nói đồng thanh rất đáng kính phục của 61 đảng viên CSVN đi ngược với ước muốn của lãnh đạo. Các vị này yêu cầu lãnh đạo phải công bố các mật ước tại Hội Nghị Thành Đô 1990, một hội nghị được xem là biểu hiện của tâm thức "thà mất nước chứ không mất đảng".

* * *

Càng hò hét dán nhãn người khác là phản động, lãnh đạo Đảng càng thừa nhận toàn bộ hệ thống tư tưởng và guồng máy cai trị của họ đang đi ngược lại với đạo lý dân tộc và truyền thống đặt tổ quốc trên hết của người Việt Nam.

Chưa bao giờ PHẢN ĐỘNG lại đáng quí, đáng kính, và cần thiết cho vận mạng đất nước bằng lúc này... trước khi tiến trình mất chủ quyền không còn lật ngược được nữa. Như một nhà yêu nước đang ngồi giữa tù ngục từng nói: "Trong tình hình đất nước hiện nay, nếu không phản động thì không phải là con người, nhất là không phải con người Việt Nam."