Sunday 11 October 2015

Về Quyển Sách Tố Cộng ‘’LE LIVRE NOIR DU COMMUNISME’’ (Lâm Lễ Trinh)

livrenoir
CUỘC TRANH LUẬN SÔI NỔI XUNG QUANH
QUYỂN SÁCH TỐ CỘNG

‘’LE LIVRE NOIR DU COMMUNISME’’
VỀ VIỆC ĐƯA CSVN RA TRƯỚC TÒA HÌNH SỰ QUỐC TẾ?
Lâm Lễ Trinh
Tác phẩm ‘’Le Livre Noir du Communisme’’ (Hắc Thư về chủ nghĩa cộng sản), do Nhà Sách Robert Laffont, Paris, xuất bản cuối năm 1997, dày 846 trang, với sự cộng tác của 11 Thức Giả, đã đưa công tác nghiên cứu sử liệu Marxist vào hàng best sellers trên thế giới vì chỉ trong vòng hai năm, sách bán hết 200.000 cuốn. Sẽ thành công ngoài tưởng tượng này tại Pháp khuyến khích việc phổ biến toàn cầu, đặc biệt ở các xứ Ðông Âu. Sách được dịch ra mười sáu thứ tiếng và một ngày gần đây, thêm lối 15 ngoại ngữ khác. Cao điểm là Moscou lẫn Ðại Học Harvard (Hoa Kỳ) có hai ấn bản riêng. Theo báo Le Monde, tính cho đến tháng chín năm nay, tổng số 700.000 cuốn Hắc Thư được phát hành. Thành quả này làm cho Nhóm Tác Giả chủ trương, kết tụ xung quanh người cầm đầu Stéphane Courtois, ngẩn ngơ thích thú.
Tuy nhiên, cũng theo tờ báo nói trên đề ngày 20.9.2000 (1), gần đây dư luận tỏ ra dè dặt đối với Hắc Thư, đồng thời xét lại tổng quát chế độ cộng sản. Các Sử Gia nghiên cứu chủ thuyết này nêu nhiều câu hỏi. Làm thế nào một ý thức hệ từng hứa hẹn ‘’tương lai sáng lạn’’ và chủ trương đào tạo ‘’một mẫu người mới cho nhân loại’’ lại có thể sinh sản một chính thể sùng bái cá nhân và khát máu, dưới sự chỉ huy đế quốc của giới cầm quyền Sô Viết? Vì sao ‘’xã hội chủ nghĩa thực tiễn’’ lại tàn rụi vì già nua và không còn được tin tưởng sau khi áp đảo khá lâu gần một phần ba địa cầu, dưới những hình thức địa phương khác nhau?
Trọng tâm nghiên cứu của các chuyên gia về cộng sản gồm những câu hỏi đại loại như trên. Vấn đề là các sự phân tích của họ có thể chuyển từ chính trị qua lịch sử và từ lý thuyết sang khoa học hay không?
Về thế giới cộng sản, sử liệu thật không thiếu. Từ 1917, rất nhiều du khách, ký giả và nhà văn viếng thăm Liên Sô. Họ ghi lại nhận xét trong những quyển ký sự loại ‘’le retour d’ URSS.’’ Những sách này đếm không hết, bênh vực hay bài xích xã hội chủ nghĩa. Sau đó, xuất hiện tác phẩm của những chuyên gia chống cộng như Victor Serge hay Boris Souvarine, Tác giả của quyển ‘’Staline’’ xuất bản năm 1935 và được dân chúng xem như một tài liệu tiên tri. Kể từ thập niên 60, khối Anglo Saxon bắt đầu nghiên cứu hiện tượng cộng sản dưới khía cạnh khoa học. Công tác này tiến hành mạnh sau khi bức tường Bá Linh và khối quốc gia Ðông Âu sụp đổ, với quyết định mở văn khố Moscou cho công chúng sưu tầm. Như thế, có phải kỷ nguyên các ức thuyết nhường chỗ cho thời đại xác tín hay không? Quả là không. Tại Pháp cũng như Hoa Kỳ, các trường phái sử gia đối đầu với nhau, tranh luận sôi nổi về quan niệm ‘’xã hội chủ nghĩa, hoài bảo hay nỗi thất vọng của thiên niên kỷ’’
Sau khi ra mắt độc giả, Hắc Thư bị dị nghị từ ba phía:
Trước hết, một số đồng tác giả của quyển sách này tuyên bố rút khỏi bộ biên tập vì cho rằng Stéphane Coutois tỏ ra ‘’quá khích’’ khi đề nghị trong trang giới thiệu sách truy tố các ‘’tội ác cộng sản’’ trước một Tòa Án Quốc Tế loại Nuremberg do các nước Ðồng Minh lập ra năm 1945 để xử các tội ác của Ðức Quốc Xã. Tưởng cần nhắc lại rằng điều 60, khoản a,b và c của quy chế Tòa này định nghĩa và phân tách ba loại tội phạm: Chống hòa bình, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại.
Sau hết, một nhóm tác giả khác, gốc Anh-Pháp, cho xuất bản ‘’Le Siècle des Communismes’’ (Thời đại các thể chế cộng sản). Claude Pennetier, một trong đồng tác giả, viết: ‘’Chủ trương của chúng tôi là chống lại ‘cái lối nhìn cảnh sát’ của lịch sử. Le Livre Noir không giúp hiểu hết hoạt động của thể chế Stalinien. Tư tưởng chủ yếu của chúng tôi là cộng sản chủ nghĩa có một bản chất phức tạp, nó không chỉ là nguồn gốc của tội ác’’.
Nhưng người cha đẻ của ‘’Le Siècle des Communismes’’ xếp quyển sách này vào loại nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản đa dụng dưới khía cạnh khoa học. Họ đặt lại hiện tượng cộng sản vào trung tâm các vị đấu tranh giải phóng của Thế Kỷ 20 và không chú trọng đến vai trò của lý thuyết Marxist trong những tội ác cộng sản.
Tại Hoa Kỳ, giới Ðại Học cũng chia thành hai trường phái. Nhóm đầu mang tên ‘’totalitariste’’(chuyên chế) vì đề cao vai trò đảng nhà nước Liên Bang Sô Viết. Nhóm sau, mệnh danh ‘’révisionniste’’(xét lại), cho rằng không thể xem thường sức nặng của xã hội. Nhóm này đông hơn và phủ nhận số nạn nhân trong trại giam goulag. Tại Mỹ, cuộc tranh luận chính trị giữa hai cánh tả và hữu thu hẹp trong giới Ðại Học. Ở Pháp, đảng cộng sản có đại diện trong chính phủ. Tại đây, hiện vẫn có những con đường mang tên Lénine và một nhà ga métro Stalingrad. Bởi thế cuộc tranh luận gay gắt hơn và vượt ra khỏi ranh Ðại Học để lan ra đến bên ngoài xã hội.
Sau khi in xong ‘’Le Siècle des Communismes’’, ấn quán L’ Atelier cho phát hành tiếp năm 1971 ‘’Tự điển lý lịch của Phong trào thợ thuyền’’ gồm có 46 quyển. Bộ sách này, dưới tên Maitron, sẽ được bổ túc năm 2001 bởi việc xuất bản Tự Ðiển khối Komintern ghi lại lý lịch của 400 đoàn viên thuộc tổ chức cộng sản quốc tế tại Pháp, Thụy Sĩ, Bồ và Luxemburg.
Nói tóm tắt, trong nội vụ, có hai quan điểm đối chọi: Nên phân tích cộng sản chủ nghĩa theo đường lối thuần túy khoa học (analyse scientifique) hay dưới khía cạnh tội ác (vision policière)?
Nghĩ sao về cuộc tranh luận trên đây?
Hiểu theo cho đúng nghĩa, viết sử là một công tác khoa học đòi hỏi một căn bản huấn luyện vững chắc, nhiều kiến thức sâu rộng và đặc biệt, một trí xét đoán sắc bén và sự chính trực trí tuệ. Không thể đem tâm tình riêng tư hay dựa vào kỷ niệm vớ vẩn để viết sử. Không thể lợi dụng viết sử để bôi nhọ hay xuyên tạc. Một bộ sử xứng đáng với danh xưng không bắt buộc, tuy nhiên, phải là một tác phẩm thuần túy khảo cứu chuyên môn mà còn có thể, đúng lúc, là một công trình tư tưởng bất hũ và một áng văn chương tuyệt tác lưu danh hậu thế. Chỉ xin kể vài Sử Gia điển hình: Tacite, người viết Les Annales thời La Mã, Thucydide là người trước tác quyển ‘’Lịch sử cuộc chiến Péloponnèse’’ thời Hy Lạp và Arnold Toynbee, tác giả bộ sách Study of History. Ða số Sử Gia, khi bắt tay vào việc, đều nhắm mắt hay nhiều chủ đích. Ðiều này không có gì bất chính miễn chủ đích tôn trọng sự thật, có tính cách xây dựng và không làm lệch lạc việc sưu tra và trình bày sử liệu.
Trong trường hợp ‘’Le Livre Noir du Communisme’’, ít nữa 6 trong 11 Tác giả trẻ cốt là những chuyên viên sử học. Chủ trương của nhóm, được in minh thị trên bìa sách, là trình bày ‘’Tội ác, Khủng bố, Ðàn áp. Crimes, Terreur, Répression’’ của cộng sản. Lần đầu tiên, hậu quả tai hại của xã hội chủ nghĩa được trình bày khá rộng và chi tiết, tuy chưa nói hết. Phần lớn các tài liệu trong sách do văn khố giải mật của Liên Sô và các chư hầu cung cấp, mặt khác rút từ kinh nghiệm bản thân của các tác giả, nguyên là nạn nhân hay cựu đảng viên cộng sản. Những con số liệt kê trong Hắc Thư làm cho độc giả kinh hoàng nhưng không phải giả tưởng: Liên Sô có 20 triệu người chết, Trung Hoa 65 triệu, Việt Nam 1 triệu, Bắc Hàn 2 triệu, Cam Bốt 2 triệu, Ðông Âu 1 triệu, Châu Mỹ La Tinh 150.000 người, Afghanistan 1.5 triệu. Tổng cộng một trăm triệu, trong khi Ðức Quốc Xã sát hại 25 triệu.
Dư luận thế giới đến nay vẫn không quên sự chấn động toàn vũ khi Nikita Khrushchev, Tổng bí thư cộng đảng Sô Viết,lớn tiếng tố cáo, ngày 22.2.1956 tại Đại hội thứ 20 của đảng, chính sách khai trừ và tàn sát vô nhân của trùm Staline từ 1917, trong ba chục năm cầm quyền. Chính các đảng viên cộng sản có một trong phiên nhóm thu hẹp cũng phải sửng sốt khi nghe ‘’phúc trình mật’’ của Khrushchev.Lý do thúc ‘’Mr K’’ phá vỡ một trong cấm kỵ lớn của chế độ là đẩy các tội ác qua cho chúa tể (quá cố) Staline để cứu chính thể. Ðồng thời, cũng để triệt hạ cánh đối lập Stalinien. Một nguyên nhân thầm kín khác là Khrushchev lợi dụng cơ hội để khỏa lấp những hành vi tàn bạo của chính y khi nắm quyền tại Ukraine. Trong hồi ký ‘’Souvenirs’’, trang 329, Khrushchev viết như sau: ‘’Lúc đó là giai đoạn áp đảo và chuyên quyền trong đảng và chúng ta cần báo cho đại hội những gì chúng ta biết. Trong cuộc sống của bất cứ ai phạm tội ác, thú nhận thì đáng được khoan dung,nếu không được toàn xá’’.
Trong vụ tranh luận về ‘’Le Livre Noir’’, điều gây ngạc nhiên là một số tác giả đợi sách này phát hành xong mới tuyên bố rút lui vì cho rằng lập trường của người cầm đầu Stéphane Courtois có tính cách ‘’quá đáng’’. Tại sao không phản đối ngay khi S.Courtois ghi đề nghị này trong trang giới thiệu sách? Sự ‘’phản thùng’’ của họ liên hệ ra sao với áp lực hay ảnh hưởng của cánh tả xưng cấp tiến hay thiên tả trong giới Ðại Học và Truyền Thông Âu Châu và Hoa Kỳ.
Dân chúng không lạ gì hành động xu thời của số người mang lốt thức gia. Gió thổi hướng nào, xoay theo chiều đó. Trên 80 năm, cộng sản thống trị bằng sắt máu một phần tư địa cầu chỉ vì Thế Giới Tự Do ngây thơ và khiếp nhược. Không thể nhân danh khoa học và chính trị để nhắm mắt bỏ qua những vi phạm bỉ ổi Nhân Quyền do các lãnh tụ cộng sản đương quyền hay bị bãi nhiệm chủ trương.
Ngày 28 tháng 8 vừa qua, bốn nhà ly khai lưu vong Trung Quốc, từng tham gia biểu tình đòi dân chủ tại Quảng Trường Thiên An Môn năm 1989, khởi tố trước Tòa Hình Nữu Ước nguyên Thủ Tướng đương kim Chủ tịch quốc hội Trung Hoa Lý Bằng về vụ ra lệnh dùng súng đạn đàn áp quần chúng. Tòa án đã xuất trát đòi bị can trình diện. Bắc Kinh cho việc này là một trò hề chính trị. Nhưng các tổ chức đấu tranh cho nhân quyền thì xem đây là một sự cảnh cáo cần có đối với bất cứ ai, cộng sản hay không cộng sản, học đòi đường lối độc tài chuyên chế.
Lịch sử luôn luôn dành cho hậu thế những khuyến cáo và bài học quý giá. Sẽ tồn tại của Thế Giới tùy thuộc khả năng cảnh giác để tránh tái phạm lỗi lầm quá khứ. Ngoài Công lý của loài người, còn luật ‘’nhãn tiền quả báo’’ của Trời Ðất. Pol Pot tại Cam Bốt và Milosevic tại Nam Tư là hai trong nhiều bằng chứng điển hình.
Lương tri con người nguyền rủa cộng sản bất nhân từ lâu. Thời gian không thể xóa sạch trên thân xác các nạn nhân và (càng khó hơn) trong tâm khảm dân tộc tàn tích của vô số tội ác do cộng sản gây ra. Ðặc biệt, tội diệt chủng và hành vi chống văn minh, phản nhân loại. Các kẻ phạm pháp, vì thế phải đền tội trước Tòa Án Quốc Tế để làm gương cho những ai lạm dụng quyền lực để sát sinh và chà đạp nhân phẩm. Nhà Văn Tzvetan Todorov đã nhận định chí lý: ‘’Sự sống đã chịu thua cái chết. Nhưng trí nhớ tất thắng khi đấu tranh chống hư vô.’’
…………………………..
(1) Ðọc ‘’Le Communisme, entre analyse scientifique et vision policière de l’ histoire’’ trong Le Monde ngày 20.9.2000
(2) MOULIN (Jean), anh hùng kháng chiến Pháp trong Ðệ Nhị Thế Chiến. Tẩu thoát qua Luân Ðôn, ông được bầu năm 1943 Chủ Tịch đầu tiên của Hội Ðồng Quốc Gia Kháng Chiến. Trở về Pháp, ông bị bội phản và cơ quan tình báo Ðức Gestapo, tháng 6.1943 bắt, đem ra xử bắn. Năm 1964, Chính phủ Pháp đưa tro của ông vào Viện Panthéon.
LÂM LỄ TRINH 
Thủy Hoa Trang-Californie
HẮC THƯ VỀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Tàn Sát, Khủng Bố, Đàn Áp
( Le livre noir du communisme s. dir Stéphane Courtois et al. )
– Lược dịch Fossion René và Trần Hữu Sơn – Trần Minh Tâm đánh máy.
Đây là công trình của Ông René Fossion và Ông Trần Hữu Sơn, những người quốc gia đã hy sinh thời giờ và công ăn việc làm của mình để đóng góp phần nào cho cuộc tranh đấu chung, khi dịch cuốn sách ‘’Le Livre noir du communisme’’, Xuất bản Robert Laffont 1997, của các Học Giả Stéphane Courtois, Nicolas Werth, Jean Louis Panné, Andrzej Packowski, Karel Bartosek, Jean-Louis Margolin tố cáo tội ác của công sản thế giới .
Ngoài ra Ông Trần Minh Tâm đã tận tình đánh máy trên 1000 trang. Ông René Fossion, Ông Trần Hữu Sơn, và ông Trần Minh Tâm không sống về nghề làm báo, hay viết văn. Ngày thì làm công hai bữa, tối về nhà cặm cụi làm việc dưới ánh đèn cô đơn.
Nay thì bản dịch đã hoàn tất nên cho phổ biến trên Internet để mọi người thấy rõ ‘’bộ mặt thật của cộng sản’’. Mong rằng quý độc giả rộng lượng bỏ qua nếu có điều gì không đúng lắm vì ‘’traduire c’est trahir’’ (nói nôm na: Dịch một bản văn đôi khi còn phản nghĩa điều mà tác giả muốn nói).
Mong quý độc giả cứ tự tiện phổ biến cho bất cứ ai cần đến. Đó là ý nguyện của chúng tôi. Mong lắm thay.
Mục Lục
Phần 1. Tàn Sát, Khủng Bố, Đàn Áp
Chương 1- Nghịch biện và sự hiểu lầm cuộc cách mạng tháng mười.
Chương 2- Lực lượng võ trang của chuyên chính vô sản.
Chương 3- Khủng bố đỏ.
Chương 4- Cuộc chiến bẩn thỉu.
Chương 5- Các diễn biến từ Tambov đến nạn đói lớn.
Chương 6- Hưu-chiến và khúc quanh lớn.
Chương 7- Giải tán quy chế điền chủ và cưỡng bách canh tác tập thể.
Chưong 8- Nạn đói lớn.
Chương 9- Các phần tử xa lạ với xã hội và các chu kỳ đàn áp.
Chương 10- Cuộc khủng bố vĩ đại trong những năm 1936-1938.
Chương 11- Đế quốc ngục tù.
Chương 12- Mặt trái của cuộc chiến thắng.
Chương 13- Cao điểm của các khủng hoảng trong các hợp tác xã nông nghiệp.
Chương 14- Cuộc âm mưu cuối cùng.
Chương 15- Giã từ chủ nghĩa Staline.
Chương 16- Kết luận phần nhà nước chống lại nhân dân.
Phần 2. Cách mạng thế giới. Nội chiến và khủng bố
Chương 17- Komintern được phát động và các hành động của cơ quan này.
Chương 18- Bóng đen của cơ quan NKVD trên lãnh thổ Espagne.
Chương 19- Cộng sản và khủng bố.
LỜI NÓI ĐẦU
Người ta có thể nói rằng lịch sử là môn khoa học chuyên về nổi đau khổ của con người. Thế kỷ bạo động trong đó chúng ta đang sống, đã chứng minh hùng hồn điều này. Trong các thế kỷ trước, các cường quốc Âu Châu đã làm giàu trong các cuộc buôn bán người nô lệ da đen. Nước Pháp với chính sách thuộc địa đã ghi lại biết bao nhiêu ghê tởm trong lịch sử. Xã Hội Hoa Kỳ vẫn còn duy trì nền văn hóa bạo động phát sinh từ hai tội ác trọng đại:
Việc khai thác người nô lệ và việc tiêu diệt các giống thổ dân Da Đỏ.
Nhưng nếu nói về sự bạo động, thế kỷ chúng ta đang sống đã vượt hẳn các thế kỷ trước. Thế kỷ của chúng ta đã có quá nhiều thảm họa do con người gây ra: Hai trận thế chiến, Chế độ Đức Quốc Xã, các thảm trạng xảy ra ở Armenia, Biafra, Rwanda và một vài khu vực khác. Đế Quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ chủ mưu tiêu diệt các sắc dân gốc Armenia. Đức Quốc Xã tiêu diệt dân Do Thái. Mussolini tàn sát dân Ethiopie…Nhưng những sự tàn sát này vẫn không thể nào so với tội ác của cộng sản đã gây ra.
Chủ nghĩa cộng sản, một hiện tượng lớn của thế kỷ 20, bắt đầu từ năm 1914 và kết thúc vào năm 1991 tại Mạc Tư Khoa. Chủ nghĩa cộng sản ra đời trước chủ nghĩa Quốc Gia Xã Hội, gọi tắt là Quốc Xã. Chủ nghĩa cộng sản sống lâu hơn Quốc Xã và nó lan rộng ra khắp năm Châu.
Chúng ta cần phân biệt giữa Chủ nghĩa và hành động. Về phương diện lý thuyết chính trị, chủ nghĩa cộng sản đã có từ nhiều thế kỷ, nhiều ngàn năm trước. Nhà hiền triết Hy Lạp Platon đã đề cập đến ‘’Chế độ cộng hòa’’ trong đó người dân không bị lệ thuộc vào tiền bạc hay quyền lực. Trong xã hội đó chỉ có sự khôn ngoan, công lý và lẽ phải ngự trị mà thôi.
Một nhà tư tưởng lớn của Anh, ông Thomas More cũng đã vạch ra một quốc gia lý tưởng nhưng đã bị bạo chúa Henri VIII chặt đầu. Những tư tưởng này là những nguồn sinh khí những đóng góp quý giá cho các nền dân chủ về sau.
Còn chủ nghĩa cộng sản được đề cập ở đây không có vị thế của các nguồn tư tưởng trên. Đây là chủ nghĩa cộng sản hành động. Nó đã diễn ra ở một thời điểm nhứt định, tại các quốc gia được biết rõ qua các cuộc khủng bố, đàn áp, kiểm soát biên giới, kiểm soát các phương tiện truyền thông, bắt giam và cho lưu đày các thành phần đối lập.
Những ký ức về khủng bố đã làm cho người ta không quên được chủ nghĩa cộng sản. Người ta không quên Mao Chủ Tịch vĩ đại của Trung Cộng, Kim nhựt Thành của Bắc Triều Tiên, Hồ chí Minh của Việt Nam, Fidel Castro của Cu Ba v.v… và gần với lịch sử hiện đại của chúng ta là: Maurice Thorez, Jacques Duclos, Georges Marchais.
Nhưng tội ác của cộng sản đã không được đánh giá trên cả luật pháp cũng như trên bình diện bình thường. Qua các trang sách này, lần đầu tiên chúng tôi đặt vấn đề với cộng sản về tội ác mà chủ nghĩa này đã gây ra. Sẽ có nhiều người cho rằng phần lớn các tội ác được coi là hợp pháp vì các tội ác này do được thực hiện theo lệnh của các lãnh tụ mà nước Pháp đã đón tiếp họ một cách nồng hậu.
Các tội ác mà chúng tôi trình bày trong quyển sách này không dựa trên các tài liệu ‘’pháp lý’’ của chế độ cộng sản. Chúng tôi sẽ dựa trên các văn bản ‘’bất thành văn’’. Nói một cách khác, các tài liệu này không được viết ra như các đạo luật thiêng liêng về luân lý của nhân loại.
Chúng ta có thể không lưu tâm đến các cuộc xử bắn các con tin, sự tàn sát nhóm nhân công nổi loạn, các mồ chôn tập thể của những người nông dân chết đói, do hoàn cảnh gây nên. Chúng tôi chỉ đề cập đến chiều sâu của tội ác mà cộng sản đã coi đó như là cứu cánh của toàn thể hệ thống lãnh đạo.
Chúng tôi sẽ nói lên những gì? Chúng tôi sẽ đưa ra những tội ác nào?
Có vô số tội ác :
Trước hết là tội ác về văn hóa của các quốc gia cộng sản thống trị và văn hóa của nhân loại.
Staline đã ra lịnh phá bỏ hàng trăm giáo đường của các tôn giáo tại Nga. Nhà độc tài Ceaucescu của Lỗ Ma Ni đã ra lịnh phá hủy trung tâm lịch sử Châu Âu đó là Thành Phố Bucaresti. Pol Pot đã cho tháo gỡ từng viên gạch của Thành Phố Nam Vang, Thủ Đô nước Cao Miên. Trong cuộc cách mạng văn hóa, Hồng Vệ Binh của Mao đã phá hủy vô số kho tàng văn hóa vô giá của nhân dân Trung Hoa.
Chúng tôi chỉ ghi lại tội ác của một số người được coi là linh hồn của các vụ tàn sát. Tùy theo mỗi chế độ, các phương tiện khủng bố được thi hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Xử bắn, xử treo cổ, nhận chìm trong nước, đánh bằng gậy gộc, dùng chất khí độc, cho chết đói, đưa đi lưu đày, gây ra tai nạn trong lúc đưa đi lưu đày, bắt đi bộ trên các quãng đường dài hàng trăm cây số, lao động khổ sai, kiệt sức….
Chúng tôi thống kê danh sách con số người đã bị cộng sản giết chết. Đây chỉ là con số tối thiểu. Phải cần thời gian mới có thể đưa ra con số chính xác. Sau đây là con số người nạn nhân đã bị cộng sản giết chết :
Trung Quốc: 65 triệu.
Liên Xô: 25 triệu.
Bắc Hàn: 2 triệu.
Miên: 2 triệu.
Phi Châu: 1,7 triệu.
A Phú Hãn: 1,5 triệu.
Đông Âu: 1 triệu.
Việt Nam: 1 triệu.
Trung Mỹ: 150 ngàn.
Các phong trào cộng sản quốc tế, các đảng cộng sản đang nắm chính quyền: Vài chục ngàn.
Tổng số người chết lên đến con số gần 100 triệu.
Nếu tính theo tỉ lệ thời gian thì Pol Pot đứng hàng đầu gây tội ác. Trong vòng 3 năm, Pol Pot đã tiêu diệt một phần tư dân số dân tộc Miên. Mao đã gây tội ác trầm trọng trong cuộc cách mạng văn hóa. Bàn tay của Lenine và Staline đẩm máu vì cái lô-gích tư tưởng của mình.
Nếu chỉ suy tư về tội ác thì không thể nào đánh giá được phẩm chất chiều sâu của nó được. Công việc này phải được xét xử trên tiêu chuẩn khách quan và trên khía cạnh pháp lý.
Tại Tòa Án Numberg vào năm 1945, các lãnh tụ Đức Quốc Xã đã bị kết án về tội diệt chủng trong Thế Chiến Thứ Hai căn cứ theo điều 6 của Tòa Án Quốc Tế. Điều luật này ghi 3 trọng tội: Chống lại hòa bình, tội ác gây ra trong chiến tranh và tội chống lại nhân loại.
Nếu căn cứ vào điều luật thứ 6 này thì Lenine, Staline cũng như tất cả chính quyền cộng sản đã gây ra tội ác đều phải bị kết án.
Theo điều luật thứ 6A, các hành động như chỉ đạo, sửa soạn và theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lăng hay tiếp tay vào các cuộc chiến tranh vi phạm các thỏa ước quốc tế đều bị ghép vào tội chống lại hòa bình. Như vậy Staline phải bị kết án. Staline bí mật ký hai hiệp ước với Đức Quốc Xã vào ngày 23 tháng 8 và ngày 28 tháng 9 năm 1938 để rảnh tay ở hai mặt trận phía Đông và phía Tây. Hai hiệp ước này đã khởi đầu Đệ Nhị Thế Chiến. Ngoài ra Staline còn vi phạm vào tội giúp khí giới cho Bắc Triều Tiên đem quân xâm lấn Nam Triều Tiên vào ngày 25 tháng 6 năm 1950. Staline cũng đã xua quân tiến chiếm Phần Lan vào ngày 30 tháng 9 năm 1939.
Mạc Tư Khoa đã chỉ đạo các đảng cộng sản đàng em, mở các cuộc chiến tranh phá hoại các một số quốc gia khác. Tại A Phú Hãn, Mạc Tư Khoa đã vi phạm vào điều luật thứ 6A khi đưa quân vào giúp đảng cộng sản nước này để cướp chính quyền vào ngày 27 tháng 12 năm 1979. Nó mở đầu cho cuộc chiến kéo dài cho đến ngày nay vẫn chưa kết thúc, mặc dù quân Nga đã rút ra từ năm 1989.
Điều luật 6B nêu ra các hành động vi phạm trong lúc chiến tranh. Các điều khoản này đã được ghi rõ trong bản ‘’giao ước quốc tế’’ ra đời năm 1907 tại Thành Phố La Hague của nước Hòa Lan. Nó bao gồm các điểm: Hành động ám sát, hành hạ, ngược đãi, lưu đày khổ sai, hành quyết các con tin, cướp bóc hay tước đoạt tài sản, tàn phá các thôn xóm, hạ giá tiền tệ không có lý do cho chính đáng cho nhu cầu quân sự…
Staline đã cho thủ tiêu hầu hết các sĩ quan của Quân Đội Ba Lan bị bắt làm tù binh vào cuối năm 1939. Tại Thành Phố Katyn khi cho khai quật mồ chôn tập thể 4500 tử thi, mỗi tử thi đều có vết đạn ở sau ót. Ngoài ra còn các vụ giết người trầm trọng khác cho đến giờ này không có mấy người biết đến đó là các vụ tàn sát hàng trăm ngàn tù binh Đức ở các trại giam khổ sai từ năm 1943 cho đến năm 1945. Vụ Hồng Quân Nga hãm hiếp phụ nữ Đức trên các phần đất Đức bị chiếm.
Điều luật 6 C ghi các tội chống lại nhân loại. Nó gồm các hành động như sau: Tàn sát, tiêu diệt, biến thành nô lệ, bắt đi lưu đày, ngược đãi vì lý do chính trị, kỳ thị chủng tộc hay tôn giáo…
Trong bản cáo trạng tại Tòa Án Numberg, Tổng Biện Lý Francois de Menton nhấn mạnh tính chất ý thức hệ của các tội ác này như sau:
Tôi cho rằng tất cả các tội ác đã gây ra cho một khối đông đảo quần chúng là tội ác chống lại tư tưởng. Tôi muốn nói lên một chủ nghĩa đã chối bỏ tất cả giá trị luân lý của nhân loại. Tội ác chống lại tư tưởng là nguồn gốc của chủ nghĩa Quốc Xã. Đó là chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc. Đây không phải là một tại nạn rủi ro, không phải là một sự việc tình cờ. Trái lại các hành động kỳ thị đã được nghiên cứu kỹ lưỡng và được tổ chức trong khi thi hành…
Các bản tuyên cáo của Tòa Án Numberg nhấn mạnh đến một điểm chính của điều khỏan ‘’chống lại nhân loại’’: Lạm dụng quyền lực của nhà nước đề phục vụ cho một chính sách và thi hành các tội ác.
Căn cứ vào điều luật này, thì tất cả các hành động xảy ra dưới thời Lenine, Staline và tại các quốc gia nằm trong tay cộng sản đều phải bị kết án.
Cộng sản nhân danh nhà nước, nhân danh một ý thức hệ để tiêu diệt hàng chục triệu người vô tội, chỉ vì họ là quý tộc, là thành phần trung lưu, trí thức, địa chủ…
Khái niệm về tội ác chống lại nhân loại rất phức tạp. Ngoài tội diệt chủng dân Do Thái do Đức Quốc Xã gây nên, ngày 9 tháng 12 năm 1948 Liên Hiệp Quốc xác nhận như sau: Giết hại, vi phạm tinh thần hay thân thể, cưỡng ép từ bỏ điều kiện sinh sống để dần dần bị tiêu diệt đối với một nhóm dân, một sắc dân hay một tôn giáo điều bị ghép vào tội ‘’chống lại nhân loại’’.
Bộ Hình Luật mới của Pháp định nghĩa từ ‘’diệt chủng’’ rộng rãi hơn. Đó là thỏa hiệp đưa đến việc tiêu diệt một phần lớn hay toàn thể một khối người, một sắc tộc, một giai cấp trong xã hội hay một tôn giáo. Quan điểm này cũng không khác nào tư tưởng của Andre Frossard. Theo ông ta, nếu một người bị giết vì lý do đã được sinh ra trong một giai cấp xã hội, một sắc dân hay theo một tôn giáo…đều bị coi như tội ác chống nhân loại.
Trong quyển sách ‘’Cuộc khủng bố đỏ ở Nga’’ xuất bản năm 1927 tại Bá Linh, Sử Gia người Nga ông Serguei Melgounov kể lại một mẫu chuyện của một người chỉ huy đầu tiên của cơ quan tình báo chính trị Sô Viết, có tên là Latziv. Ngày 1 tháng 11 năm 1919 ông ta ra lịnh cho một tên công an dưới quyền là tìm bắt những người thuộc giới trung lưu mà không cần cứu xét tội lỗi. Câu hỏi đầu tiên phải đặt ra là: Anh thuộc thành phần nào, gốc gác từ đâu, trình độ học vấn, nghề nghiệp…
Chính Lenine và đám thân cận của ông ta cũng không dung thứ các đối thủ chính trị. Những đối thủ chính trị này cần phải tiêu diệt ngay. Hành động diệt chủng của nhóm người bolshevik thực sự tiến hành kể từ năm 1920 khi họ cho giải thể nhóm dân Cosaques. Đàn ông bị xử bắn. Người già, phụ nữ và trẻ em bị đưa đi lưu đày. Làng mạc, nhà cửa bị phá hủy.
Trong những năm 1930, 1932 công tác giải thể nhóm dân Cosaques mạnh mẽ và toàn diện hơn. Staline sử dụng bộ máy tuyên truyền trong nước cũng như bên ngoài về việc kết án xử bắn, đưa đi lưu đày những ai chống lại lịnh ‘’tập thể hóa’’. Tuy rằng những người đưa đi lưu đày không bị giết ngay nhưng với các điều kiện lao động cực khổ, trong điều kiện thời tiết giá lạnh của mùa Đông ở vùng Bắc Tây Bá Lợi Á, chẳng còn được bao nhiêu người sống sót. Cho đến nay con số tử vong chưa được chính thức đưa ra, nhưng phải kể đến hàng trăm ngàn.
Trong vụ nạn đói ở vùng Ukraine vào những năm 1932-1933 và những vụ chống tập thể hóa đã có đến trên 6 triệu ngưới chết. Tại vùng này đã diễn ra hai hình thức diệt chủng: Diệt chủng giai cấp và diệt chủng sắc dân.
Quốc Xã Đức sử dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để thiết lập các phòng hơi ngạt và lò thiêu để giết dân Do Thái. Trong khi cộng sản sử dụng ‘’vũ khí đói’’ để tiêu diệt các sắc dân. Cộng sản tìm đủ mọi cách để kiểm soát lương thực. Họ chỉ phân phối lương thực cho các phần tử mà họ cho là xứng đáng. Họ phân biệt giữa nhóm người này, nhóm người khác. Tình trạng này đã dẫn đến các nạn đói làm chết hàng triệu người tại các nước cộng sản.
Bản tổng kết đầu tiên toàn bộ các tội ác được ghi như sau:
Trong những năm 1918-1922 có hàng chục ngàn con tin bị xử bắn mà không được xét xử. Hàng trăm ngàn công nhân và nông dân bị tàn sát vì chống đối chính sách tập thể hóa của cộng sản.
Nạn đói năm 1922 đã làm cho 5 triệu người chết.
Hàng trăm người Cosaques sống quanh sông DON bị tiêu diệt.
Hàng chục ngàn chết trong các trại tập trung vào những năm 1918-1930.
Hàng trăm ngàn phú nông, trung lưu, trí thức bị đưa đi lưu đày.
Trên 6 triệu dân Uraine bị chết đói trong năm 1932-1933.
Hàng trăm ngàn ngườì thuộc các sắc dân Ba Lan, Ukraine, dân Bắc Âu, dân sống trong vùng Moldave bị đi lưu đày trong những năm 1939-1940 và tái diễn trong những năm 1944-1945.
Năm 1941, nhóm dân Đức nhưng làm việc cho Nga sinh sống dọc theo sông Volga bị đi lưu đày.
Năm 1975-1979 dân ở các Thành Phố Cao Miên bị đi lưu đày và bị thủ tiêu.
Tiêu diệt từ từ dân Tây Tạng do cộng sản Trung Quốc chủ trương từ năm 1950.
Cho tới nay người ta chưa tính hết tội ác do Lenine, Staline gây ra. Và các tội ác này cũng tái diễn dưới bàn tay của Mao trạch Đông, Kim nhật Thành và Pol Pot.
Về phương diện ngôn ngữ của các sử gia, cần phải đưa ra một vấn đề: Sử gia có quyền sử dụng các từ thuộc lãnh vực pháp lý như ‘’tội ác chống lại nhân loại’’ hay ‘’tội diệt chủng’’ trong lúc nghiên cứu về tính chất của chiến tranh hay không? Mặc khác, các khái niệm này cũng không nên quá phức tạp để giữ tính khách quan trong lúc sưu tầm tài liệu lịch sử.
Về điểm thứ nhất, lịch sử cho chúng ta thấy tội ác diệt chủng không phải là tội ác độc quyền của Đức Quốc Xã. Hãy nhìn những gì đã xảy ra gần đây ở các nước Bosnie, ở Rwanda, chúng ta sẽ bằng lòng điểm này.
Phần thứ hai là chúng ta sẽ không trở lại cái thế kỷ 19. Vào thời điểm đó, sử gia chỉ tìm hiểu sự việc mà không phán đoán.
Nhưng đứng trước thảm họa của nhân loại, sự phá vỡ phẩm giá của con người, các sử gia có thể bỏ qua một số nguyên tắc để cứu xét vấn đề. Sử Gia Jean Pierre Azema đã kết án chế độ Đức Quốc Xã có ‘’tội ác chống lại nhân loại’’. Và ông Pierre-Vielal Naquet cũng tuyên bố tương tự khi kết án tên Touvier, một người Pháp công tác viên đắc lực cho Đức Quốc Xã.
Cũng như vậy, chúng tôi làm những công việc sưu tầm để đưa ra ánh sáng những tội ác do cộng sản đã gây ra.
Ngoài ra còn phải đặc trách nhiệm của các chế độ cộng sản đang nắm quyền hành. Họ là những kẻ tòng phạm. Năm 1987, Bộ Hình Luật của Gia Nã Đại tu chính các điều 3.76 và 3.77 ghi các điểm thuộc tội ác chống lại nhân loại, gồm có: Mưu toan, tòng phạm, khuyến khích, giúp đỡ để thực hiện tội ác chống lại nhân loại, âm mưu và tòng phạm sau khi đã xảy ra sự việc.
Vậy mà trong khoảng thời gian từ năm 1920 đến 1950 những người cộng sản trên thế giới đã hô hào cổ võ cho hai tên gây tội ác Lenine và Staline. Hàng trăm ngàn người tham gia vào phong trào cộng sản quốc tế. Trong những năm 1950, 1960, 1970 hàng triệu người sùng bái Mao trạch Đông của Trung Quốc trong cuộc cải cách văn hóa. Và gần đây còn có nhiều người ca tụng Pol Pot. Về sau họ chỉ trả lời: Chúng tôi đâu có biết… Mà quả thật không dễ gì biết những gì cộng sản làm. Bí mật là phương châm hoạt động của cộng sản. Nhưng có nhiều người ngày nay đã biết sự thật nhưng họ vẫn im lặng.
Năm 1969 ông Robert Conquest, một trong những Sử Gia đầu tiên nghiên cứu về tội ác của cộng sản, đã viết: ‘’Một việc rất rõ là có nhiều người chấp nhận các cuộc thanh trừng diễn ra ở Thành Phố Mạc Tư Khoa trong các năm 1936, 1937 và 1938 theo lịnh của Staline. Chính sự chấp thuận này là sự đồng lõa cho các vụ thanh trừng toàn diện tiếp theo sau. Nhiều người ở bên ngoài đã thừa nhận các vụ hành quyết là đúng. Những người này dù chỉ có lời bình phẩm về các vụ thanh trừng này cũng phải chịu trách nhiệm và phải được coi là tòng phạm trong các vụ án chính trị.
Joseph Berger, một cán bộ trong tổ chức quốc tế cộng sản, người đã từng nếm mùi ở các trại lao động khổ sai, đã kể lại một lá thư của một nữ tù nhân đảng viên cộng sản được trả tự do sau khi lưu đày với nội dung như sau: ‘’Các người cộng sản thế hệ chúng tôi chấp nhận quyền lực của Staline. Họ chấp nhận hành động bạo ác của Staline. Và cả những người cộng sản khác trên khắp thế giới. Đây là một vết nhơ mà chúng tôi đã vi phạm. Để phá bỏ vết nhơ, chúng tôi phải làm sao cho các tội ác này không còn tái diễn. Điều gì đã diễn ra? Phải chăng chúng tôi mất cả lý trí? Phải chăng chúng tôi là những kẻ phản bội cộng sản? Thật ra chúng tôi, kể cả những nhân viện thân cận của Staline đều đã vi phạm các tội ác. Chúng tôi đã tưởng rằng đó là những đóng góp quan trọng cho việc chiến thắng của Chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi cũng tin tưởng tất cả các việc làm để cũng cố quyền uy cho đảng cộng sản ở Liên Xô cũng như cho các đảng cộng sản trên toàn thế giới. Chúng tôi không bao giờ nghĩ đến có sự tranh chấp giữa chính sách và luân lý…
Những người cộng sản Tây phương, mặc dù họ không bị khống chế bởi cơ quan NKVD (Bộ nội vụ) của Liên Xô nhưng họ vẫn mù quáng ca ngợi Liên Xô và nhà độc tài Staline. Phải chăng họ đã uống phải liều thuốc tiên nào đó nên luôn luôn tôn sùng quy phục quyền lực tối uy của Liên Xô.
Trong quyển sách nói về cách mạng của Nga, nhà văn Martin Malia đã vén cho chúng ta thấy tấm màn nghịch lý của một ‘’tư tưởng lớn’’ và đã dẫn đến một kết luận: Đó là một tội ác lớn.
Bà Annie Kriegel, một nhà phân tích lớn về chủ nghĩa cộng sản đã cho thấy hai mặt của chủ nghĩa: Mặt tươi sáng và mặt tối.
Ý thức hệ cộng sản dự phóng một xã hội tốt đẹp. Điều này đã mê hoặc nhiều người. Nhưng xã hội cộng sản tước đoạt tất cả trách nhiệm của chúng ta. Họ quyết định mọi việc. Nhiều người ở bên ngoài vì sợ chịu trách nhiệm và tự do đã chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Nhưng những người sống trong chế độ độc tài cộng sản thì quá chán ngán. Họ chỉ mong có sự thay đổi. Trong luận đề ‘’Sự sợ hãi của ý thức tự do’’ ông Fromm tuyên bố: Tình nguyện làm đầy tớ cho chủ nghĩa cộng sản.
Những người tình nguyện làm đầy tớ cũng là những kẻ tòng phạm. Khi chấp nhận làm gạch nối cho công tác tuyên truyền che dấu sự thật cũng là tòng phạm.
Phân tích hiện tượng cộng sản khi đang nắm chính quyền là một việc làm khó khăn.
Ông Jean Ellenstein cho rằng Staline là một hiện tượng vừa mang tính chất bạo tàn của thời cổ Hy Lạp, vừa mang tính độc tài của Đông phương. Nhận định này tương đối chính xác nhưng chưa khai thác được chiều sâu của tính độc tài. Một vài so sánh sau đây sẽ giải thích rõ vấn đề.
Chúng ta bằng lòng dưới thời Nga Hoàng dân chúng bị áp bức. Người bolshevik chiến đấu chống lại chế độ Nga Hoàng. Nhưng một khi quyền hành nằm trong tay những người bolshevik thì sự áp bức con kinh hoàng hơn ở thời Nga Hoàng rất nhiều. Nga Hoàng đưa những tù chính trị ra trước Tòa Án xét xử, đúng luật lệ của một tòa án. Có nghĩa là có luật sư biện hộ cho tội nhân, có nhân chứng, có dư luận của quần chúng. Đối với cộng sản, các sự việc trên không hề xảy ra. Người tù trong chế độ Nga Hoàng hưởng đủ quy chế tù nhân. Họ có quyền đọc sách, viết thơ và nếu bị lưu đày, họ đi cùng với gia đình. Họ có quyền đi săn, đi câu cá và có quyền giúp đỡ tù nhân khác… Chính Lenine và Staline cũng đã từng ở tù và bị lưu đày dưới thời Nga Hoàng. Cả hai đã có những kinh nghiệm này.
Trong tác phẩm ‘’Kỷ niệm ngôi nhà của người chết’’’, nhà văn Dostoievski đã làm cho độc giả của ông ta xao xuyến. Nhưng nếu so với các thảm cảnh của thời Lenine, Staline thì chẳng đáng vào đâu.
Từ năm 1888 đến năm 1917, nước Nga xảy ra rất nhiều cuộc rối lọan và bị đàn áp. Đã có 6360 người bị kết án tử hình. Trong số này có 3922 người bị xử bắn. Nhưng so với 4 tháng đầu tiên lên nắm chính quyền, người bolshevik đã xử tử nhiều hơn so với con số này.
Vào những năm 1920 đến năm 1940, cộng sản lên tiếng phản đối các cuộc khủng bố của chính quyền quân phiệt ở các nước khác. Chúng ta thử xét xem những gì xảy ra ở Ý. Chế độ Phát xít Ý có ngược đãi các nhà chính trị đối lập. Trong năm 1935 nhà độc tài Mussolini đã bắt vài trăm đối thủ chính trị vào tù và vài trăm người khác bị quản thúc tại các đảo. Trên thực tế có vài ngàn người lưu vong. Đó là những gì mà thế giới đã kết án nhà độc tài Mussolini và chính quyền của ông.
Trong kỳ Thế Chiến Thứ Hai, Đức Quốc Xã đã ra tay đàn áp các thành phần chống đối họ như các người cộng sản, nhóm xã hội ,nhóm vô chính phủ và một số nghiệp đoàn. Đức Quốc Xã công khai đàn áp và bắt giam những người này. Từ năm 1933 đến 1939 Đức Quốc Xã đã kết án và xử bắn 20.000 người. Đó là chưa kể đến con số người bị bắn chết vì lý do không đủ tiêu chuẩn sắc tộc thuần tuý tóc vàng, da trắng, những người bịnh tâm thần, tật nguyền hay già yếu…
Hitler đã ra lịnh giết chết những người già, người bịnh tâm thần bằng hơi ngạt. Từ năm 1933 đến năm 1940 đã có 70.000 người chết vì hơi ngạt. Khi Giáo Hội lên tiếng phản đối, chương trình dùng hơi ngạt mới ngưng hoạt động. Sau này rút kinh nghiệm đã dùng hơi ngạt giết chết lớp người thứ ba, đó là giống dân Do Thái.
Thoạt đầu có vài trăm người Do Thái bị giết chết. 35.000 người bị bắt giam vào các trại tập trung và sau đó bị đưa vào các trại tử thần. Khi tấn công vào Liên Xô, quân Đức đã giết 15 triệu dân ở các vùng chiếm đóng. Có 5,1 triệu dân Do Thái, 3,3 triệu tù binh Sô Viết và 1,1 triệu dân đã bị bắt vào các trại tử thần. Ngoài con số nạn nhân này, cũng cần phải kể đến vài trăm ngàn dân Tziganes, 8 triệu người bị cưỡng bách lao động khổ sai và 1,6 triệu người còn sống sót lại trong các trại tập trung.
Tòa Án Numberg đã kết án những tội phạm và đã công bố những tội ác mà họ đã gây ra. Sau cùng khi tiết lộ hành động diệt chủng giống dân Do Thái đã làm cho lương tâm nhân loại xúc động.
Ở đây chúng tôi không muốn đưa ra một danh sách so sánh về con số kinh hoàng hay bản kết toán về sự ghê tởm về những gì cộng sản đã làm. Nhưng sự kiện tội ác của cộng sản đã quá rõ ràng. Chế độ cộng sản đã giết chết hàng trăm triệu người so với 25 triệu nạn nhân của Đức Quốc Xã. Với bản đúc kết này, ít ra chúng ta cũng thấy được sự khác nhau giữa hai chế độ trong thế kỷ này. Năm 1945, Đức Quốc Xã bị kết án là chế độ bị vi phạm quá nhiều tội ác trong thế kỷ. Trong khi đó chế độ cộng sản lại được duy trì cho đến năm 1991 với tất cả tính cách pháp lý quốc tế của nó. Cho cả đến ngày hôm nay, cộng sản vẫn còn ngự trị trên một vài quốc gia với một số tín đồ. Và mặc dù có một vài nước cộng sản nhìn nhận tội ác của Staline, của Lenine nhưng cho đến nay họ vẫn chưa chịu từ bỏ các nguyên tắc của Lenine và họ cũng chẳng hề bị kết án có liên hệ gì với tội ác này cả.
Các phương pháp của Lenine và sau này được Staline hệ thống hóa, đã được tay chân bộ hạ của hai ông thi hành làm cho chúng ta liên tưởng đến những gì đã xảy ra trong thời Đức Quốc Xã. Có một số tội ác đã xảy ra trước thời Hitler.
Roudolf Hoess là người được ủy nhiệm thiết lập trại tử thần Auschwitz. Về sau trại trưởng của trại này tiết lộ cho biết ông có nhận chỉ thị của ủy ban trung ương về an ninh một số chi tiết về các trại tập trung của Sô Viết. [ Nên nhớ là đầu năm 1918, Lenine đã ra lịnh cho lưu đày các chính trị đối thủ và và năm 1933 Đức Quốc Xã cũng áp dụng như vậy]. Tài liệu còn nhấn mạnh Sô Viết tiêu diệt toàn bộ một số dân bằng cách bắt họ lao động khổ sai.
Với mức độ và kỹ thuật gây tội ác cho một số quần chúng đông đảo mà những người cộng sản đã khai trương áp dụng, và sau đó Đức Quốc Xã đã làm theo. Dưới cái nhìn của chúng tôi, người ta có thể minh chứng một chân lý về sự liên hệ trực tiếp giữa chế độ cộng sản và sự ra đời của chế độ Đức Quốc Xã.
Vào các năm cuối của thập niên 20, cơ quan GPV, một danh xưng mới của cơ quan tình báo chính trị Sô Viết, cho cho ra đời chính sách tỉ lệ phân vùng. Mỗi vùng phải tìm cách bắt đi lưu đày một tỉ lệ ‘’thành phần thù địch’’ nào đó do nhà nước chỉ định. Sau năm 1920, Hồng Quân đánh bại quân Hoàng Gia [ Bạch Quân ], đã xảy ra các cuộc lùng bắt khủng khiếp các sắc dân địa phương Ba Lan và 3 nước vùng Baltique. Việc chuyên chở các người lưu đày trên các toa xe lửa dùng để chở súc vật đã được tái diễn tại các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Năm 1943-1944 trong lúc chiến tranh đang diễn ra ở khắp nơi, Stalin, thay vì cung cấp cho chiến trường, ông ta đã dùng hàng ngàn nhân viên của cơ quan tình báo chính trị cùng với hàng chục ngàn toa xe vào công việc chuyên chở các dân thuộc sắc tộc sống trong vùng Caucase đi lưu đày trong vòng vài ngày.
Đối chiếu những gì đã xảy ra dưới chế độ Đức Quốc Xã và dưới chế độ cộng sản, chúng ta sẽ thấy kỳ lạ. Vassili Grossman là người đầu tiên đã nêu ra tội ác xảy ra ở khám đường Treblinka. Mẹ ông đã bị lính Đức Quốc Xã giết chết trong khu biệt giam của vùng Berditchev. Ông cũng là một trong những người trưng bày tội ác của Đức Quốc Xã đã tiêu diệt người Do Thái cư ngụ trân lãnh thổ của Sô Viết.
Trong tập truyện ngắn ‘’Rồi tất cả cũng đi qua-Tout passe’’, ông đã đưa một nhân chứng của vụ chết vì đói ở vùng Urakine. Ông viết: ‘’Các văn sĩ, kể cả Staline cho rằng phú nông là những người ăn bám, những ký sinh trùng. Họ là những kẻ đã đốt bỏ bông lúa và giết chết trẻ em’’. Staline cũng còn công khai khuyến khích quần chúng nổi dậy chống lại quần chúng, tiêu diệt tất cả những người mà họ gọi là tầng lớp xấu xa. Staline cho còn cho biết muốn giết họ thì hãy coi thành phần phú nông không phải là người cũng giống như Đức Quốc Xã coi dân Do Thái cũng không phải là người.
Đức Quốc Xã dự trù cho một xã hội tương lai của một sắc dân thuần chủng. Cộng sản chuẩn bị cho ngày mai một xã hội của những người vô sản. Hai cách cải tạo xã hội tuy có khác nhau về cách sử dụng tiêu chuẩn nhưng giống nhau ở mục đích. Nếu cho rằng chủ nghĩa cộng sản là một chủ thuyết tổng quan thì thật là sai lầm. Nếu nó mang tính chất toàn cầu, thì quả thực một nửa nhân loại không còn xứng đáng để sinh tồn. Bởi nó mang tính chất của chủ nghĩa Quốc Xã. Nếu có khác chăng là khác ở chỗ, cộng sản phân chia ra nhiều giai cấp trong khi Quốc Xã phân chia ra giống dân và lãnh thổ.
Tội ác của Lenine, Staline và hình ảnh dân Cao Miên dưới thời Pol Pot đã đặt ra một câu hỏi mới cho các luật gia, các sử gia và cho cả nhân loại: Phải xếp vào tội nào đối với những người đã tiêu diệt các thành phần bị ghép vào tội thù địch vì lý do chính trị, tư tưởng, không phải ở phạm vi vài ba cá nhân mà cả tập thể đám đông quần chúng xã hội . Phải chăng cần đặt ra một tội danh mới? Người Anh đã dùng danh từ Politicide, bao gồm ý nghĩa của Chính Trị-politipue và Giết Chết-Cide. Người Tiệp Khắc gọi là Tội ác cộng sản.
Người ta biết gì về những tội ác cộng sản gây ra? Người ta muốn biết cái gì, loại nào? Và tại làm sao phải chờ mãi đến cuối thế kỷ này nó mới có các cuộc nghiên cứu nghiêm túc?
Việc nghiên cứu tội ác của Quốc Xã đã có từ lâu và đã đi khá xa so với việc nghiên cứu các cuộc khủng bố của Lenine, Staline. Nói chung, có sự khác biệt khá lớn giữa các cuộc nghiên cứu cần phải vượt qua mặc dù các nước Đông Âu đã gia tăng các cuộc nghiên cứu này.
Một số khác biệt đã được phát hiện. Năm 1945, lực lượng Đồng Minh thắng trận đã chính thức lên án tội ác diệt chủng những người đầu não của Đức Quốc Xã. Nhiều công trình nghiên cứu có hệ thống và đạt nhiều kết quả trong công tác kết án này. Hàng ngàn quyển sách xuất bản, hàng trăm cuống phim trình chiếu. Như ‘’Đêm và sương mù-Nuit et Brouillard’’, ‘’Sự chọn lựa của Sophine-Le choix de Sophine’’, ‘’Danh sách của Schindler-La liste de Schindler’’. Chỉ riêng ông Raul Hilberg, ông ta đã sưu tầm các chi tiết về thủ tục và phương pháp giết người dân Do Thái dưới thời Đệ Tam Đế Quốc Đức.
Những tên như Himmler, Eischman được thế giới biết đến như biểu tượng của tàn ác và dã man của thời đại. Nhưng người ta không hề nói đến những hung thần cộng sản. Các tên ác ôn như Djerjinski, Iagoda hay Iejev nào có ai biết đến. Còn các tên Lenine, Staline, Hồ chí minh, Mao trạch Đông, thì lại được sùng kính đáng ngạc nhiên. Lại có một viên chức nhà nước Pháp, Le Loto đã dùng các hình ảnh này vào trong chương trình quảng cáo. Có ai bao giờ thấy các hình ảnh của Hitler hay Goebbels trong các sinh hoạt tương tợ hay không ?
Việc nghiên cứu tội ác của Quốc Xã Đức được chính thức xác nhận. Nguyện vọng của những người sống sót được đáp ứng. Các nhà nghiên cứu được công nhận và các nhà lãnh tụ của quốc gia liên hệ đã làm sáng tỏ giá trị của nền dân chủ. Nhưng tại sao chỉ có tiếng vang rất nhỏ về lời khai của những người sống sót trong chế độ cộng sản? Tại sao có sự im lặng chính trị một cách ngượng ngùng như vậy? Và nhất là sự im lặng của quý vị trong Hàn Lâm về thảm họa của cộng sản từ hơn 80 năm qua đã gây cho hơn 1/3 dân số trên 4 lục địa. Tại sao chúng ta bất lực để đặt yếu tố ‘’Tội ác’’ vào trọng tâm trong công việc nghiên cứu chế độ cộng sản? Tội ác đối với tập thể đông đảo quần chúng, tội ác hành động có âm mưu, tội ác chống lại nhân loại.
Phải chăng chúng ta không có đủ khả năng hiểu biết? Hay đó chỉ là sự từ chối không muốn biết chỉ vì sợ hãi?
Lý do của sự che dấu này rất phức tạp. Trước hết đó là hành động cổ điển của những người chủ mưu gây tội ác. Họ muốn xóa bỏ những gì họ đã làm. Họ không muốn ai nhắt đến.
Năm 1956 Khruhchev đọc một bản văn bí mật nhìn nhận tội ác của cộng sản, tội ác của các nhà lãnh đạo cộng sản, những người hiện đang nắm quyền hành cũng đã nhúng tay vào. Theo lời của một hung thủ, họ mong được che đậy các tội ác và cứ đổ lỗi cho Staline. Họ chỉ là người thừa hành. Vì muốn che dấu các đồng chí của ông ta nên Khruhchev chỉ nêu lên những người cộng sản là nạn nhân trong các cuộc khủng bố này. Dĩ nhiên cũng có người cộng sản là nạn nhân thật. Nhưng so với con số thường dân chết thì con số nạn nhân là người cộng sản thì quá nhỏ. Thay vì kết án, Khruhchev chỉ nói rằng đó là ‘’Sự lạm dụng dưới thời Staline’’ để mong bào chữa cho sự liên tục của chế độ.
Khruhchev cũng trình bày cho biết những trở lực và những người chống đối trong khi viết bản phúc trình mật này. Kể cả nhân vật thân cận của Staline. Tên Kaganovitch là một đảng viên thân cận với Staline. Ông ta có thể cắt cổ cha ông ta nếu như có lịnh, chỉ cần một cái nheo mắt của Staline. Ông ta cho rằng thi hành lịnh của Staline là để phục vụ cho sự nghiệp của đảng. Cũng phải được hiểu là cho cả sự nghiệp của Staline. Sau này Kaganovitch giải thích cho hành động của ông ta là vì ông muốn bảo tồn mạng sống của mình. Ông ta chỉ còn muốn có một điều là làm sao xóa bỏ tội ác của ông. Công việc này chỉ có thể thực hiện được bằng cách phải bảo vệ bí mật các văn khố dự trữ, không ai được tham khảo, kiểm soát toàn diện báo chí, kiểm soát các người ra nước ngoài, tuyên truyền và phóng đại các thành quả của chế độ, các cơ quan truyền thông thực hiện các công tác đầu tiên là ngăn chận tất cả các đề nghị đưa ra ánh sáng các sự thật về tội ác của cộng sản.
Vì không bằng lòng với những gì họ đã làm trong quá khứ, những tội phạm tìm mọi cách chống lại những ai muốn tìm hiểu sự thật.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, tại Pháp có hai vụ tố cáo tội ác của cộng sản. Từ tháng 4 đến tháng giêng năm 1949, Tòa Án Ba Lê đã xét vụ án ông Victor Kravchenko, cựu công chức cao cấp Sô Viết và là tác giả quyển ‘’Tôi chọn tự do-Je choisi la liberte’’.
Từ tháng 11 năm 1950 đến tháng giêng năm 1951 cũng tại Tòa Án Ba Lê, ông Aragon đã kiện ông David Rousset, một nhà trí thức có khuynh hướng Trotski.
Rousset đã từng bị lưu đày trong các trại tập trung của Đức trong Đệ Nhị Thế Chiến. Năm 1946 ông đoạt giải văn chương Renaudot với tác phẩm ‘’Vũ trụ tập trung-Univers concentrationaire’’. Ngày 12 tháng 11 năm 1946, ông Rousset kêu gọi những tù nhân ở Liên Sô hãy thành lập ủy ban điều tra các trại tập trung khổ sai. Báo chí cộng sản lúc bấy giờ mở chiến dịch chống phá Rousset kịch liệt và chính quyền Sô Viết cho biết là không hề có trại lao động khổ sai ở xứ này. Hưởng ứng lời kêu gọi của Rousset, tờ báo Figaro Litteraire số ra ngày 25 tháng 2 năm 1950 cho đăng một bài báo tựa đề: ‘’Trại tập trung khổ sai của Sô Viết, Cái gì khốn khổ nhất: Địa ngục hay trại Belzebuth?’’ trong đó bà Magaret-Neuman với tư cách là nạn nhân, tường thuật lại những gì bà đã trải qua trong trại tập trung của Sô Viết và của Quốc Xã Đức.
Những nhà độc tài Sô Viết tìm mọi cách chống lại lương tâm của con người. Họ mở ra một mặt trận rộng lớn với một số vũ khí đồ sộ để can thiệp vào mọi nơi trên thế giới. Họ tuyên bố bài trừ, đe dọa, và làm mất niềm tin đối với những người như Soljenitsine, Boukovski, Zinoviev, Plioutch…Họ đuổi những người này ra nước ngoài hay cho đi lưu đày biệt xứ. Họ quản thúc ông Sakharov, Nhà Bác Học đầu tiên chế ra bom nguyên tử tại Thành Phố Gorgi. Cho Tướng Piotr Grigorenko an trí trong nhà thương điên…
Trước sự đe dọa quá lớn cùng với sự che đậy bịp bợm, các nạn nhân không đủ can đảm để phát biểu và cũng không còn khả năng để hội nhập vào cái xã hội còn đầy rẫy những tên chỉ điểm, những hung thủ đang sống nghênh ngang. Trong tác phẩm ‘’Rồi mọi việc cũng qua’’, tác giả Vassili Grossman tỏ vẻ thất vọng khi so sánh hai thảm kịch. Thảm kịch Do Thái đã được chính người Do Thái trên toàn thế giới chu lo tưởng niệm. Trong khi thảm kịch của những nạn nhân của chế độ cộng sản không hề có quyền đòi hỏi bồi thường, cho dù chỉ làm một lễ tưởng niệm nhỏ. Tất cả đều bị cấm kỵ.
Một khi cộng sản không còn che dấu được một số sự thật như các vụ xử bắn, các trại tập trung, gây ra các nạn đói… thì chúng vội vàng chạy tội vụng về. Sau khi nhìn nhận có xảy ra các cuộc khủng bố, họ tìm cách biện minh hợp lý. Họ cho rằng khi người ta đốn gỗ trong rừng thì có các dăm cây bay ra ngoài. Hay muốn chiên trứng gà thì phải đập vỏ trứng. Nhưng nào có chiên trứng gà nào đâu! Cái bịp bợm nhất là cách sử dùng ngôn ngữ của cộng sản. Hình thức tập trung chúng gọi la trại cải tạo. Các tên cai tù thì mệnh danh là các tên quản giáo. Họ cố biến những tù nhân của chế độ cũ thành những người của chế độ mới. Ở các trại tù Sô Viết, các tên cai tù dùng bạo lực bắt tù nhân phải thừa nhận chính quyền. Tại Trung Cộng, các tù nhân là những sinh viên bị cưỡng bách đi lao động. Họ bị bắt buộc phải học các tư tưởng do đảng đưa ra và phải sửa sai tư tưởng cá nhân. Phải nói láo những sự thật. Nó làm cho tư tưởng của con người trở nên loạn thị về xã hội và chính trị. Tuy vậy sự méo mó về đường lối tuyên truyền của cộng sản còn có thể sửa đổi được, nhưng khó có thể đưa những đã vi phạm tư tưởng trở về cái tri thức thích nghi. Cái ấn tượng đầu tin đã trở thành thiên kiến. Những người cộng sản nhờ guồng máy tuyên truyền mạnh mẽ, khó có ai sánh kịp, cộng thêm vào đó với cách sử dụng ngôn ngữ điếm xão, đôi khi còn dùng vũ lực để chống lại các lời tố cáo về các hành động khủng bố của chúng, chúng tạo được một hàng ngũ chặt chẽ, kéo theo cảm tình viên, lập lại chủ nghĩa cộng sản. Các người cộng sản biết sử dụng một cách có hiệu lực nguyên tắc đầu tiên của hệ tư tưởng. Ông Tertullien đã từng tiên bố: ‘’Tôi tin, dù cho phi lý’’.
Nằm trong khuôn khổ tuyên truyền, nhiều nhà trí thức khoa bản đã bán đứng lương tri của họ. Vào năm 1928, Văn Hào nổi danh của Nga, ông Gorki đã chấp nhận đi viếng các vùng thuộc Quần Đảo Solovski. Nơi đây là thí điểm tập trung mà sau này theo nhận xét của Soljenitsine, trở thành hệ thống trại tù Goulag. Sau chuyến viếng thăm, Nhà Đại Văn Hào Gorki viết các bài báo ca tụng chế độ Sô Viết và quần đảo Solovski. Một nhà văn Pháp, ông Henri Barbusse sau khi đoạt giải văn chương Goneourt vào năm 1916 đã viết bài nịnh hót chế độ Staline. Năm 1928 ông cho xuất bản quyển ‘’Xứ Georgie tuyệt vời’’. Đó là quê hương của Staline. Tại nơi này, Staline cùng với thân cận Ordjonikidze vào năm 1921 đã mở một cuộc tàn sát rùng rợn.
Gần đây, Mario Maccio đã ca tụng Mao và Alain Peyrefitte cũng làm như vậy. Bà Danielle Mitterand cũng từng ca tụng Fidel Castro. Lòng gian tham, sự nhu nhược tính khoe khoang và sự hư ảo đã bị bạo lực cách mạng thôi miên. Các chế độ độc tài, dù với động cơ nào, vẫn luôn luôn có người sùng bái và ca tụng. Và họ cũng cần những người này. Chế độ độc tài cộng sản cũng vậy.
Đứng trước các lời tuyên truyền của cộng sản, các nước Tây phương có thái độ mù quáng lạ lùng. Hầu hết các nước Tây Âu đã tỏ ra quá ngây thơ đối với chế độ cộng sản xão quyệt. Phải chăng họ khiếp sợ trước sức mạnh của Sô Viết hay vì cái vô liêm sĩ của các chính khách? Tại hội nghị Yalta vào năm 1945 đã hiện diện sự mù quáng này. Tổng Thống Hoa Kỳ đã buôn rơi các nước Đông Âu cho Staline và Staline hứa sẽ cho tổ chức bầu cử tại các quốc gia này. Năm 1944, Tổng Thống De Gaulle tại Mạc Tư khoa, đã bỏ rơi Ba Lan cho bạo chúa Staline để đổi lấy sự chấp thuận của lãnh tụ cộng sản Pháp Moris Thorez về một bảo đảm an ninh xã hội và chính trị trên đất Pháp khi khi chiến tranh kết thúc.
Việc làm mù quáng này đã cũng cố một cách hợp pháp lòng tin của những người cộng sản Phương Tây và các thành phần khuynh tả. Họ cho rằng ở phía sau bức màn sắt là thiên đàng chủ nghĩa xã hội. Nhiều cuộc tranh luận về vấn đề này trong các nước dân chủ. Họ cho rằng phía bên kia bức màn sắt là một thực thể. Bà Simone Veil nhấn mạnh rằng công nhân cách mạng rất sung sướng vì họ được nhà nước yểm trợ. Một nhà nước ủng hộ chính thức các hoạt động của công nhân. Chỉ có nhà nước mới có quyền ban cho. Chủ nghĩa cộng sản tự xưng là con đẻ của truyền thống giải phóng, con người và xã hội, một giấc mơ về sự bình đẳng thực sự, một hạnh phúc cho tất cả mọi người. Trong cái hào quang sáng chói này, cộng sản đã phơi bày tất cả tất cả những điều nhơ nhớp mà chủ nghĩa xã hội đã gây ra.
Dù muốn hay không, sự không biết về chiều sâu của tội ác do cộng sản gây ra mỗi lúc một gia tăng. Một phần cũng tại sự thờ ơ của các người cùng thời với anh, cha chúng ta. Không phải con người có quả tim chai đá. Ông Tzvetan Todorov nhấn mạnh: ‘’Ký ức tang chế của cá nhân ta đã cản trở ta cái tri giác cảm xúc các nổi đau khổ của người khác…’’.
Thế kỷ 20 là thế kỷ xảy ra quá nhiều tang thương. Con người đã gánh chịu quá nhiều nổi đau khổ cho nên chẳng mấy ai còn có thể động lòng trắc ẩn trước sự đau khổ của người khác.
Có ba lý do che dấu tội ác của cộng sản :
1. Trước hết là vấn đề liên hệ đến ý thức cách mạng. Cho tới ngày nay nhiều người vẫn còn sùng bái ý niệm cách mạng của giữa thế kỷ thứ 19. Các biểu tượng như lá cờ đỏ, bài quốc tế ca, nắm tay dơ lên cao, có dịp xuất hiện khi có sự tranh chấp xã hội. Hình ảnh Che’ Guerava trở thành cái mốt thời trang. Nhiều nhóm người làm cách mạng, sinh hoạt công khai, lên tiếng phản đối những ai chỉ trích về tội ác của những người làm cách mạng đi trước. Họ không ngần ngại đọc các bài diễn văn ca tụng những tội phạm như Lenine, Staline, Mao… Có rất nhiều tác giả viết nhiều sách ca tụng và tin tưởng vào những lời tuyên truyền của cộng sản.
2. Lý do thứ hai của hành động che dấu tội ác của cộng sản là bởi Sô Viết đã tham gia vào cuộc chiến tranh chống Hitler và đã chiến thắng. Đó là cơ hội để cho những người cộng sản chính thức đeo mặt nạ của những người ái quốc lương thiện hòng đạt cho kỳ được mục tiêu tối hậu là nắm lấy chính quyền.
Từ đầu tháng 6 năm 1941, khi quân Đức xua quân xâm chiến lãnh thổ Sô Viết, tất cả các đảng viên đảng cộng sản ở các quốc gia bị Đức chiếm đóng, đồng loạt đứng lên, chiến đấu võ trang chống lại Quốc Xã Đức hay Phát xít Ý. Những người cộng sản cũng đã chịu cùng số phận của các tổ chức chính trị khác. Hàng ngàn đảng viên cộng sản bị hành hung, bắt giam, lưu đày lao động khổ sai hay bị xử bắn. Cộng sản đã thần tượng hòa những đảng viên bị tù đày hay bị xử bắn để nâng cao lý tưởng của chúng và còn dùng để chỉ trích những ai tố cáo tội ác của chúng. Ngoài ra, còn có rất nhiều người không phải là cộng sản, cùng sát cánh với cộng sản trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, không chịu mở mắt ra. Tại nước Pháp, quân của cánh De Gaulle vì cùng chung chống Đức Quốc Xã với quân của Sô Viết nên họ theo De Gaulle trở thành bộ phận của Sô Viết đối chọi với Hoa Kỳ.
Việc các người cộng sản tham gia chống Phát xít được coi như là mẫu mực của phe tả. Những người cộng sản tự coi mình là tiêu biểu của lực lượng chống Phát Xít. Nhân danh nhãn hiệu chống Phát xít này, cộng sản đã làm câm họng những ai chỉ trích họ.
Francois Furet đã nhấn mạnh rất nhiều về cái điểm cốt cán này. Đức Quốc Xã thua trận, các nước gọi là điều ác. Những người cộng sản chiến thắng Đức, đó là điều thiện. Trong Tòa Án Numberg, cộng sản ngồi vào ghế biện lý. Chính nhờ vậy, họ đã che lấp các hoạt động xấu xa đối với giá trị dân chủ của các nước Tây phương. Cộng sản đã từng ký hòa ước với Đức Quốc Xã vào năm 1939, cùng với quân Đức tàn sát các sĩ quan Ba Lan tại Katyn vào mùa Xuân 1940. Nhân dân các quốc gia bị Đức chiếm đóng và được các nước Đồng Minh Anh, Hoa Kỳ giải phóng thì tỏ ra vô cùng biết ơn Hồng Quân Nga và cùng chia sẻ với nhân dân Sô Viết về những sự mất mát vì chiến tranh. Ngành tuyên truyền của cộng sản khai thác triệt để các sự kiện này. Đồng thời, bộ máy tuyên truyền của cộng sản cũng tìm cách che dấu những tội ác của chúng gây nên tại các quốc gia chúng chiếm đóng. Các nước Tây Âu cũng như dân chúng trên toàn thế giới đâu biết những gì đã xảy ra. Sử gia đã chia các cuộc chiến giải phóng ra làm hai loại: Một là dân chủ hóa các quốc gia nằm trong khối Đồng Minh Tây Âu. Hai là thiết lập chế độ độc tài ở các quốc gia thuộc quyền kiểm soát của Hồng Quân Nga. Ông Witold Gombrowicz diễn tả thảm cảnh của các quốc gia bị Hồng Quân chiếm đóng như sau:
‘’Chiến tranh đã kết thúc nhưng không giải phóng cho người dân Ba Lan. Tại khu vực đau khổ Trung Âu này, đó chỉ là sự thay đổi bóng tối này bằng một bóng tối khác. Các hung thủ của Staline đến thay các hung thủ của Hitler mà thôi. Trong khi đó, tại Thủ Đô Ba Lê của nước Pháp người ta ca hát chào mừng nhân dân Ba Lan đã được giải phóng khỏi gông cùm phong kiến…’’
3. Lý do thứ ba của sự che dấu tội ác rất tế nhị.
Sau năm 1945, sự kiện diệt chủng dân Do Thái đã trở thành một hiện tượng dã man hiện đại. Hiện tượng này xâm chiếm tất cả tâm tư của con người. Trước thế chiến, cộng sản cho rằng họ không hề có hành động ngược đãi dân Do Thái. Và họ biết rất rõ là họ sẽ đạt được nhiều thắng lợi trên mặt tuyên truyền một khi họ khuyến khích phong trào chống Phát Xít. Gần đây, tại các nước cộng sản lại xảy ra vụ xét lại tội diệt chủng dân Do Thái, với mục đích làm mờ đi tội ác tương tự của chúng.
Khúc quanh lớn đã diễn ra vào ngày 24 tháng 2 năm 1956. Đó là ngày chính thức nhìn nhận tội ác của cộng sản. Buổi chiều ngày hôm ấy, Bí thư thứ nhất của đảng cộng sản Liên Xô, ông Nikita Khruhchev khai mạc đại hội lần thứ 20 của đảng cộng sản. Đại hội họp trong phòng kín. Các đại biểu im lặng và căng thẳng ngồi nghe Khruhchev vạch tội Staline, ròng rã 30 năm là người hùng của chủ nghĩa cộng sản thế giới. Bản phúc trình mật từ ngày đó đã là nguyên nhân của sự chuyển hướng căn bản của chủ nghĩa cộng sản ngày nay. Và đây là lần thứ nhất một người lãnh đạo cao cấp cộng sản chính thức thừa nhận những người lãnh đạo từ năm 1917 đã gây ra tội ác.
Có nhiều lý do đã thúc đẩy Khruhchev phá vỡ một trong những điều cấm kỵ của cộng sản. Mục đính chính của Khruhchev là tìm cách quy tội cho một cá nhân để chạy tội cho chính sách dã man của chủ nghĩa cộng sản. Trong kế hoạch này, ông tấn công và khai trừ các đảng viên tay chân của Staline, những người theo Staline và chống lại ông. Kết quả cho chúng ta thấy rõ vào mùa Hè năm 1957, tất cả các đảng viên thân Staline ở mọi ngành, mọi nơi đều bị cách chức. Thí dụ điển hình này chỉ là một chi tiết tầm thường. Trên thực tế còn nhiều điều kinh hoàng hơn. Khi ông ta còn ở chức vụ Bí Thư vùng Ukraine, được coi như là lãnh chúa của vùng, trong nhiều năm phát động nhiều vụ tàn sát khủng khiếp. Trong tập hồi ký, ông chỉ ghi lại những thành quả tốt đẹp của ông mà thôi. Đại hội kết thúc với những quyết nghị và chương trình thi hành các nghị quyết. Nhưng rồi họ làm được những gì. Ông ta viết:
‘’Vậy chúng ta phải làm gì cho những người bị xử bắn vô tội, phải làm gì cho những người bị bắt và bị thủ tiêu? Chúng ta có bằng cớ rõ ràng rằng họ là những người công dân lương thiện, họ là những đảng viên trung thành với đảng. Họ đã hy sinh cho chủ nghĩa cộng sản. Sớm hay muộn gì, những người hiện còn bị giam trong các khám sẽ được trả tự do. Họ sẽ kể lại cho thân nhân nghe những gì đã xảy ra. Vì vậy tôi phải thú nhận trước các đại biểu hiện diện ngày hôm nay về đường lối lãnh đạo sai lầm của đảng trong những năm đó. Làm sao chúng ta có thể nói là chúng ta không hề biết gì chuyện đó. Chúng ta phải biết rằng đó là một thời kỳ đàn áp và độc đoán ở trong đảng. Chúng ta có nhiệm vụ phải trình bày trước đại hội những gì chúng ta biết. Trong cuộc sống, những người phạm tội sẽ nhận khoan hồng nếu như họ thú tôi’’.
Cũng có một số trường hợp hối hận xảy ra. Nhiều người trước kia tham dự trực tiếp vào các vụ tàn sát thời Staline, tiêu diệt các đảng viên khác để chiếm giữ các chức vụ quan trọng, nay cũng tư phê bình, tự kiểm điểm. Đó chỉ vì sự cưỡng bách mà phải làm. Ai đó có thể trực tiếp đứng ra ngăn chận sự tàn sát này? Đó là Khruhchev. Nhưng rồi cũng chính Khruhchev vào năm 1956 đã ra lịnh cho Hồng Quân kéo xe tăng vào đè bẹp dân chúng Hung gia Lợi.
Trong các phiên họp đại hội thứ 22 của đảng cộng sản, Khruhchev lại một lần nữa cho rằng đảng viên cộng sản là nạn nhân của Staline. Ông cho xây đài tưởng niệm những người cộng sản này. Ông đi trở lại con đường độc tài. Con đường độc tài tuyệt đối dành riêng cho cộng sản.
Vào năm 1962 khi còn tại quyền tổng bí thư đảng, ông Khruhchev cho xuất bản quyển ‘’Một ngày của Ivan Denissovitch’’ của Alexandre Soljenitsine. Ngày 24 tháng 10 năm 1960 Khruhchev bị truất phế, nhưng không bị thủ tiêu. Ông mất âm thầm vào năm 1974. Chẳng ai hay biết, ngoại trừ thân nhân.
Nhiều người nhìn nhận rằng bản ‘’phúc trình mật của Khruhchev’’ phá vỡ căn bản chính sách của cộng sản trong thế kỷ thứ 20.
Theo ông Francois Furet một đảng viên cộng sản Pháp ly khai năm 1954 cho rằng bản phúc trình mật chỉ là một sự thú nhận quanh co. Bản phúc trình chỉ đề cập đến những người cộng sản là nạn nhân của Staline. Nhưng theo ông, dù sao bản phúc trình mật cũng xác nhận là có xảy ra các vụ tàn sát kinh hoàng và ở mức rộng lớn trên đất nước Nga. Điều mà có nhiều người từ lâu nay vẫn nghi ngờ. Nhiều lãnh tụ đảng cộng sản ở các quốc gia khác không chịu thừa nhận tội ác như Khruhchev đã làm. Mãi đến năm 1979, đảng cộng sản Trung Quốc mới chịu phân tích con đường chính trị của Mao. Họ cho rằng Mao đã có công rất lớn cho đến năm 1957. Sau đó họ Mao đã làm sai. Cộng sản Việt Nam chỉ đề cập đến điểm này xuyên qua việc tố cáo ‘’hành động diệt chủng của Pol Pot’’. Còn Castro thì cho rằng không hề có bạo lực xảy ra dưới thời của ông.
Cho đến lúc này, chỉ có những người chống đối cộng sản, những thành phần ly khai lên tiếng kết án tội ác của cộng sản. Kết quả của các vụ tố cáo chẳng đi đến đâu. Chỉ có những người sống sót được trong các trại tù của Đức Quốc Xã, của cộng sản mới đủ ý chí quyết liệt tố cáo tội ác. Nhưng ở Pháp không mấy ai chịu nghe họ. Pháp có trên 10.000 công dân sinh sống trong hai vùng Alsace và Lorraine, bị Quốc Xã sát nhập vào Đức. Trong chiến tranh, Những người Pháp này bị Đức gởi đi ra mặt trận trên đất Nga. Họ bị Hồng Quân bắt làm tù binh và bị ngược đãi. Cho đến ngày hôm nay, 50 năm sau, gia đình của họ không hề biết được tin tức gì cả. Chính phủ Pháp chưa giải quyết thỏa đáng.
Tháng hai năm 1956, bản phúc trình mật do Khruhchev đọc trước đại hội đảng lần thứ 20 đã làm đảo lộn hàng ngũ cộng sản. Lời tố cáo không phải xuất phát từ Phương Tây Tự Do mà từ Thánh địa Mạc Tư Khoa. Ý niệm cộng sản bị lung lay, không phải chỉ ở Nga mà còn dao động ở các nước cộng sản chư hầu. Bởi vì lời tố cáo không phải phát xuất từ một đảng viên bình thường do bất mãn, trái lại, nó do chính Chủ Tịch nhà nước đương kiêm đệ nhất Bí Thư Khruhchev đích thân tuyên đọc. Sự kiện này khiến cho người ta tự hỏi, liệu chủ nghĩa cộng sản còn đáng được tin tưởng hay không? Cả hội trường, không một đảng viên đại biểu nào phát biểu chống lại, chứng tỏ bản phúc trình mật có một giá trị sức mạnh ghê gớm.
Từ đầu năm 1917, đã xảy ra nhiều sự kiện lịch sử nghịch lý. Một nhóm tỏ vẻ hồ hởi đón nhận cái gọi là ‘’tia sáng lớn lóe ra từ phương Đông’’. Nhóm khác cực lực chỉ trích các hoạt động của người bolshevik. Các cuộc tranh cải giữa hai khuynh hướng nhằm vào các cuộc khủng bố bạo lực của Lenine.
Trong những thập niên 20 và 50, cũng có nhiều người lên án bộ mặt thật của những người bolshevik. Nhưng phải đợi đến khi người cộng sản tự thú thì tốc độ tố cáo mới có phần gia tăng. Nhiều ủy ban thành hình có nhiệm vụ thu nhập những ký ức của nạn nhân. Như Ủy Ban Quốc Tế về chế độ Trại tập trung của David Rousset hay ủy ban về sự thật tội ác của Staline… Nhưng tiếng nói của các Ủy ban bị lấn át bởi tiếng trống tuyên truyền của cộng sản và được nối tiếp bởi sự yên lặng hèn hạ gần như thờ ơ. Ngay cả khi Soljenitsine cho xuất bản quyển ‘’Quần đảo Goulag’’ và tác phẩm ‘’Ảo ảnh chết người’’ của Pin Yathay dư luận ở Tây phương vẫn tiếp tục im lặng. Xã hội Tây Phương vẫn từ chối nhìn nhận sự thật đã xảy ra trước mắt họ: Chủ nghĩa cộng sản từ căn bản, ở mỗi cấp độ, tất cả đều đã nhúng tay vào tội ác.
Từ năm 1920 đến năm 1950 vì cộng sản bưng bít, nên các nhà nghiên cứu các tài liệu về các tội ác, chỉ có thể căn cứ vào những lời khai của các nhân chứng trốn thoát khỏi địa ngục Liên Sô.
Năm 1959 một viên chức cao cấp của cơ quan tình báo Sô Viết KBG rời bỏ hàng ngũ chạy qua Tây Phương tìm tự do. Ông ta trình bày tất cả các chi tiết về các trại Goulag và được viết lại trong tác phẩm ‘’Chế độ trại tập trung của Sô Viết từ 1930-1957’’, tác giả là Paul Barton. Sách do nhà xuất bản Plon phát hành năm 1959. Ông Paul Barton là ai. Ông ta là người Tiệp Khắc lưu vong. Tên thật của ông là Jiri Veltrusky. Ông là một trong những người tham dự của nổi dậy ở Thủ Đô Prague của Tiệp Khắc vào năm 1945 chống lại Đức Quốc Xã.
Năm 1948 ông trốn qua Pháp.
Vào những thập niên 70- 80, Soljenitsine cho ra đời tác phẩm ‘’Quần đảo ngụ tù Goulag’’.
Dư luận có chú ý, nhưng Soljenitsine cũng đã gặp nhiều khó khăn khi tìm cách phá vỡ cái lớp lừa bịp. Vào năm 1975, một ký giả của tờ báo lớn ở Pháp, tờ Humanité đã ví Soljenitsine, người đạt giải thưởng Nobel văn chương, như các ông Pierree Laval, Doriot và Deat. [ các ông này bị Tòa Án Pháp kết tội tử hình vì đã nghinh đón quân Đức như đón những đoàn quân giải phóng ].
Những gì ông Soljenitsine viết, cũng như những gì ông Chalamov kể về Kolyma hay ông Pin Yathay nói về Cao Miên đều là những nhận thức quyết định đầu tiên về ý thức.
Gần đây, ông Vladimir Boukovski, một trong những người ly khai trong phong trao ly khai dưới thời Brezhnev, đã phản kháng trong tác phẩm ‘’Xử án tại Mạc Tư Khoa-Jugement a Moscow’’. Ông ta kêu gọi thành lập một Tòa Án quốc tế như Tòa Án Numberg để xử tội ác của chế độ cộng sản. Tác phẩm của ông ta được thế giới Tây phương tiếp nhận nồng hậu. Nhưng đồng thời chúng ta cũng thấy các tài liệu kêu gọi phục hồi danh dự và sự nghiệp của Staline.
Ngày hôm nay các trung tâm văn khố trưng bày các sự thật, đã thúc đẩy công việc sưu tầm các tội ác. Trung tâm văn khố của Liên Bang Sô Viết cũ, của các nước Đông Âu, của Cao Miên đã đưa ra ánh sáng những sự kiện kinh hoàng. Đã đến lúc phải mở một cuộc điều tra theo phương pháp khoa học về tội ác của chủ nghĩa cộng sản mà không sợ bị chi phối vì lý do chính trị. Câu hỏi được đặt ra là phải quy trách tội ác của cộng sản ở cấp độ nào cho đúng?
Để trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này, cần phải có những đóng góp đặc thù trong công tác nghiên cứu.
Điểm thứ nhất, chúng tôi làm bổn phận của chúng tôi đối với lịch sử.
Đối với sử gia, không thể có áp lực nào cho dù chính trị, tư tưởng hay cá nhân riêng tư cấm đoán họ nghiên cứu bất kỳ một đề tài nào. Ngày nay không ai có thể ngăn chận sự tìm hiểu, khai quật và phán quyết những gì đã xảy ra và nhất là những sự kiện từ bấy lâu nay bị dấu kín trong các văn khố cũng như trong lương tâm của con người.
Vấn đề nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản không thể chỉ giới hạn trong tầm vóc một quốc gia, một xã hội hay chỉ trong lãnh vực văn hóa. Bởi với chính sách cực quyền, cộng sản không những chỉ hoạt động trên phần đất Âu Châu và còn bao trùm khắp cả thế giới.
Nói một cách khác, vấn đề tội ác cộng sản không những chỉ xảy ra trên phần đất Nga mà còn cả trên lãnh thổ Trung Quốc của Mao trạch Đông, trên Bắc Triểu Tiên ở Việt Nam, trên đất Chùa Tháp Cao Miên của Pol Pot nữa. Tại các quốc gia này, cộng sản thực hiện mẫu mực những gì đã xảy ra trên đất Nga, trở thành phòng trào cộng sản thế giới. Sự kiện lịch sử mà chúng ta đang trực diện có liên quan đến toàn thể nhân loại trên trái đất.
Lịch sử và ký ức được quy định trong nhiều hình thức khác nhau. Ở một nơi, nó liên hệ đến các quốc gia mà nơi đó cộng sản không có một chút ảnh hưởng nào trong lãnh vực kinh tế hay xã hội. Như ở các quốc gia Anh, Úc, Bỉ….
Ở một nơi khác, chủ nghĩa cộng sản tỏ ra đáng ghê sợ. Như ở Hoa Kỳ sau năm 1946. Cộng sản có thể cướp lấy chính quyền ở Pháp, ở Ý, ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay ở Hy Lạp. Tại một số quốc gia Đông Âu, cộng sản ngự trị hàng chục năm, cho tới những năm gần đây mới bị dân chúng hạ bệ… Và ngọn lửa cộng sản vẫn còn chập chờn gây đe dọa tại Trung quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba, Lào và Việt Nam.
Tùy theo hoàn cảnh và thái độ của những người đương thời, vấn đề lịch sử cũng như những ký ức không giống nhau. Trường hợp tại các quốc gia nói trên, thái độ của họ chỉ là những cuộc vận động đơn giản về suy tư. Nhưng ở trường hợp khác, họ còn phải đương đầu với một số vấn đề cần thiết cho sự hòa giải quốc gia trong những quyết định trừng phạt hay tha thứ cho những phạm tội đã gây ra tội ác. Nước Đức là một trường hợp đặc biệt. Việc thống nhất nước Đức quả là một phép mầu nhiệm. Nó không giống như Tiệp Khắc chia làm hai quốc gia riêng biệt. Còn Nam Tư thì tan rã ra từng mảnh nhỏ. Các nước Ba Lan, Miên thì vẫn còn còn ray rứt với cái quá khứ tội ác. Ở một mức độ nào đó, hiện tượng quên đi những gì trong quá khứ có thể chấp nhận để hàn gắn vết thương luân lý và tâm lý của từng cá nhân hay của tập thể.
Tại các nước cộng sản, thì việc chối bỏ tội ác được thực hiện một cách có hệ thống. Trung Cộng, Cu Ba Bắc Triều Tiên, Việt Nam vẫn còn cai trị bằng bạo lực.
Về phương diện luân lý, không ai có quyền phủ nhận bổn phận của họ đối với lịch sử và ký ức.
Không một ai có quyền bảo rằng ‘’Ai cho anh cái quyền nói đến Thiện và Ác’’. Giáo Hội Thiên Chúa Giáo, qua Thông Điệp Mit Brennender Sorge đề ngày 14 tháng 7 năm 1937 của Đức Giáo Hoàng Pio XI, đã chính thức lên án chủ nghĩa Quốc Xã. Thông Điệp thứ hai Divini Redemtoris đề ngày 19 tháng 3 năm 1937 Đức Giáo Hoàng tố cáo cộng sản. Thông Điệp thứ hai nhấn mạnh những đặc quyền của Thiên Chúa ban cho loài người. Quyền sinh sống, Quyền được toàn vẹn thân thể, Quyền được hưởng những nhu cầu cấn thiết hằng ngày, Quyền được sống đến ngày cuối cùng theo con đường Chúa đã vạch định, Quyền được hội họp, Quyền tư hữu, Quyền sử dụng các tư hữu này. Cho dù ai có mỉa mai cái đạo đức gỉa nào đó của Giáo Hội khi cho phép những người làm giàu quá mức bằng cách chiếm đoạt tài sản của người khác, nhưng vấn đề nhắc nhở con người phải tôn trọng nhân phẩm vẫn là điều cần thiết.
Năm 1931, trong một Thông Điệp, Đức Giáo Hoàng XI nhận định rằng, cộng sản hoạt động công khai và tìm đủ mọi cách kể cả bạo lực để đạt cho kỳ được hai mục tiêu. Đó là: Luôn luôn đấu tranh giai cấp và hủy bỏ hoàn toàn quyền tư hữu.
Cộng sản sử dụng mọi phương tiện để đạt cho được hai mục tiêu này. Cộng sản chẳng tôn trọng cái gì cả. Nơi nào cộng sản nắm chính quyền thì nơi đó cộng sản cho thi hành khủng bố tàn bạo. Các cuộc tàn sát ở Đông Âu và ở Á Châu đã chứng tỏ điều này. Lời cảnh cáo của Đức Giáo Hoàng mang nhiều ý nghĩa vì nó phát xuất từ một cơ chế tồn tại qua nhiều thế kỷ.
Nếu cho rằng Giáo Hội giữ vai trò kiểm duyệt về luân lý, thì những người viết sử phải viết làm sao về các mẫu chuyện mang tính chất anh hùng của những người cộng sản và những mẫu chuyện thống thiết của các nạn nhân của cộng sản? Trong tác phẩm ‘’Hồi ký của nấm mồ – Memoiries d’outre-tombe’’, Nhà Văn Francois Rene’ de Chateaubriand viết:‘’Trong sự im lặng của đê hèn, người ta không còn nhớ đến những tiếng kêu của dây xích của người nô lệ hay không nghe tiếng nói của người tố cáo’’.
Trong khi mọi người khiếp sợ trước bạo chúa, các sử gia đứng ra làm công việc báo thù cho dân tộc. Nhưng ở vào những ngày cuối cùng trong đời, Chateubriand không còn tin tưởng vào ‘’việc báo thù cho dân tộc’’. Và với tư cách là sử gia, với khả năng khiêm tốn, người viết sử cho dù không muốn mình là phát ngôn viên của nạn nhân, cũng phải sẵn sàng nói lên sự thật những gì mà họ đã trải qua. Người viết sử thực hiện công việc của ý thức. Công việc của sử gia là thiết lập các sự kiện thực đã xảy ra. Ngoài ra còn có sự liên hệ của sử gia với chế độ cộng sản. Họ đã bị bắt buộc phải viết lên lịch sự của sự lừa dối. Mặc dù các cánh cửa của các văn khố đã mở toanh, các tài liệu trình bày ra trước mặt, nhưng sử gia cũng phải đề phòng để khỏi trở thành quá ‘’thơ ngây’’ trong một số vấn đề phức tạp, có nhiều hậu ý, cần phải tranh luận.
Nhưng các sự hiểu biết về lịch sử không thể không kể đến sự phán xét, nếu muốn tôn trọng giá trị của nền dân chủ, và nhất là việc tôn trọng nhân phẩm. Trong cái ý niệm này, sử gia phán xét những chủ chốt của lịch sử. Ngoài những lý do khách quan đã thúc đẩy các sử gia sưu tầm các tội ác lịch sử, còn có lý do của cá nhân họ. Có nhiều vị cộng tác trong tập tài liệu này đã từng là những người bị lý thuyết cộng sản mê hoặc. Các vị này cũng từng ủng hộ chủ nghĩa cộng sản chính thống Lenine-Staline hay chủ nghĩa cộng sản ly khai Trotsky-Mao trạch Đông.
Việc nghiên cứu để so sánh các việc xảy ra ở Trung Quốc, Liên Xô, Cu Ba và cả ở Việt Nam cần phải có một cuộc sưu tầm rộng rãi. Đến nay chúng tôi chỉ có một số ít tài liệu. Ở vài nơi, các trung tâm văn khố mở cửa. Có nơi chỉ hé mở. Và nơi khác thì vẫn còn đóng kín. Với tình trạng này, chúng tôi chưa đủ để có thể bắt tay vào công việc nghiên cứu. Chúng tôi biết rằng chúng tôi có một số tài liệu tuy không toàn bộ, nhưng phát xuất từ những tổ chức đáng tin cậy, được coi như là bước khởi đầu. Chúng tôi mong rằng đây là phát súng khai trương cho các cuộc nghiên cứu rộng lớn sau này. Chúng tôi khởi đầu bằng một cuộc điều tra các sự việc đã xảy ra. Các sự việc này rất là quan trọng và không thể nào chối cãi được.
Quyển sách của chúng có quá nhiều chữ và có rất ít hình ảnh. Ngày hôm nay, con người tiếp nhận thường xuyên các tin tức, hình ảnh qua các hệ thống truyền thanh, truyền hình và trên báo chí. Ảnh hưởng của các cơ quan truyền thông có tác dụng rất lớn trong quần chúng để đánh giá phải trái các sự việc đã xảy ra. Chúng tôi chỉ có một số ít hình ảnh. Các trại tập trung Goulag chúng tôi không có hình. Chúng tôi có vài tấm ảnh của các trại cải tạo ở Trung Quốc. Hình ảnh các nạn đói của ‘’Bước tiến nhảy vọt’’ của Trung Quốc thì không dễ gì có được. Ai cũng biết, đối với cộng sản các hình ảnh như vậy là tuyệt đối phải giữ bí mật.
Những người thắng trận ở Tòa Án Numberg có đủ điều kiện tự do để quay phim chụp hình, kể cả quay cảnh hàng ngàn người chết ở Bergen-Belsen. Họ cũng còn tìm thấy các bức ảnh do các hung thủ Đức Quốc Xã chụp các lính Đức bắn chết một người đàn bà trên tay đang bồng đứa con. Đối với chế độ cộng sản thì không thể chụp hình như vậy được vì các vụ khủng khiếp này luôn luôn xảy ra trong vòng bí mật.
Xin quý độc giả rộng lượng chấp nhận một số ít hình ảnh sưu tầm trong quyển sách.
Xin quý độc giả hãy đọc thật kỹ từng trang một và suy tư về nổi thống khổ mà hàng chục triệu người đã chịu đựng.
Xin quý vị hãy tưởng tượng tấm bị kịch vĩ đại đã diễn ra. Nó đã ám ảnh nhân loại trên toàn thế giới từ mấy thập niên qua và sẽ còn kéo dài mấy thập niên về sau.
Câu hỏi chính yếu được đặt ra là: Tại sao những người như Lenine, Staline, Trotsky hay các đồng chí của họ phải tiêu diệt những người mà họ cho là kẻ thù?
Tại sao những người này có quyền giết người? Như vậy họ đã vi phạm vào điều luật, mặc dù không thành văn, nhưng đã chi phối nhân loại: Người không được giết người.
Đoạn cuối của quyển sách sẽ là phần trả lời cho các câu hỏi này.

HẮC THƯ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN: Phần I (Fossion René và Trần Hữu Sơn lược dịch)

PHẦN I
TÀN SÁT-KHỦNG BỐ-ĐÀN ÁP

CHƯƠNG 1
NGHỊCH BIỆN VÀ SỰ HIỂU LẦM
VỀ CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI
Sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, cái huyền thoại về cuộc Đại cách mạng được coi là ‘’một sự kiện lịch sử không thể tránh được’’ không còn giá trị gì cả. Cái mốc thời điểm 1917 nay chỉ còn là một sự kiện lịch sử bình thường. Rất tiếc là xã hội chúng ta chưa có sử gia nào sẵn sàng đứng lên phá vỡ cái huyền thoại của năm khởi đầu cho tương lai của dân Nga: Sống trong hạnh phúc hay nhận lấy thảm họa.
Một sử gia đương thời người Nga nhận định rằng các cuộc bút chiến về cuộc cách mạng 1917 sau 80 năm vẫn còn diễn ra.
Theo quan điểm của nhóm chủ trương tự do, cuộc cách mạng tháng 10 chỉ là cuộc đảo chánh. Một nhóm người cuồng tín, mặc dù không có cơ chế căn bản nào trong xã hội Nga vào thời đó, nhưng có tổ chức, đã khéo léo dùng bạo lực trấn áp một xã hội thụ động. Vì không hiểu được chiều sâu của xã hội và lịch sử, nhiều người, trong đó có các sử gia, giới trí thức và những người lãnh đạo nước Nga hậu cộng sản đã đánh giá cuộc cách mạng tháng 10 như là một bước đi lạc hướng của một xã hội Nga phong phú, cần cù và đang tiến trên con đường dân chủ.
Một nhóm khác, gồm các thành phần ưu tú, một giai cấp được ưu đãi dưới thời Sô Viết, cương quyết đoạn tuyệt với cái gọi là ‘’dấu ngoặc quái đản chủ nghĩa Sô Viết’’, thể hiện dưới chiêu bài giải phóng xã hội. Thành phần này đã tỏ ra hối hận trong suốt thới kỳ ‘’đổi mới’’ [ 1985-1991] ở Nga, khi họ biết được sự thật vô cùng đau đớn đã xảy ra dưới thời Staline.
Nếu cuộc đảo chính năm 1917 do những người bolshevick chủ xướng, được coi như là một tai nạn, thì chính nhân dân Nga là nạn nhân.
Với nhận định này, những nhà viết sử Liên Sô đã cố gắng giải thích cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917 là kết quả hiển nhiên của một sự kiện có thể tính trước, phải xảy ra. Nó nằm trong lịch trình giải phóng của khối đông dân chúng cùng với ý thức chủ nghĩa bolshevik. Do cách thay đổi các từ, những nhà viết sử đã biến các cuộc bút chiến về biến cố 1917 trở thành một sự kiện lịch sử hợp pháp của chế độ Sô Viết. Nếu quả thật cuộc Đại cách mạng tháng 10 có nhiệm vụ hoàn thành lịch sử, biểu tượng cho một thông điệp giải phóng các dân tộc trên thế giới, thì nó phải chống lại những sai lầm do Staline gây ra. Ngay nay, chế độ Sô Viết đã sụp đổ, chứng tỏ tính cách ‘’bất hợp pháp’’ của cuộc cách mạng tháng 10. Biện chứng Marxist trở thành tầm thường. Nói theo luận điệu bolshevik, biện chứng Marxist bị ném vào thùng rác lịch sử. Tuy vậy, cũng giống như cái sự sợ hải, cái ký ức tầm thường vẫn còn đeo dai dẵn bên người, bên trời Tây nhiều hơn ở Liên Bang Sô Viết cũ.
Nếu chúng ta không chọn hai khuynh hướng tự do và Marxist thì sẽ có khuynh hướng thứ ba. Khuynh hướng này đặt ý thức hệ lịch sử ra ngoài cuộc cách mạng. Họ cho rằng đó là cuộc nổi dậy của một nhóm nhỏ quần chúng.
Trong số rất nhiều câu hỏi được đặt ra về năm 1917, các sử gia đã bác bỏ những sơ đồ đơn giản của trường phái tự do.
Chính sách ‘’quân sự hoá nền kinh tế’’ có liên hệ gì đến việc đế quốc Nga tham đự vào cuộc thế chiến thứ nhất. Phải chăng hiện tượng bạo lực xã hội là môi trường phát sinh bạo lực chính trị, và từ đó chống lại xã hội? Tại sao, nếu cho rằng đó là cuộc cách mạng quần chúng có tính cách sâu rộng, lại có thể để cho một nhóm nhỏ người độc tài, nhiều tham vọng lãnh đạo?
Ngược thời gian, nghiên cứu các công trình sử liệu tranh chấp về quan điểm, chúng ta có thể coi cuộc cách mạng tháng 10 là tụ điểm của hai phong trào. Một phong trào có chuẩn bị kỹ lưỡng để nắm lấy chính quyền do một đảng phái có tổ chức, có hệ tư tưởng chủ động. Cuộc cách mạng xã hội đã diễn ra theo nhiều giai đoạn và dưới nhiều hình thức khác nhau. Khởi đầu là cuộc khởi nghĩa của nông dân. Đó là một tập hợp đông đảo của các tầng lớp nông dân sống ở miền quê, có nguồn gốc lâu đời trong lịch sử Nga. Không những họ chống đối giai cấp địa chủ mà còn phẫn nộ với những người ở sống trong Thành Phố, những người sống bên ngoài nông thôn và những người tham gia vào chính quyền.
Vào mùa Hè và mùa Thu năm 1917, họ đã hoàn toàn thắng lợi. Chu kỳ nổi loạn khởi đầu từ năm 1902, bước vào đĩnh cao năm 1905-1907 và hoàn tất vào năm 1917. Cuộc cách mạng ruộng đất giữa những người nông dân và thành phần địa chủ về vấn đề chia đất canh tác đang ở trong giai đoạn quyết định. Kế hoạch canh tác dựa trên nhân khẩu như bấy lâu nay chờ đợi đã diễn ra để cắt đứt ảnh hưởng của thành thị đối với giới nông dân miền quê. Thời điểm 1917 trở thành cái mốc của các chu kỳ kế tiếp. Các cuộc nổi dậy vào những năm 1918-1922 rồi vào cao điểm của những năm 1929-1932, chính sách tập thể hóa nông nghiệp hoàn toàn thất bại.
Trong năm 1917, song song với cuộc cách mạng của nông dân, lại diễn ra sự tan rã hàng ngũ quân đội trên 10 triệu. Đó là tập hợp của các thành phần nông dân đi quân dịch theo quy chế 3 năm. Họ chẳng biết đi quân dịch để làm gì và tại sao họ phải thi hành. Các Tướng lãnh phàn nàn về tinh thần ái quốc của những quân nhân này. Họ không có ý thức chính trị và cũng chẳng hiểu biết gì về trách nhiệm công dân.
Lực lượng căn bản thứ ba xuất thân từ một thiểu số của xã hội, chỉ có thể đại diện cho 3 % dân số, nhưng họ tập trung ở Thành Phố lớn, có ý thưc chính trị. Đó là giới công nhân thợ thuyền. Hãng xưởng là nơi phát sinh những mâu thuẫn xã hội. Cuộc cách mạnh kỹ thuật ở đầu thế kỷ đã phát sinh ra một phong trào đòi hỏi quyền lợi cho tầng lớp công nhân thợ thuyền. Khẩu hiệu mang tính chất cách mạng của họ là: ‘’quyền kiểm soát thuộc về giới thợ thuyền, chính quyền thuộc về Sô Viết’’.
Phong trào thứ tư cũng là tập thể cuối cùng tham dự vào công cuộc giải phóng đó là những dân tộc thuộc địa của Nga Hoàng đứng lên giành lại độc lập.
Mỗi phong trào, mỗi nhóm mang lấy màu sắc riêng tư. Từ tính năng động, tổ chức nội bộ, thời gian hoạt động cho đến mục đích… mỗi tổ chức hoạt động riêng rẽ. Nó không biểu tượng những khẩu hiệu tuyên truyền của bolshevik. Nó cũng chẳng mang tính chất chính trị của đảng phái này.
Vào năm 1917, các lực lượng này đã góp công rất lớn vào sự phá hủy hệ thống chính quyền Nga Hoàng. Trong khoảng thời gian rất ngắn, vào cuối năm 1917, những người thiểu số bolshevik hoạt động lẻ loi trong đám đông quần chúng. Mục tiêu trước mắt cũng như chiến lược lâu dài của những người bolshevik hoàn toàn khác với các đoàn thể chung quanh.
Nhưng tạm thời họ đứng chung trong một chiến tuyến để tiến hành cuộc đảo chính và thực hiện cuộc cách mạng xã hội, trước khi xảy ra sự xung đột trong nhiều thập niên sau này.
Mùa Thu 1917, các phong trào xã hội cũng như các dân tộc thuộc địa đứng lên đòi tự trị trong một điều kiện lịch sử vô cùng thuận tiện. Một mặt do tình hình chiến tranh xảy ra toàn diện của cuộc thế chiến thứ nhất. Mặt khác do sự thoái hóa về chính trị, khủng hoảng kinh tế, xã hội phá sản của nước Nga. Cuộc thế chiến thứ nhất không những chẳng đem lại cho Nga Hoàng sự thống nhất lãnh thổ mà trái lại còn làm lung lay thành quả cuộc cách mạng 1905-1906. Chiến tranh đã làm kiệt quệ nền kinh tế, non trẻ, chưa kịp hiện đại hóa vì lý do vốn tư bản cũng như chuyên viên kỹ thuật ngoại quốc. Chiến tranh đã dựng lại sự cách biệt giữa một nước Nga kỹ nghệ hóa và một nước Nga nông nghiệp. Về mặt chính trị, cái hố ngăn cách giữa nông thôn và thành thị mỗi lúc một sâu.
Nga Hoàng dự trù cuộc chiến sẽ kết thúc sớm. Nhưng khi các eo biển bị phong tỏa, nước Nga đã trở thành một quốc gia hoàn toàn lệ thuộc vào viện trợ ngoại quốc. Từ năm 1915, các vùng đất phía Tây của Nga đã bị liên quân Đức-Áo-Hung chiếm đóng. Do vậy nguồn cung cấp từ BaLan, một quốc gia phát triển kỹ nghệ mạnh nhất trong vùng, bị cắt đứt. Nước Nga không còn sức để theo đuổi cuộc chiến. Ngay từ năm 1915, hệ thống hỏa xa bị ngưng trệ. Đồ phụ tùng không có để thay thế vì phải nhập từ nước ngoài. Việc chuyển hướng công nghệ phục vụ cho chiến tranh đã làm xáo trộn sản phẩm kỹ nghệ cung cấp cho xã hội. Hậu phương thiếu nhu yếu phẩm, hãng xưởng thiếu nhân công. Nạn lạm phát gia tăng. Ở nông thôn hiện tượng suy sụp trầm trọng hơn. Ngưng cấp phát tín dụng nông nghiệp. Chính quyền trưng thu ruộng đất. Nông dân bị động viên vào quân đội. Nông sản phẩm bị trưng dụng. Các hàng hóa trao đổi giữa nông thôn và Thành Phố sa sút. Tất cả những sự kiện này dẫn đến sự trì trệ quá trình hiện đại hoá các cơ sở nông nghiệp do Thủ Tướng Pior Stolypin nhen nhúm từ năm 1906. Ông bị ám sát vào năm 1910. Trong suốt ba năm chiến tranh, nông dân đã coi chính quyền nhý kẻ thù. Nhất là quần chúng nông thôn. Hằng ngày trong quân ðội quân nhân bị ðối xử tồi tệ. Họ cảm thấy nhý là kẻ nô lệ hõn là những ngýời dân thi hành nghĩa vụ. Xung ðột giữa sĩ quan và quân nhân dýới quyền gia tãng. Thêm vào ðó, quân Nga thua liên tục trên các chiến trýờng ðã làm giảm uy tín chính quyền.
Bản chất bạo động của thời xa xưa vẫn còn hiện diện ở nông thôn. Nó đã bộc phát dữ dội vào những năm 1902-1903 và giờ đây nó xuất hiện rõ ràng vào năm 1917.
Chính quyền thật sự mất quyền kiểm soát kể từ năm 1915. Tại nhiều nơi, nhiều ủy ban và hiệp hội tự đứng quản lý sinh hoạt hằng ngày thay chính quyền. Như săn sóc các thương binh từ các mặt trận đưa về. Chính quyền phải khuyến khích và yểm trợ cho một phong trào lớn đang được diễn ra từ cơ sở hạ tầng cho đến cơ cấu tối cao để chận đứng và tiêu diệt các mầm móng khác đang tìm cách phá hoại cơ chế xã hội Nga lúc bấy giờ.
Thay vì phải liên kết ngay với các phần tử tiến bộ trong xã hội, Nga Hoàng Nicolas II cứ ôm lấy chế độ Quân Chủ Bình Dân. Nga Hoàng muốn duy trì mình là người ‘’cha’’ của Nông dân. Nga Hoàng đích thân giữ chức Tổng Chi Huy Quân Đội. Đó là một hành động tự sát của một chế độ chuyên chế. Tổng hành dinh đóng ở Mongilev bị cô lập. Việc nước kể từ năm 1915 nằm trong tay Hoàng Hậu Alexandra, một người đàn bà gốc Đức, không được lòng dân. Đến năm 1916, chính quyền gần như tan rã. Quốc Hội Douma, do dân bầu nhưng chỉ là đại diện cho một thiểu số dân, hằng năm chỉ họp vài tuần. Chính phủ và Bộ trưởng thay đổi liên tục. Dân chúng không tin tưởng vào Quốc Hội và Chính Quyền.
Trong lúc khủng hoảng chính trị, vụ ám sát Raspoutine vào đêm 31 tháng 12 năm 1916 đã làm sôi nổi dư luận quần chúng. Các cuộc biểu tình đã một thời lắng dịu vì chiến tranh, nay có dịp tái bộc phát, sâu rộng hơn. Các cuộc nổi dậy lan rộng trong hàng ngũ quân đội. Hệ thống tiếp tế tan rã.
Số phận của chính quyền thực sự đã được quyết định từ tháng 2 năm 1917.
Sau năm ngày biểu tình liên tục do giới công nhân thợ thuyền chỉ đạo, cùng với cuộc nổi loạn của vài ngàn quân nhân trong Thành Phố Petrograd, chế độ Nga Hoàng hoàn toàn sụp đổ. Bộ Tổng Tham Mưu không dám huy động quân đội để đàn áp các cuộc nổi loạn như vậy trong Thành Phố. Chính quyền thiếu chuẩn bị chính trị để dàn xếp các đảng phái đối lập.
Nội bộ đảng phái chia rẻ trầm trọng. Từ những người Tự Do của Đảng Dân Chủ Lập Hiến cho đến những người dân chủ Xã Hội.
Cuộc nổi loạn bắt đầu từ ngoài đường phố và kết thúc trong văn phòng của Điện Tauride, Trụ Sở Quốc Hội Douma. Những Đảng viên Tự Do run sợ trước những người ngoài đường phố. Trong khi đó cánh Xã Hội lại coi đây là cuộc cách mạng của giai cấp Tư Sản. Họ cho rằng cứ theo thời gian, cuộc cách mạng tư sản sẽ dẫn đến cuộc cách mạng xã hội toàn diện. Sau nhiều cuộc thương thuyết, các phe đối lập thỏa hiệp một công thức chưa từng xảy ra: Thành lập hai chính quyền. Một bên là Chính Quyền Lâm Thời, có nhiệm vụ tái lập trật tự để tiến tới một nước Nga Tư Bản, liên kết với Đồng Minh Anh, Pháp. Phía bên kia là chính quyền Sô Viết của Thành Phố Petrograd, thuộc phe Xã Hội. Họ tự nhận là những người nối tiếp truyền thống Sô Viết Saint Petesbourg vào năm 1905, đại diện cho khối quần chúng cách mạng.
Từ ngày 2 tháng 3 đến ngày 25 tháng 10 năm 1917 đã có 3 chính phủ lâm thời liên tiếp thay đổi. Tất cả đều tỏ ra bất lực trong việc giải quyết các vấn đề do chế độ cũ để lại: Giải quyết khủng hoảng kinh tế, tham dự cuộc chiến, giải quyết đời sống cho giới công nhân thợ thuyền, vấn đề ruộng đất…
Nhóm Tự Do Dân Chủ Lập Hiến chiếm đa số trong hai chính phủ đầu tiên. Nhóm menshevik và nhóm Xã Hội chiếm đa số trong chính phủ kỳ ba. Họ thuộc thành phần trí thức tiến bộ của một xã hội dân sự trong Thành Phố. Họ tin tưởng một cách mù quáng vào nhân dân. Họ cũng sợ các lực lượng núp trong bóng tối đang bao vây họ. Họ không biết những người trong bóng tối là ai và âm mưu những gì?
Đa số những người mới lên cầm quyền cảm thấy cuộc cách mạng diễn ra ôn hòa. Họ để cho cao trào đòi hỏi dân chủ làm sụp đổ chế độ Nga Hoàng và cố tạo ra một nước Nga Tự Do hơn cả các quốc gia trên thế giới. Đó là ước mơ của những người quá lý tưởng như ông Hoàng LVOV, từng giữ chức Thủ Tướng trong hai chính phủ đầu tiên.
Trong bản tuyên cáo đầu tiên ông Hoàng LVOV nói rằng bản chất của dân Nga là tinh thần dân chủ toàn diện. Tinh thần này sẵn sàng hòa hợp với các nước khác để cùng tiến lên tiếp nối con đường của cách mạng Pháp, đặt căn bản trên các nguyên tắc lớn: Tự Do Bình Đẳng và tình nghĩa anh em.
Tin tưởng vào các niềm tin này, Chính phủ lâm thời ban hành các biện pháp dân chủ. Chính Phủ nhìn nhận các quyền tự do căn bản như bãi bỏ các đạo luật kỳ thị sắc tộc, tôn giáo. Cho phổ thông đầu phiếu. Nhìn nhận quyền tự quyết của các sắc dân trong Cộng Đồng Nga, cho các quốc gia Ba Lan, Phần Lan quyền tự trị…Qua các biện pháp này, chính phủ hy vọng sẽ tạo sự đoàn kết trong dân chúng, cùng nhau chiến thắng cuộc chiến, tiến tới hợp tác với các nước dân chủ Đồng Minh Tây Phương. Vì quá lo cho vấn đề pháp lý, chính phủ lâm thời đã khước từ một số biện pháp căn bản để bảo đảm cho tương lai trước khi triệu tập Quốc Hội vào mùa Thu năm 1917. Vì chỉ giữ vai trò lâm thời, chính phủ không giải quyết các vấn đề hệ trọng như vấn đề Hòa Bình, vấn đề ruộng đất. Và vì cuộc chiến còn đang diễn ra, nên chính phủ Lâm Thời trong thời gian ngắn ngũi, cũng chẳng giải quyết được gì cho cuộc khủng hoảng kinh tế của nước Nga. Tình trạng khan hiếm nhu yếu phẩm vẫn diễn ra hằng ngày. Vấn đề tiếp tế lương thực, và sinh hoạt trao đổi thực phẩm giữa thành thị và nông thôn bị tắc nghẽn. Hãng xưởng đóng cửa. Con số thất nghiệp của giới công nhân thợ thuyền gia tăng. Tất cả những sự kiện trên làm cho tình hình xã hội cáng lúc càng căng thẳng.
Đứng trước thái độ ‘’chờ thời’’ của Chính Phủ Lâm Thời, nhiều tổ chức xã hội dân sự tự động đứng ra giải quyết vấn đề. Trong vòng vài tuấn lễ đã có hàng ngàn tổ chức Sô Viết, ủy ban công xưởng, ủy ban các khu phố, các đội tự vệ võ trang công nhân, mệnh danh là các Vệ Binh Đỏ, các ủy ban nông dân, các ủy ban quân nhân… tự thành hình và tự hành động. Các cuộc hội thảo, các quyết định, các yêu sách, những đòi hỏi của quần chúng quay quanh về vấn đề chính trị. Đúng là sinh hoạt giải phóng. Cuộc tranh đấu mỗi ngày mỗi lớn mạnh hơn. Cuộc cách mạng tháng hai này mở đầu cho các sự câm thù và các việc chiếm đoạt đất đai đã ấp ủ từ lâu. Hầu hết các yêu sách mang tính chất chính trị của các tổ chức xã hội đã được chính phủ Lâm thời chấp thuận.
Giới công nhân thợ thuyền quay cuộc đấu tranh qua mặt trận kinh tế. Họ đòi hỏi mỗi ngày làm việc 8 tiếng đồng hồ. Bãi bỏ chế độ tiền phạt vạ. Thành lập các ủy ban bảo đảm an sinh xã hội và tăng lương. Đòi hỏi thay đổi mối quan hệ xã hội giữa chủ nhân và công nhân. Thành lập ủy ban cứu xét đơn xin việc làm và cho nghỉ việc. Họ đòi hỏi quyền kiểm soát trong sản xuất. Nhưng muốn thực hiện quyền kiểm soát của công nhân trong các nhà máy, họ đòi phải có một chính phủ khác. Đó là ‘’Chính quyền Sô Viết’’. Chỉ có cơ chế này mới có thể thi hành các biện pháp cấp tiến, có quyền trưng thu các công xưởng, xí nghiệp, đưa đến chính sách quốc hữu hóa các công cụ sản xuất. Yêu sách này chưa ai hề nghe biết vào đầu năm 1917. Thế mà chỉ sáu tháng sau, việc quốc hữu hóa được nói đến thường xuyên.
Trong cuộc cách mạng tháng hai và tháng mưới năm 1917, những người lính gốc nông dân với một quân số 10 triệu, họ đã giữ một vai trò quyết định. Quân Hoàng Gia tan rã mau chóng vì lính đào ngũ và không muốn chiến tranh. Ngay từ ngày đầu, Chính Phủ Lâm Thời ra tuyên cáo số 1 về ‘’Hiến chương của quân nhân’’. Theo tuyên cáo này, quân nhân không còn bị ràng buộc bởi luật lệ của chính quyền cũ. Quân nhân có quyền chọn lấy vị quan quan cho nhóm mình hay không cần sĩ quan cũng được. Quân nhân có quyền tham gia trực tiếp vào các chiến lược quân sự. Một sự kiện chưa hề xảy ra. Nhưng đó là các luật lệ lót đường cho chế độ bolshevik. Theo nhận định của Đại Tướng Broussilov, thì quân nhân chẳng biết gì về chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa vô sản và hiến pháp. Họ muốn có hòa bình, họ muốn được chia đất đai canh tác, được tự do sinh sống không cần đến pháp luật, không có sĩ quan mà cũng chẳng có địa chủ. Chủ nghĩa bolshevik của họ, trên thực tế là sự khát khao lớn để được có tự do, không bị ràng buộc. Đó là chủ nghĩa vô chính phủ.
Tháng 6 năm 1917, các cuộc phản công của quân Nga hoàn toàn thất bại. Quân Nga bắt đầu tan rã. Hàng trăm sĩ quan bị lính bắt giam vì tình nghi là các phần tử phản cách mạng. Có một số sĩ quan bị ám sát. Số lính đào ngũ gia tăng hằng ngày. Sang đến tháng 8, tháng 9, hằng ngày có trên hàng chục ngàn lính đào ngũ. Những người lính gốc nông dân này chỉ mong có dịp là trở về miền quê của họ để khỏi mất phần chia đất đai và gia súc thuộc sở hữu của các địa chủ. Từ tháng 6 tháng 10 năm 1917 có trên hai triệu quân nhân quá mệt mỏi vì chiến tranh và vì thiếu ăn lâu ngày trong các chiến hào. Họ quyết định rời bỏ hàng ngũ, mang theo vũ khí, trở về quê, gây thêm rối loạn ở những vùng đó.
So với các cuộc nổi loạn vì đất đai của những năm 1905-1906, thì các cuộc nổi loạn vào mùa Hè 1917 xảy ra rất ít. Và chính quyền còn làm chủ được tình hình. Sau khi nghe tin Nga Hoàng thoái vị như họ chờ đợi, các hội đồng nông thôn mở các phiên họp làm thỉnh nguyện thư, trình bày nguyện vọng và những lời phê phán của họ. Yêu sách đầu tiên là đất đai phải thuộc quyền sở hữu của những người đang canh tác. Phải phân chia đất đai của các địa chủ hiện đang bỏ trống. Họ yêu cầu xét lại thuế má, giảm tô. Dần dần, nông dân tự thành lập ủy ban điền địa từ đơn vị xóm, thôn đến làng, xã. Họ cử các người có học như thầy giáo trong làng, các vị linh mục, các chuyên viên nông nghiệp lãnh đạo các ủy ban. Họ đề cử các y tá săn sóc sức khỏe cho nông dân.
Nhưng từ tháng 5 tháng 6 năm 1917, các ủy ban trở nên cứng rắn hơn. Các ủy ban nông nghiệp khởi đầu tước đoạt các nông cụ và gia súc của các địa chủ. Họ tự động chiếm hữu các vùng đất không canh tác và các khu rừng của tư nhân. Cuộc chiến đấu khởi đầu từ thời tổ tiên xa xưa của họ. Nhờ cuộc cải cách ruộng đất của cựu Thủ Tướng Stolypine, một số người dân trước kia đã ra công khai thác ruộng đất và lâu dần trở nên giàu có, sơ hữu một số đất đai. Trước cuộc cách mạng tháng 10, những người nông dân giàu có, hay còn gọi là địa chủ này là đối tượng đấu tranh của nhóm người bolshevik. Giới địa chủ bị bolshevik kết tội là các thành phần bóc lột, cho vay nặng lãi, những tên tư sản nông thôn, thành phần hút máu nhân dân… Những người bolshevik kêu gọi địa chủ hiến dâng ruộng đất, tài sản, dụng cụ sản xuất của họ vào qủy cộng đồng để trở về với cộng đồng nông thôn. Họ cũng hưởng theo nguyên tắc bình đẳng được phân chia theo khẩu phần ăn.
Vào mùa Hè năm 1917, tình trạng ở nông thôn trở nên căng thẳng hơn khi các người lính đào ngũ mang theo vũ khí trở về làng xóm. Khi nhận ra chính phủ không giữ lời hứa phân chia đất đai gia súc, họ nổi loạn tấn công vào các trang trại lớn trong đó có chứa các nông cụ hiện đại, thuộc quyền sở hữu của giới quí tộc. Họ đập phá, nhục mạ và đuổi các chủ gia ra khỏi làng xóm.
Tại các vùng ở Ukraine và các địa phương thuộc khu vực Tambov, Penza, Voronej, Saratov, Orel, Toula, Riazan, đã có hàng ngàn nông trại, khu nhà bị đốt phá và hàng trăm chủ gia bị tàn sát.
Đứng trước tình trạng ‘’vô chính phủ’’, giới chủ nhân, địa chủ cùng với các lãnh tụ của các đảng phái có khuynh hướng tự do cùng quyết định phải sử dụng quân đội để dàn xếp. Họ đề nghị Tướng Kornilov đứng ra thành lập chính phủ. Nhưng đề nghị này không được Chính Phủ Lâm Thời do ông Alexandre Kerenski chấp thuận. Người ta chờ đợi cuộc đảo chánh nhưng cuộc đảo chánh do Tướng Kornilov chủ trương xảy ra trong 3 ngày kể từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 8 năm 1917 bị thất bại. Tình hình chính trị cũng như các vấn đề xã hội trở nên bi đát hơn. Chính phủ lâm thời không còn kiểm soát được bộ máy thông tin của nhà nước. Trong lúc đó, tại các cơ quan đầu não xảy ra các vụ tranh chấp quyền hành giữa hai phe dân chính và quân sự. Phe quân nhân muốn nắm trong tay các quyền Tư Pháp, Hành Chánh, và quân đội.
Phải nhận rằng có tiến bộ trong các hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự. Phải chăng họ đã bị bolshevik hóa? Điều này không có gì chắc chắn. Mặc dù cùng dùng các khẩu hiệu ‘’Công nhân kiểm soát các xí nghiệp’’, hay ‘’Tất cả quyền lực thuộc về Sô Viết’’… nhưng mỗi bên hiểu và giải thích theo lối suy tư của mình. Trong quân đội, hiện tượng bolshevik hóa thể hiện sự khát khao hòa bình của các người lính. Họ tham dự cuộc chiến khá lâu và số thương vong lên quá cao, so với tất cả cuộc chiến trong quá khứ.
Với tập thể nông dân, cuộc cách mạng của họ có cùng mục đích với lực lượng cách mạng xã hội, thuận lợi cho việc chia đất chia đai. Nhưng đối với những người bolshevik, mục đích của họ là quốc hữu hóa tất cả đất đai, thành lập đơn vị tập thể lớn để sản xuất nông sản.
Những người ở thôn quê không hề hiểu biết gì cái tên bolshevik. Những người lính đào ngũ trở về làng đã kể cho họ nghe những gì đã xảy ra. Trong khi đó những người bolshevik với con số đoàn viên không mấy chính xác một đến hai trăm ngàn trong tháng 10 năm 1917, đi tuyên truyền trong quần chúng dưới khẩu hiệu ‘’Hòa bình và ruộng đất’’. Nhưng dù sao giữa lúc nước Nga ‘’vô chính phủ’’, quyền lực nhà nước nằm trong tay các ủy ban, các hội đoàn xã hội dân sự, các Sô Viết… thì chỉ cần có một hạt nhân nhỏ có tổ chức là có thể chiếm lãnh quyền hành to lớn. Đó là điều những người bolshevik đã làm. Họ đã đạt mục tiêu nắm lấy chính quyền. Họ đã thành công vào thời điểm đó.
Từ ngày thành lập đảng vào năm 1903, những người bolshevik cho thấy đường lối chính trị của họ khác hẳn với các đảng phái xã hội dân chủ trong nước Nga cũng như tại các nước ở Âu Châu. Đảng được tổ chức chặt chẽ, kỹ luật sắt, họ là những người làm cách mạng chuyên nghiệp. Họ thi hành các biện pháp mạnh, dứt khóat và mau lẹ để giải quyết các trật tự xã hội hiện hành.
Trận thế chiến thứ nhất đã xác định tính chất đặc trưng của chủ nghĩa bolshevik theo định nghĩa của Lenine. Đặc trưng của khuynh hướng Lenine là không bao giờ hợp tác với các luồng tư tưởng Xã Hội-Dân Chủ. Lý thuyết của Lenine được trình bày trong tác phẩm ‘’Chủ nghĩa Đế Quốc, giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa Tư Bản’’. Ông cho rằng cuộc cách mạng sẽ không diễn ra ở các nước giàu có mà là sẽ xảy ra tại các nước còn đang phát triển, non yếu như nước Nga. Nhưng cũng theo Lenine, cuộc cách mạng phải do một tổ chức tiên phong, có kỹ luật chặt chẽ lãnh đạo, tiến tới một chính phủ Độc Tài của những ngườ vô sản, một nền ‘’Độc Tài Vô Sản’’. Nó sẽ biến cuộc chiến Đế quốc hóa thành một cuộc nội chiến.
Trong bức thơ đề ngày 17 tháng 10 năm 1914 gởi cho ông Alexandre Chliapnikov, một trong những người lãnh đạo nhóm bolshevik, Lenine viết: ‘’Chế độ Nga Hoàng thua trận chỉ là một thiệt hại nhỏ. Nhiệm vụ và công tác của chúng ta là cố kéo dài có phương pháp với mục đích là biến cuộc chiến tranh này thành cuộc nội chiến. Cho tới giờ phút này chuyện đó chưa xảy ra. Chúng ta chờ đợi thời cơ chín mùi và thúc đẫy một cách có hệ thống cho thời cơ chín mùi. Hiện nay chưa cho phép chúng ta hứa hẹn một điều gì về cuộc nội chiến và cũng chưa làm gì để cho cuộc nội chiến xảy ra. Chúng ta chỉ có thể tạo ra cơ hội để cho cuộc nội chiến xảy ra, dù phải chờ đợi. Chúng ta đi về hướng này’’.
Ông nêu lên những mâu thuẫn của Đế Quốc. Cuộc chiến của đế quốc sẽ làm đảo lộn các danh từ giáo điều Marxist. Nó sẽ nổ ra ở đất Nga chớ không ở nơi nào khác. Trong suốt thời gia của cuộc thế chiến thứ nhất, Lenine đã vận động lực lượng bolshevik tìm mọi cách phát động cuộc nội chiến ở Nga.
Tháng 9 năm 1917 Lenine nhận định, những ai nhìn nhận cuộc chiến tranh giai cấp đều phải chấp nhận một cuộc nội chiến. Trong xã hội có giai cấp, luôn luôn xảy ra cuộc chiến tranh chấp về giai cấp.
Trong cuộc nổi dậy thành công vào tháng 2 năm 1917 không có một nhân vật cao cấp bolshevik nào tham dự cả. Hoặc họ đang lưu đày hay đang ở nước ngoài. Lenine tiên đoán chính sách dung hòa, thành lập chính phủ Lâm thời sẽ thất bại. Ở Thành Phố Petrograd, nhóm Sô Viết đã thành lập xong Chính Phủ Lâm Thời, gồm các phe xã hội cách mạng và xã hội dân chủ và một số nhóm khác. Trong thời gian từ 20 đến 25 tháng 3 năm 1917, trong lúc lánh nạn ở Zurich, Thủ Đô Thụy Sĩ, Lenine viết bốn lá thơ gởi về. Tạp chí Sự Thật Pravda chỉ đăng có lá thư thứ nhất. Ba lá kia không được lên báo vì Lenine đòi nhóm Sô Viết ở Thành Phố Petrograd hay ðoạn giao với Chính Phủ Lâm Thời ðể chuẩn bị cho giai ðoạn ‘’Vô sản cách mạng’’.
Theo Lenine, sự xuất hiện các nhóm Sô Viết là dấu hiệu cho thấy đã vượt qua giai đoạn ‘’Cách mạng giới trung lưu’’. Cho nên không còn phải chần chờ gì cả. Các tổ chức cách mạng phải nắm lấy chính quyền bằng cách sử dụng vũ khí, chấm dứt chiến tranh đế quốc, cho dù phải lao vào một cuộc chiến khác, cuộc nội chiến. Và như vậy tình hình đã diễn ra theo sách lược cách mạng.
Trong thời gian chiến tranh Nga-Đức, Lenine được chính quyền Đức cấp cho giấy thông hành di chuyển trên đất Đức. Ông trở về Nga vào ngày 3 tháng 4 năm 1917. Lúc này Lenine vẫn còn quá khích. Trong các viết nổi tiếng của ông với tựa đề ‘’Luận Đề Tháng Tư’’, ông nhắc lại sự phản đối của ông về việc thành lập một nền Cộng Hòa Đại Nghị dựa vào nguyên tắc dân chủ.
Ông bị các nhóm Sô Viết ở Thành Phố Petrograd phản đối kịch liệt. Nhưng ngược lại, những người mới gia nhập ủng hộ triệt để. Staline cho rằng những người chống đối là những người thực tiễn. Trong vài tháng sau, các phần tử bình dân, trong đó có các nông dân bị động viên đã giữ vai trò chính. Và do số đông, những người nông, không có ý thức chính trị tràn ngập cả các giới trí thức và dân Thành Phố, là những người đã có kinh nghiệm đấu tranh và có ý thức tổ chức. Chính do cái truyền thống bạo động phát xuất từ nền văn hóa nông dân, họ không hiểu, hay nói đúng hơn, họ không bị chủ thuyết giáo điều Marxist chi phối. Họ tiêu biểu cho thành phần bolshevik bình dân. Họ, vì thế, đã làm mờ chủ nghĩa bolshevik chính thống. Họ không cần phải đặc câu hỏi, phải chăng giai đoạn trung lưu cần thiết để tiến lên xã hội chủ nghĩa? Họ thuộc thành phần hoạt động trực tiếp, sử dụng bạo động. Họ là những người nhiệt thành hoạt động cho chủ nghĩa bolshevik. Họ không cần hội thảo lý thuyết. Họ chỉ cần phải học thuộc lòng một điều căn bản được coi như là nhật lịnh: Cướp lấy chính quyền.
Nhưng trong số những người thuộc thành phần bolshevik bình dân này đã có một số đông bắt đầu lo lắng. Như các thủy thủ đóng ở căn cứ Hải Quân Kronstadt nằm ngoài khơi Thành Phố Petrograd, một vài đơn vị thuộc quân khu Thủ Đô và một số Hồng vệ binh. Họ sợ nổi dậy sớm, sẽ bị thất bại. Vì thế họ cho rằng Lenine quyết định quá nông nổi và hạn hẹp. Trái với các tin đồn, suốt năm 1917, lực lượng bolshevik thật sự vô cùng khủng hoảng và chia rẽ. Vào đầu tháng 7 năm 1917, đảng bolshevik gần như tan rã. Các cuộc biểu tình vào ngày 3 và 5 ở Thành Phố Petrograd bị chính phủ cấm và bị coi là bất hợp pháp. Các thành phần đầu não của đảng bị đặt ra ngoài vòng luật pháp. Họ phải bỏ trốn ra nước ngoài như trường hợp của Lenine.
Nhưng vì chính phủ bất lực trước các vấn đề của xã hội, uy tín chính quyền, quyền lực truyền thống giảm sút, thêm vào đó cuộc đảo chánh thất bại của Tướng Kornilov, đã giúp cho đảng bolshevik sống lại. Cuối tháng 8 năm 1917, đảng bolshevik đã tập hợp lại các đảng viên, cùng với các cảm tình viên, trở thành một khối đông và mạnh. Họ đã đủ mạnh để chuẩn bị cướp chính quyền.
Thêm một lần nữa, Lenine giữ vai trò lý thuyết gia và chiến lược gia, vai trò quyết định để chiếm lấy chính quyền. Một vài tuần trước ngày đảo chính 17 tháng 10 để thành lập nhà nước bolshevik, Lenine đã hoạch ra một kế hoạch chu đáo cho cuộc bạo động. Ông ta tiên liệu ngăn ngừa sự bộc phá của các phần tử cực đoan trong đảng và những hoạt động bất ngờ của khối quần chúng. Ông cũng tiên liệu tránh cái ‘’Pháp lý cách mạng’’ của lãnh tụ bolshevik như Zinoviev hay Kamenev. Hai lãnh tụ này đã ‘’bị cháy’’ trong các vụ biểu tình hồi đầu tháng 7 vừa qua vì còn tin tưởng vào sự hợp tác với các đảng xã hội dân chủ và xã hội cách mạng.
Từ nơi trú ẩn ở Phần Lan, Lenine liên tục gởi về ủy ban trung ương đảng bolshevik ở Thành Phố Petrograd những lời kêu gọi nổi dậy cướp lấy chính quyền. Ông viết: ‘’Nếu chúng ta tái lập nền hòa bình và phân chia ruộng đất cho nông dân, thì chúng ta sẽ thành lập được chính quyền mà không có ai lật đổ được. Nếu chúng ta chờ đợi cho có nhiều người ủng hộ thì sẽ không bao giờ có. Không có cuộc cách mạng nào chờ đợi như vậy. Lịch sử sẽ không tha thứ nếu chúng ta không nắm lấy chính quyền ngay bây giờ…’’
Phần đông người bolshevik hoài nghi lời kêu gọi của Lenine. Họ cho rằng cần gì phải ‘’đột phát’’. Cứ theo tình hình này thì rõ ràng rất thuận lợi cho họ và còn có vẻ cấp tiến nữa. Chỉ cần nắm lấy khối đông quần chúng và khuyến khích họ bạo động. Hoặc kết hợp với các phần tử thuộc các phong trào xã hội cùng các lực lượng của chính phủ đang tan rã, khuyến khích họ hành động và chờ đến kỳ Đại Hội Liên Bang các SôViết kỳ II ngày 20 tháng 10 năm 1917. Vào kỳ đại hội, phe bolshevik sẽ chiếm ưu thế vì có các đã có các đại diện trong các trung tâm đông đảo thợ thuyền công nhân, cùng với các một số lớn đại diện các ủy ban của các quân nhân gốc nông dân. Trong khi đó đại diện của các Sô Viết ở nông thôn có khuynh hướng xã hội cách mạng. Nhưng theo Lenine, nếu các Sô Viết nông thôn có khuynh hướng xã hội này được đại hội chấp thuận chỗ đứng ra thành lập chính phủ thì cũng sẽ là chính phủ Liên Hiệp. Nhóm bolshevik sẽ chia quyền cùng với các nhóm xã hội khác. Như vậy, theo ông, bolshevik chỉ có thể nắm lấy chính quyền nếu dùng vũ lực nổi loạn trước ngày khai mạc Đại Hội. Ông ta cũng tiên đoán rằng các phe phái khác sẽ lên án cuộc đảo chánh, tách ra trở thành phe đối lập, giao quyền hành cho người bolshevik.
Ngày 10 tháng 10 năm 1917, từ biên giới Phần Lan Lenine bí mật trở về Thành Phố Petrograd. Ông triệu tập ngay một phiên họp với sự hiện diện của 12 lãnh tụ trong số 21 ủy viên trung ương đảng bolshevik. Sau 10 tiếng đồng hồ hội thảo, ông đã thuyết phục được đa số các ủy viên để thi thi hành một quyết định mà từ trước đến nay chưa hề xảy ra. Đó là kế hoạch nổi dậy bằng vũ lực trong một thời gian ngắn sắp tới. 10 phiếu chấp thuận kế hoạch. Hai phiếu chống của Zinoviev và Kamenev.
Ngày 16 tháng 10, mặc dù nhóm cách mạng Xã Hội trong tổ Sô Viết Thành Phố Petrograd chống đối, Trotski cũng quyết định thành lập một tổ chức quân sự. Trên nguyên tắc, nó thuộc quyền quyết định của Ban chấp hành Sô Viết Petrograd. Ủy ban lấy tên là ủy ban quân sự cách mạng, viết tắc CMRP, được ủy nhiệm thực hiện một cuộc nổi dậy quân sự cướp lấy chính quyền, khác hẳn các trường hợp nổi dậy của nhân dân trước đây.
Theo như kế hoạch của Lenine, con số người tham dự trực tiếp vào cuộc cách mạng tháng 10 rất hạn chế. Vài ngàn lính của quân khu Petrograd, một số Hải Quân ở Cảng Kronstadt, một số Hồng vệ binh và một số lãnh tụ bolshevik thuộc các ủy ban công xưởng. Cuộc nổi dậy chỉ chạm súng lẻ tẻ. Con số thương vong không đáng kể. Việc chiếm lấy chính quyền không mấy khó khăn. Ủy ban quân quản nắm lấy quyền hành. Như vậy quyền lãnh đạo nhà nước hoàn toàn nằm trong tay của một tổ chức, do ủy ban trung ương bolshevik giao phó. Không một ai có quyền tham dự cho dù có tổ chức Đại Hội.
Chiến lược tạo một sự việc đã rồi của Lenine đã thành công. Nhóm xã hội ôn hòa rời bỏ phòng họp Đại Hội để phản đối hành động mưu phản quân sự do nhóm bolshevik chủ mưu, qua mặt các tổ chức Sô Viết. Phòng hội giờ chỉ còn nhóm bolshevik và các đồng minh của họ. Những đại biểu hiện diện trong hội trường lúc bấy giờ đã tán thành cuộc nổi dậy đồng thời bỏ phiếu chấp thuận nghị quyết do Lenine đưa ra: ‘’Tất cả các quyền lực đều về tay các Sô Viết’’.
Nghị quyết này chỉ làm cho có hình thức để thừa nhận sự việc ‘’người bolshevik được ủy quyền’’. Đó là một sự tưởng tượng đã lừa bịp nhiều thế hệ của những người nhẹ dạ, dễ tin. Họ nhân danh nhân dân trong các nước Sô Viết đứng ra cai trị đất nước. Chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi chấp thuận nghị quyết, thành lập tân chính phủ bolshevik, Đại Hội II bế mạc. Tân chính quyền bolshevik do Lenine làm Chủ Tịch. Các ủy viên đã chấp thuận các nghị quyết cho tái lập hòa bình và tiến hành phân chia ruộng đất. Đó là công tác đầu tiên của tân chế độ.
Không lâu sau đó, tân chính quyền phải đối đầu ngay những sự xung đột và những sự hiểu lầm giữa chính quyền và các thành phong trào xã hội. Các phong trào này cho rằng chính họ đã tạo nên sự tan rã mau chóng chế độ cũ cả về phương diện xã hội cũng như về kinh tế.
Sự hiểu lầm đầu tiên là công việc chia ruộng đất.
Nhóm bolshevik chủ trương quốc hữu hóa đất đai. Nhưng vì tương quan lực lượng bất lợi cho họ nên họ phải chấp thuận theo kế hoạch phân chia ruộng đất của các nhóm xã hội cách mạng. Một nghị quyết về ruộng đất đã hủy bỏ quyền tư hữu đất đai. Ruộng đất bị tịch thu không bồi thường và đặt dưới quyền của ủy ban nông nghiệp địa phương. Ủy ban này sẽ tái phân phối ruộng đất cho nhân dân. Trên thực tế, việc hợp pháp hóa các việc làm của cộng đồng làng xã đã bắt đầu từ mùa Hè năm 1917. Những người bolshevik đã tước đoạt tàn nhẫn đất đai của điền chủ, của những người giàu có. Nhưng vì phải dựa vào cuộc cách mạng của nông dân, cuộc cách mạng đã giúp cho người bolshevik cướp lấy chính quyền, cho nên họ phải chờ đến 10 năm sau mới thực hiện được chương trình riêng của họ. Đó là chính sách quốc hữu hóa. Các cuộc tập thể hóa ở nông thôn là một cuộc chạm trán gay go giữa chính quyền và nông dân. Đó là kết quả của sự hiểu lầm về nghị quyết do cách mạng tháng Mười tạo ra. Một sự hiểu lầm bi thảm nhất của năm 1917.
Việc hiểu lầm thứ hai là vấn đề giao tế giữa đảng bolshevik và các thể chế mới.
Các thể chế mới này là những tổ chức đã tham gia vào các hoạt động nhầm xóa bỏ cơ chế quyền lực cũ, và cũng đã giữ vững lập trường. Đó là các ủy ban của các công xưởng, xí nghiệp, các nghiệp đoàn, các đảng xã hội, các ủy ban khu phố, các Hồng vệ binh, và nhất là các tổ Sô Viết. Chỉ trong vòng vài tuần lễ, các thể chế mới này bị tước bỏ quyền lực. Họ phải chịu sự chỉ đạo của đảng hay giải tán. Khẩu hiệu ‘’Tất cả quyền lực thuộc về Sô Viết’’ trở thành khẩu hiệu phổ thông trên nước Nga trong tháng 10 năm 1917, nay bị trở cờ, quyền lực nằm trong tay đảng. Đảng quản lý các Sô Viết.
Dưới khẩu hiệu ‘’Công nhân kiểm soát xí nghiệp’’, các người bolshevik, các người vô sản của Thành Phố Petrograd và các Thành Phố kỹ nghệ đã hất cẳng các chủ nhân và nhân công nhà máy ra ngoài, dành quyền kiểm soát. Họ tự nhận là công nhân. Tình trạng chống đối và lo âu xảy ra trong giới thợ thuyền. Vật giá gia tăng, dẫn theo nạn lạm phát.
Tháng 12 năm 1917, chính quyền gặp phải sự chống đối của công nhân. Họ đình công. Chỉ vòng trong vài tuần lễ, những người bolshevik gần như mất hết niềm tin mà họ đã gây được trong lòng giới lao động trong suốt năm 1917.
Việc hiểu lầm thứ ba là sự đối xử với các sắc tộc, cựu thuộc địa của Nga đưới thời Nga Hoàng.
Cuộc đảo chính của người bolshevik đã làm cho các sắc dân muốn tách ra khỏi mẫu quốc Nga. Chính quyền mới bảo đảm yêu sách này bằng cách họ chấp thuận sự bình đẳng, chủ quyền và quyền tự quyết gia nhập hay ly khai của các sắc dân. Chỉ trong vòng vài tháng các sắc dân Ba Lan, Phần Lan, Baltique, Ukraine, Armenie tuyên bố độc lập. Đứng trước tình trạng rầm rộ ly khai chính trị, chính quyền bolshevik phải đưa ra các vấn đề khác để tìm cách chận đứng sự ly khai. Họ cho rằng vì cần phải bảo vệ vụ lúa mì ở Ukraine, vùng dầu hỏa ở Caucase, và những quyền lợi của nhà nước khác, họ quả quyết lãnh thổ này là do nhà nước thừa hưởng của chế độ Nga Hoàng. Họ còn đòi hỏi nhiều hơn những gì chính phủ lâm thời đã làm.
Do nhiều hình thức khác nhau của các cuộc cách mạng xã hội và của các sắc dân nên xảy ra cuộc va chạm mang tính đa dạng. Chính sách thực thi đường lối chính trị độc tài, không chấp nhận phân chia quyền lực, đã dẫn ngay đến các cuộc đối kháng, xung đột mãnh liệt từ phía quần chúng trong xã hội, từ đó đưa đến các cuộc đàn áp đẫm máu, khủng bố dã man của phía chính quyền.
Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1314 15 16