Tìm hiểu về cuộc đời
Hồ Chí Minh
Kỳ 1
Người dịch: Thái Văn
Lời người dịch.
"Hồ Chí Minh sinh bình khảo" (Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh) do Giáo sư Hồ Tuấn Hùng, một người đã tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan dành nhiều công sức nghiên cứu trong những năm qua, được Nhà xuất bảnBạch Tượng Văn Hóa ấn hành tại Đài Loan vào ngày 01/11/2008 (mã số ISBN: 9789866820779).
Hồ Tuấn Hùng sinh năm 1949 (có tài liệu nói là sinh năm 1948), tại Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan, là cháu ruột Hồ Tập Chương (mà ông khẳng định chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh) từng dạy học hơn 30 năm, đồng thời ông còn là viên chức cao cấp Giáo Dục Hành Chính. Theo Giáo sư Hồ Tuấn Hùng, Hồ Chí Minh xuất thân là người thuộc sắc tộc Khách Gia (Hakka, người Việt gọi là Hẹ ) tại huyện Miêu Lật, địa khu Đồng La, Đài Loan.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của ông được tác giả tìm hiểu kỹ lưỡng trên cơ sở tham khảo nhiều nguồn tư liệu cũng như nhân chứng. Tác phẩm “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” dày 342 trang, khổ 15 x 21 cm, bìa cứng, in chữ nổi.
Phần mở đầu gồm các bài giới thiệu của tiên sinh Chung Triệu Chính, luật sư Kiệt Chương và của tác giả. Phần chính được chia làm 6 thiên, thứ tự như sau:
I / Hài kịch tráo rồng đổi phượng (Thâu long chuyển phượng đích hý khúc)
II/ Ve sầu lột xác, thật giả kiếp người (Kim thiền thoát xác thực giả nhân sinh)
III/ Những năm tháng phiêu bạt (Phiêu bạc lưu lãng đích tuế nguyệt)
IV/ Khúc ca buồn về tình yêu, hôn nhân (Hôn nhân luyến tình đích bi ca)
V/ Hán văn "Nhật ký trong tù" và "Di chúc" (Hán văn Ngục trung nhật ký dữ Di chúc)
VI/ Hạ màn, đôi lời cảm nghĩ (Lạc mạc cảm ngôn)
Cuốn sách khá dày, công việc chuyển ngữ mất nhiều thời gian và công sức, tuy nhiên, người dịch đã cố gắng dịch trọn vẹn để cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn mới về nhân vật huyền thoại Hồ Chí Minh, còn việc đúng hay sai xin để công luận thẩm định, chúng tôi không dám lạm bàn.
Tháng giêng năm 2013
Thái Văn
Mục lục
Lời giới thiệu 1
Người kỳ lạ, chuyện kỳ lạ, sách kỳ lạ
Lời giới thiệu 2
Tin có bằng chứng, bổ khuyết và dựng lại lịch sử
Thay lời tựa
Màn đầu bóc gỡ tấm mạng che huyền bí
Tấm mạng huyền bí che mặt Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh có phải đến từ Đài Loan?
THIÊN I
Hài kịch tráo rồng đổi phượng
Màn một
Sự thật về cái chết của Nguyễn Ái Quốc
Những ẩn số về con người Hồ Chí Minh
Nguyễn Ái Quốc chết thật hay chết giả?
Báo chí đưa tin Nguyễn Ái Quốc chết bởi bệnh lao phổi
Bí mật về cái chết của Nguyễn Ái Quốc
Sai lầm của Hồ Chí Minh về việc tự nhận "mình đã bị chết"
Hồ sơ bệnh án Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh
Hồ sơ bệnh lao phổi của Nguyễn Ái Quốc
Màn hai
Tiết mục Nguyễn Ái Quốc "chết rồi sống lại"
Vụ án Nguyễn Ái Quốc bị bắt tại Hương Cảng
Vụ án "Tòa Hương Cảng thẩm vấn Nguyễn Ái Quốc"
Viện Khu mật Hoàng gia London xét xử - Chống án
Vụ án Nguyễn Ái Quốc đến Singapore bị buộc phải quay lại Hương Cảng
Sự kiện Nguyễn Ái Quốc mất tích ở Hương Cảng
Nguyễn Ái Quốc trên đường từ hương Cảng đến Hạ Môn
Sự kiện Hồ Chí Minh từ Hạ Môn đến Thượng Hải
Bộ phim "Nguyễn Ái Quốc thoát hiểm ở Hương Cảng".
THIÊN II
Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp người
Thời gian và vũ đài hoạt động trùng nhau
Cùng lên cũ đài, một ẩn một hiện
Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Bệnh phổi trầm trọng, sức khỏe suy giảm
Cùng tên nên có sự nhầm lẫn
Hồ sơ Hồ Tập Chương bị bắt ở Quảng Châu
Những ghi chép về sự kiện Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu
Lương Ích Tân viết về sự kiện Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu
Ngô Trọc Lưu ở Đài Loan và trường thiên tiểu thuyết "Hồ Chí Minh"
Hồ Tập Chương bị bắt ở Hà Nam, giam tại nhà ngục "Nam Thạch Đầu"
"Hồi ký Trịnh Siêu Lân": Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu
Bí mật "Hồ Tập Chương bị bắt ở Quảng Châu"
Tiểu sử giản lược Hồ Tập Chương
Tiểu sử Nguyễn Ái Quốc
Phụ lục1
Ảnh của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh trong hồ sơ
Phụ lục 2
"Hồi ức Trịnh Siêu Lân - Truyện Phó Đại Khánh"
THIÊN III
Những năm tháng Phiêu bạt
Màn một
Hồ Chí Minh ở Liên Xô (1933- 1938)
Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa vào thời gian nảo?
Sự thật về sự kiện Hồ Chí Minh bị kết án tử hình
Quốc tế cộng sản đạo diễn vở kịch "Mượn xác hoàn hồn"
Vera Vasilieva và Hồ Chí Minh
Việc cải tạo và học tập của Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu Quốc tế cộng sản lần thứ VII
Hồ Chí Minh rời khỏi Mạc Tư Khoa
Màn hai
Hồ Chí Minh ở Trung Quốc (1938 - 1945)
Ngàn dặm xa xôi đến Diên An
Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm
Ban huấn luyện cán bộ chiến tranh du kích Hành Sơn, Hồ Nam
Đảng bộ Hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương
Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh
Bị bắt ở Quảng Tây và tập thơ "Nhật ký trong tù"
Trở lại Bắc Pha, tháng tám khải ca
Con người thật của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh chấp hành "nhiệm vụ bí mật"
"Đài Loan nhật nhật tân báo"
Bảy bức thư từ Trung Quốc
Mười một (11) bài viết trong "Cứu vong nhật báo"
Hồ Chí Minh ngụy tạo sự kiện Nguyễn Ái Quốc sống lại
THIÊN IV
Khúc ca buồn về chuyện hôn nhân tình ái
Hồ sơ hôn nhân Hồ Chí Minh
Chuyện hoang đường về đạo đức thánh nhân
Cầu trả về cầu đường trả về đường
Mối tình đầu của Nguyễn Ái Quốc với cô Breiere
Breiere và Bourdon
Mối tình đầu của Nguyễn Ái Quốc
Nghi án ái tình giả tạo
Tăng Tuyết Minh, người vợ đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc
Hồ sơ về hôn nhân, tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh
Hồ sơ về hôn nhân, tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh
Trung Cộng ẩn giấu chuyện hôn nhân Tăng Tuyết Minh
Hôn nhân Tăng Tuyết Minh, thật giả - một vụ án kép
Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già – Tấm ảnh chân dung
Khói lửa chiến tranh chứng kiến tình yêu – Nữ sĩ Nguyễn Thị Minh Khai
Tự khúc bi ca ái tình
Hồ sơ hôn nhân của Nguyễn Thị Minh Khai
Sự thật về quan hệ hôn nhân
giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai
Hôn ước của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai
Bí danh P.C.Lin của Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc
Hồ Chí Minh và tri kỷ má hồng – Lâm Y Lan tiểu thư
Hồ sơ về mối tình Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan
Mối tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan
Sự thật về mối tình của Lâm Y Lan
Chuyện tình giữa Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc
Mối tình của Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân
Tổng kết về hôn nhân và tình ái trong cuộc đời Hồ Chí Minh
THIÊN V
Chữ Hán “Nhật ký trong tù” và “Di chúc”
Khả năng Trung văn của Hồ Chí Minh
Quá trình Nguyễn Ái Quốc học tập ngữ văn
Trình độ ngữ văn của Hồ Tập Chương
Tập thơ “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh
134 bài thơ trong tập “Nhật ký trong tù”
“Nhật ký trong tù” là tác phẩm của một người thuộc sắc tộc Khách Gia
Thư pháp chữ Hán của Hồ Chí Minh
Di chúc của Hồ Chí Minh lúc lâm chung
Nội dung “Di chúc” của Hồ Chí Minh
Những nghi vấn về “Di chúc Hồ Chí Minh”
Những bí mật về việc bảo tồn di thể Hồ Chí Minh
THIÊN VI
Hạ màn và đôi lời cảm nghĩ
Lặng lẽ suy tư khi màn hạ
Ghi nhớ lời dặn, nhìn về tương lai
Tài liệu tham khảo
Lời giới thiệu 1
Người kỳ lạ, chuyện kỳ lạ, sách kỳ lạ
Mấy ngày trước, ngài hiệu trưởng Lý Tú Bằng, một đồng sự đã hồi hưu cùng tác giả cuốn sách "Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh" là Hồ Tuấn Hùng đến thăm tệ xá. Nghe Hồ quân nhẹ nhàng đi tới, khiến tôi càng hiểu rõ về con người kỳ lạ, sự việc kỳ lạ về Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, thực làm cho người ta phải đập bàn kinh sợ, nên đã nhận lời viết mấy dòng thô thiển để bày tỏ lòng mình.
Điều khiến cho tác giả gọi là "kỳ lạ", thứ nhất, Hồ Chí Minh đương nhiên là người Đồng La, Miêu Lật, Đài Loan. Cái mà mọi người đều biết ở Hồ Chí Minh là, vào những năm bốn mươi, năm mươi của thế kỷ XX, ông được xem là bậc anh hùng thời đại mà Đài Đảo của chúng ta có vinh dự sinh ra, vốn là con người người bình thường, bỗng nhiên được một nước khác tôn xưng làm Quốc Phụ.
Thứ hai, căn cứ vào "Lời nói đầu" của Hồ quân, Hồ Chí Minh và nhà văn hóa nổi tiếng Đài Loan Ngô Trọc Lưu trước đây từng quen biết nhau. Ngô tiên sinh còn được coi là tác gia lớn văn học Đài Loan viết tác phẩm "Đứa con côi châu Á". Theo cách hiểu của Hồ quân, "Á thư" chính là viết về con người và sự nghiệp Hồ Chí Minh. Trong ký ức các bậc cao niên gia đình tôi, Ngô tiên sinh từng nói, "Á thư" nguyên tên là "Hồ Chí Minh", nhân vì các thủ lĩnh cộng sản phụ họa theo, ở thời kỳ phản cộng, chống Nga Xô mãnh liệt, nên buộc phải đổi thành "Hồ Thái Minh". Đến khi cuốn sách được được xuất bản tại Nhật lại đổi tên một lần nữa thành "Đứa con côi châu Á". Khó mà tưởng tượng Ông và Hồ Chí Minh lại là chỗ quen biết.
Thật ra trên đời này không thiếu gì chuyện lạ, nhưng chuyện mà tác giả đã kể quả tình làm tôi choáng váng. Để đáp lại lời thỉnh cầu của Hồ quân, tôi viết bài tự này.
Tháng 7 năm 2008
Tiền Tổng thống phủ Tư chính
Chung Triệu Chính
Lời giới thiệu 2
Tin có bằng chứng, bổ khuyết và dựng lại lịch sử
Tôi quen biết tác giả Hồ Tuấn Hùng đã hơn ba mươi năm, nói là bạn thân cũng không quá. Mấy năm trước, trong một cuộc trò truyện mà tiếng Khách Gia gọi là "đánh trống miệng", ông nói đã hoàn thành sự phó thác của gia tộc là tìm hiểu được người chú Hồ Tập Chương đã mất tích nhiều năm trong thời loạn. Thật đáng tiếc là lúc đầu, gia tộc không mấy tin tưởng, vì thế ông phải đầu tư thời gian, công sức sưu tầm tư liệu, dẫn nhiều luận cứ từ các nguồn khác nhau, thậm chí còn nhiều lần ra nước ngoài, tìm hiểu tại các văn khố lớn, cuối cùng đã viết được một công trình khảo cứu nổi tiếng, dựng lại chân tướng lịch sử về con người Hồ Chí Minh. Tấm lòng của ông thật đáng kính, tình cảm của ông thật đáng trân trọng.
Từ những chứng cứ có được, Hồ quân đã vượt qua sự cách trở thời gian, sưu tầm vô số tài liệu lịch sử trong và ngoài nước, các chứng này vừa sâu, vừa rộng với độ tin cậy cao. Sau nữa là phương pháp trình bày, diễn giải chứng cứ, Hồ quân sử dụng phương pháp so sánh. Những chỗ còn nghi ngờ hoặc do sự cách trở về không gian, thời gian thì lấy đa số thắng thiểu số, từ sự chứng, chắp nối sự kiện, đặc biệt là dùng "Nhật ký trong tù" đối chứng với tục ngữ, thành ngữ dân gian Khách Gia, có sự cân nhắc, đắn đo. Từ đó, tác giả đã dựng lại chân tướng lịch sử qua sự sàng lọc, bổ khuyết, không bỏ sót bất cứ việc lớn nhỏ nào liên quan đến cuộc đời Nguyễn Ái Quốc cũng như Hồ Chí Minh bằng chứng cứ đủ sức thuyết phục và sự phân tích hợp lý, trình bày khách quan, khoa học.
Hồ quân đã lấy tư cách thân tộc, vì người chú mà tìm được lời giải câu đố khó. Về tình, ông đã tận lực làm việc đến nơi đến chốn, về lý, ông luôn giữ được tinh thần khách quan, trung thực. Điều may mắn cho cuốn sách là lý trí đã vượt lên trên tình cảm. Tôi khâm phục tư cách của Hồ quân bèn viết bài tự này.
Ngày 10 tháng 8 năm 2008
Văn phòng luật sư pháp luật Kiệt Chương
Luật sư Ông Nhị Đạo
Thay lời tựa
Màn đầu bóc gỡ tấm mạng che huyền bí
Tấm mạng huyền bí che mặt Hồ Chí Minh
Các nhà lãnh đạo nổi tiếng trong lịch sử hiện đại, ít nhiều đều có những bí mật riêng giống như tấm mạng che mặt. Những bí mật này rất ít khi được công khai minh bạch, trong đó, Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam là một trường hợp điển hình. Cho dù hiện giờ đã là thiên niên kỷ thứ hai, kỹ thuật truyền thông hiện đại có mặt khắp nơi, Hồ Chí Minh yên nghỉ trong quan tài thủy tinh tại lăng Ba Đình Hà Nội đã bốn mươi năm, nhưng hoàn cảnh gia đình, lịch trình học tập, khả năng ngôn ngữ, lý tưởng động cơ cách mạng, thực trạng hôn nhân, quá trình hoạt động tại Quốc tế cộng sản, thậm chỉ ngày sinh và ngày mất cũng vẫn còn tồn tại rất nhiều nghi vấn. Mặc cho các tác giả viết truyện ký tìm mọi cách lắp ghép tư liệu, cuối cùng, vẫn không thể nào dựng lại được và trình bày một cách thuyết phục chân dung lịch sử Hồ Chí Minh.
Nhà sử học Việt Nam, giáo sư Nguyễn Thế Anh, tiến sĩ văn học và nhân văn Đại học Sorbonne, Paris, Pháp, từng là giám đôc Đại học Thuận Hóa, chủ nhiệm khoa Văn Sử Đại học Sài Gòn, giáo sư thỉnh giảng Đại học Harvard Hoa Kỳ, chủ nhiệm khoa Lịch sử văn hóa Đông Dương, Đại học Sorbonne, đã dày công nghiên cứu về Hồ Chí Minh và có những kiến giải độc đáo. Trong tác phẩm "Con đường chính trị của Hồ Chí Minh", Nguyễn giáo sư từng nói: "Cho dù không thiếu những tác phẩm viết về Hồ Chí Minh, cho dù ông đã mất từ lâu, nhưng vẫn còn tồn tại khá nhiều nghi vấn và mâu thuẫn trong cuộc đời nhân vật chính trị này. Do ông có thói quen che giấu quá khứ và những hoạt động của mình, cố ý xóa sạch các dấu vết, vì thế, mọi cố gắng tìm hiểu những chi tiết chân thực trong cuộc đời hoạt động của ông chẳng khác gì đứng trong đám mây mù vần vụ mà thưởng hoa vậy. Vì thế, ta chỉ có thể suy đoán mà thôi. Hồ Chí Minh có đến ba cái tên giả, tự mình kể chuyện về mình đầy tràn sắc thái thần bí với nhiều sự hàm hồ, vô vàn tình tiết nghi hoặc, chẳng những không thể phân tích rõ ràng, mà còn bỗng nhiên tự tâng bốc mình với mục đích tuyên truyền cho sự nghiệp chính trị hoặc là một thánh nhân. Tuy vậy, các nhà sử học đã trường kỳ nghiên cứu, nỗ lực bóc gỡ dần lớp màn che phủ vốn làm chân dung Hồ Chí Mịnh bị biến dạng hoặc bị tô vẽ thái quá qua các tác phẩm truyện ký, chỉ có điều là vẫn chưa tìm ra điểm mấu chốt.
Nhà sử học Hoa Kỳ, giáo sư William J. Duiker, là một học giả trác việt chuyên nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Thời kỳ chiến tranh Việt Nam, William J. Duiker làm việc ở Đại sứ quán Hoa Kỳ, trước sau có gần ba mươi năm nghiên cứu về Hồ Chí Minh, đã được một số Quỹ và Hội học thuật Hoa Kỳ tài trợ. William J. Duiker cũng thông thạo các tiếng Anh, Pháp, Nga và Việt, đã vào đọc hầu hết các thư viện lớn nhỏ châu Á, châu Âu và châu Mỹ, trong đó có nhiều lần cùng đi với các quan chức chính quyền Việt Nam sưu tầm tư liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh, và đã tìm được những tài liệu quý hiếm.
Vào năm 2000, William J. Duiker hoàn thành tác phẩm "Truyện Hồ Chí Minh", xuất bản bằng tiếng Anh, dày 700 trang, tuy nhiên chính ông cũng phải thừa nhận, không thể nào tìm được những tài liệu ở cơ quan đầu não, bởi luôn có sự ngăn cản việc tìm ra sự thật. William J. Duiker nói: "Những tài liệu nằm ở Trung tâm Lưu trữ Hà Nội đều không cho người Việt Nam và người nước ngoài thâm nhập tìm hiểu, nghiên cứu. Cũng như vậy, ta không thể tìm những tài liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Nhà cầm quyền Trung Quốc và Liên Xô hầu như ít khi để lộ những thông tin thuộc loại này.
Học giả Anh Quốc Sophie Quinn Judge cũng là một chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh, từng được Quỹ Mike và Viện nghiên cứu Trung ương Đại học London tài trợ. Bà đã đến Việt Nam , các nước Đông Nam Á và Nga Xô, tìm được những chứng cứ mới nhất trong hồ sơ của Quốc tế cộng sản và tình báo Pháp làm cơ sở cho công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Năm 2002, Sophie Quinn Judge đã xuất bản tại London cuốn sách "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941". Trong lời đầu, tác giả nói rõ, lấy "truyền kỳ về con người hai mặt" làm tiêu đề, bởi vì, đối với Hồ Chí Minh còn rất nhiều điều nghi vấn, đặc biệt tiêu đề chương sáu, dùng sự kiện "Chết ở Hương Cảng, mai táng ở Mạc Tư Khoa", coi đó là câu đố về chuyện sinh tử của Hồ Chí Minh, đồng thời đặt dấu hỏi nghi ngờ.
Trong phần giới thiệu tóm tắt ở trang 6, Sophie Quinn Judge viết: "Hồ Chí Minh tìm mọi cách để giấu đi quá khứ của mình. Nhiều năm qua, những thứ mà ông đã cung cấp toàn là loại "dật sự", thường là mâu thuẫn nhau, không mấy liên quan đến cuộc đời thực. Đầu tiên là tập tự truyện xuất bản vào năm 1949 tại Trung Quốc, năm 1950 được xuất bản bằng tiếng Pháp tại Paris, mấy năm sau lại xuất bản tại Việt Nam với nhan đề "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch". Qua cuốn sách, người đọc biết rất rõ là, tất cả cái gọi là sự thật ấy đều do Hồ Chí Minh bịa đặt. (Tác giả nhận xét, "Truyện Hồ Chí Minh", bút danh Trần Dân Tiên, bản Trung văn, "Ba Nguyên thư ốc" Thượng Hải xuất bản năm 1949. Năm 1958, cuốn sách đổi tên là "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch", xuất bản bằng tiếng Việt tại Hà Nội).
Năm 1962, nhà Việt Nam học Bernard Fall phỏng vấn Hồ Chí Minh, có hỏi đến những chi tiết mập mờ trong cuộc đời của ông, Hồ Chí Minh trả lời: "Các ông già khi vui vẻ thường tự tạo ra cho ḿnh một chút thần bí. Tôi cũng bắt chước người xưa làm ra vẻ thần bí một chút, chắc ngài có thể hiểu được". Việc này chẳng biết Bernard Fall có hiểu được hay không, nhưng William J.Duiker trong cuốn sách nổi tiếng "Truyện Hồ Chí Minh" đã viết: "Không khí thần bí bao bọc xung quanh Hồ Chí Minh luôn luôn được duy trì, chí ít ra là trong các tác phẩm tự truyện như thế này".
Hồ Chí Minh có phải đến từ Đài Loan?
Vì sao cho đến lúc qua đời Hồ Chí Minh vẫn không tự nói ra những bí mật của mình? Chấp nhận nằm trong quan tài thủy tinh để lại cho người đời biết bao câu hỏi nghi ngờ? Vì sao các tư liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh trong hồ sơ lưu trữ tại các nước Pháp, Anh Quốc (bao gồm cả Hương Cảng), Mỹ... đến nay từng bước đã được giải mật, vậy mà nhà nước Việt Nam, Trung Quốc và Nga vẫn xếp vào loại tuyệt mật, cất giữ trong hòm kín? Các chuyên gia, học giả nghiên cứu về Hồ Chí Minh nhận thấy rất rõ, trong hồ sơ giản lược về cuộc đời ông, trước sau đều phát sinh mâu thuẫn, nhưng không biết làm cách nào tìm được cách giải thích hợp lý. Hàng loạt những sự kiện nghi vấn trên dường như tạo hứng thú cho người ta bỏ nhiều thời gian, công sức tìm tòi tư liệu để viết về thân thế Hồ Chí Minh. Việc này cũng giải thích vì sao, giới lãnh đạo cao cấp Việt cộng, Trung cộng và Quốc tế cộng sản, phàm là các sử liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh, đều nhất loạt được che giấu, tô vẽ hoặc ngụy tạo.
Nhiều năm trước, một người bạn thương gia Đài Loan đã nói với tôi: "Hồ Chí Minh là người họ Hồ ở Miêu Lật, Đồng La, ông có biết không?". Tin đồn về Hồ Chí Minh thuộc Hồ tộc ở Miêu Lật, Đồng La đã hai lần tôi trực tiếp nghe được. Thông tin này làm tôi vừa nghi ngờ vừa phấn khởi. Đây phải chăng là dự báo về thân phận Hồ Chí Minh sắp được giải mật? Có một người họ Hồ, nhân viên Đảng vụ Quốc dân đảng, thuộc dân tộc Khách Gia Quảng Đông, sinh vào năm Dân Quốc thứ năm mươi, trong dịp về tế tổ họ Hồ ở Miêu Lật có hỏi thân phụ tôi: "Hồ Chí Minh với ông là như thế nào mà có tin đồn ông ta cũng là người Miêu Lật?" Một người nữa là thày thuốc họ Hà kể lại, năm 1945, ông đã theo quân đội Quốc dân đảng đến Hà Nội có nghe một người Hoa làm nghề buôn thịt lợn nói rằng, Hồ Chí Minh là người đến từ Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan. Người anh họ của tôi cũng bảo: "Năm Dân Quốc thứ sáu mươi, anh cùng ông chú đến Bộ Ngoại giao Đài Bắc hỏi thăm tung tích Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) cùng những vấn đề liên quan đến thân phận ông, nhưng không có được câu trả lời cụ thể. Thời gian gần đây tôi đã hai lần được nghe từ miệng một thương nhân Đài Loan ở Việt Nam nói rõ, Hồ Chí Minh là người Miêu Lật, Đồng La, nhưng không thể kiểm chứng được nguồn gốc thông tin, bởi không một lãnh đạo chóp bu nào của Việt Nam chịu tiết lộ bí mật.
Từ Việt Nam, tin đồn Hồ Chí Minh là người thuộc họ Hồ sinh quán ở Miêu Lật, Đồng La truyền về Đài Loan, khiến tâm trạng tôi vốn dĩ trầm lặng bỗng nhiên như cháy bùng lên. Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam là người Đài Loan! Như vậy, lời khẩu truyền được lưu trong ký ức gia tộc họ Hồ ở Miêu lật, Đồng La thực ra chẳng phải là bí mật của Ông Trời, vấn đề là, chưa tìm được chứng cứ đủ sức thuyết phục mà thôi. Trước đây ít năm, gia tộc có phát hành nội bộ cuốn sách "Giải nghĩa 'Nhật ký trong tù' của Hồ Chí Minh". Qua sơ bộ nghiên cứu tư liệu thì Hồ Chí Minh đúng là người họ Hồ ở Miêu Lật, Đồng La. Đại thể là, không có lửa làm sao có khói, chỉ tiếc sức lực có hạn, không tìm được chứng cứ để liên kết các sự kiện. Mấy năm nay, các loại sách báo, tranh ảnh lưu hành rất tiện lợi. Mạng Internet phát triển nhanh chưa từng thấy. Các sử liệu liên quan đến Hồ Chí Minh lần lượt xuất hiện. Tin đồn Hồ Chí Minh là người Đài Loan từng bước được lịch sử xác nhận qua các phương pháp giám định khoa học. Vì thế, để tìm hiểu xem Hồ Chí Minh có phải là người Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan hay không, cần phải khẳng định hai sự kiện sau:
1 - Hồ Chí Minh thời kỳ (1890 - 1932) là Nguyễn Ái Quốc của Việt Nam .
2 - Hồ Chí Minh thời kỳ (1933 - 1969) là Hồ Tập Chương của Đài Loan.
Nói cách khác, truyền kỳ về Chủ tịch nước Việt nam Hồ Chí Minh, nửa đời trước là lãnh tụ cộng sản Việt Nam Nguyễn Ái Quốc, nửa đời sau là nhân sĩ Quốc tế cộng sản Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan. Hai người cùng có quá trình sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam , cùng đạt được những thành tựu trong cuộc đời hoạt động.
Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam , cũng là đại biểu Quốc tế cộng sản. Do đảng viên cộng sản Pháp Joseph Ducroix, bí thư Công hội Thái Bình Dương, Quốc tế cộng sản bị bắt tại Singapore, sau khi truy vấn, cảnh sát đã bắt được hai phái viên của Cục Viễn Đông Quốc tế cộng sản là Hilaire Noulens ở Thượng Hải và Nguyễn Ái Quốc ở Hương Cảng. Không may, vào mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc trên đường trốn chạy từ Hương Cảng đến Thượng Hải bị mắc bệnh lao phổi qua đời.
Mùa hè năm 1929, Hồ Tập Chương từ Đài Loan đến Thượng Hải, được Cục Viễn Đông phái đến làm việc tại "Liên minh mậu dịch Thái Bình Dương". Cũng bởi có liên quan đến vụ án Hilaire Noulens, ông phải trốn đến Quảng Châu rồi lại chạy sang Quảng Tây, Xiêm La, cuối cùng về Hạ Môn. Đầu năm 1933, Hồ Tập Chương từ Hạ Môn đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa. Lúc này, chủ quản bộ phận Việt Nam Quốc tế cộng sản là Vera Vasilieva đặt kế hoạch cho Hồ Tập Chương 5 năm học tập cải tạo để biến thành Nguyễn Ái Quốc, nhằm phủ định sự thật Nguyễn Ái Quốc đã chết, thay thế ông này, bước lên vũ đài lịch sử, diễn vở kịch truyền kỳ Hồ Chí Minh "thật giả kiếp người".
Hồ Chí Minh nửa đời về sau (1933 - 1969) là Hồ Tập Chương, người Đài Loan. Tuy nhiên, sự kiện động trời này chưa từng được lịch sử biết đến, khiến các cho các chuyên gia nghiên cứu hoặc độc giả có hứng thú với nhân vật Hồ Chí Minh vừa sững sờ vừa nghi vấn. Các chứng cứ của luận điểm này? Độ tin cậy của thông tin như thế nào? Nguồn gốc của tư liệu ở đâu? Mối quan hệ nhân quả về thời gian, không gian và tính logic của vấn đề?
Về trình tự làm cuốn sách, trước hết là trình bày việc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và chết bởi bệnh lao phổi vào mùa thu năm 1932. Phần tiếp theo sẽ chỉ ra, Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc không phải là một người, cuối cùng nói đến nửa phần đời sau của Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương đến Từ Đài Loan. Nội dung cuốn sách này hoàn toàn đảm bảo tính khách quan và tính hợp lý với mục đích chỉ để làm rõ một tiên đề giả thiết Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc không phải là một người. Trong quá trình khảo cứu, tôi đã tìm hiểu, so sánh, đối chiếu cẩn trọng các tư liệu liên quan đến cuộc đời Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, muốn làm một việc công bằng là trả lại sự thực vốn có cho lịch sử, đồng thời để tìm ra lời giải câu đố "Sự bí ẩn trong chuyện sinh tử của Nguyễn Ái Quốc". Từ sự bí ẩn về thân phận Hồ Chí Minh, tôi đề xuất 5 luận chứng đồng thời cũng là nhan đề của 5 thiên trong "Tìm hiểu cuộc đời Hồ Chí Minh" như sau:
1 - "Hài kịch tráo rồng đổi phượng" (Nguyễn Ái Quốc chết mà sống lại).
2- "Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp người" (Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng lên vũ đài lịch sử).
3 -"Cuộc sống lưu vong phiêu bạt" (Hồ Chí Minh ở Liên Xô và Trung Quốc).
4- "Khúc bi ca về tình yêu và hôn nhân" (Sự thật về tình yêu, hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh).
5 - "Nhật ký trong tù và Di chúc" (Làm rõ khả năng Hán văn của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh).
Từ cách nhìn lịch sử ở những góc độ khác nhau, lật lại sự kiện Nguyễn Ái Quốc chết bệnh vào năm 1932, và Hồ Chí Minh của năm 1933 là Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan tiếp tục tiếp tục đăng đài thực hiện nhiệm vụ Quốc tế cộng sản giao phó, rất mong được các chuyen gia học giả cùng bạn đọc chỉ giáo.
Hồ Tuấn Hùng
THIÊN I
Hài kịch tráo rồng đổi phượng
Màn một
Sự thật về cái chết của Nguyễn Ái Quốc
Những ẩn số về con người Hồ Chí Minh
Trong tiểu sử Hồ Chí Minh, một câu hỏi luôn được đặt ra, ông là Nguyễn Ái Quốc, người Việt Nam hay là Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan? Đây là vấn đề vô cùng quan trọng. Phải chăng Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1932? Người tiếp tục đóng vai ông liệu có phải là Hồ Tập Chương? Các tác giả viết truyện ký về Hồ Chí Minh vào thời điểm 1932 đều khá mơ hồ, thậm chí còn tỏ ra không ít nghi ngờ. Vì vậy không có cách nào chứng thực được cái chết của Nguyễn Ái Quốc, nơi mai táng di thể cũng như thân phận của Hồ Tập Chương tiếp tục vai trò của ông. Vì thế, các học giả nghiên cứu về Hồ Chí Minh, cho đến nay, chỉ sử dụng những tư liệu chính thống do nhà nước Việt Nam biên soạn như "Truyện Hồ Chí Minh" hoặc "Hồ Chí minh và vấn đề văn hóa" v.v...nhằm ngoa truyền Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc. Nhân đó khẳng định thân phận chân chính Hồ Chí Minh cùng những chi tiết thật giả lẫn lộn không thể phân biệt, đề lại cho hậu thế một nhân vật nhuốm màu thần bí.
Nghiên cứu kỹ những ghi chép về hoạt động của Hồ Chí Minh từ năm 1933 đến năm 1945, ta sẽ thấy một số không nhỏ những điều vô lý được sử dụng qua hàng loạt chứng cứ ngụy tạo. Có thể dẫn chứng, người mà năm 1933 từ Hạ Môn đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa tuyệt đối không phải Nguyễn Ái Quốc mà là một người khác. Tình yêu và hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cũng hoàn toàn khác nhau. "Nhật ký trong tù" không phải do Nguyễn Ái Quốc sáng tác. Tất cả đều là những vấn đề lớn còn tồn tại nhiều mâu thuẫn. Vì thế phải làm rõ một điều, Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc, hai người này không thể là một. Từ đó mới có thể xác định Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1932. Chết mà sống lại khiến người ta nghĩ đến trò chơi "mượn xác hoàn hồn", "dời hoa tiếp cây".
Nguyễn Ái Quốc chết thật hay chết giả?
Nguyễn Ái Quốc nhiều năm đã mắc chứng lao phổi, tháng 6 năm 1931 bị cảnh sát Hương Cảng bắt, được chuyển đến bệnh xá nhà giam điều trị, đầu năm 1932 mất tích, đến khoảng giữa tháng 7 và tháng 8 thì các báo đưa tin chết vì bệnh lao phổi. Cũng thời gian này các báo Hương Cảng, Anh Quốc, Pháp Quốc và Nga Xô đều viết, sau khi Nguyễn Ái Quốc từ Singapore trở lại Hương Cảng, không rõ lý do mất tích, sau đó bị bệnh qua đời. Thời gian này, nhóm lưu học sinh Việt Nam tại trường Đại học Phương Đông, Mạc Tư Khoa đã cử hành lễ truy điệu. Phái viên Quốc tế cộng sản đến thăm hỏi chia buồn. Hồ sơ Nguyễn Ái Quốc của cảnh sát Pháp năm 1933 cũng ghi chú Nguyễn Ái Quốc đã chết. Thế nhưng, mãi đến mười năm sau, một nhân viên tình báo Pháp lại gửi báo cáo vềParis khẳng định Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở vùng biên giới Việt - Trung. Chính phủ Pháp gửi điện trả lời: "Vô lý, chắc anh bị bệnh tâm thần nên mới chuyển về nước tin tức vớ vẩn này. Nguyễn Ái Quốc đã chết ở Hương Cảng vào đầu những năm 1930". Những tài liệu gốc nằm trong hồ sơ Nguyễn Ái Quốc được nhắc đến từng đăng tải trên báo chí đều là những tư liệu lịch sử từ năm 1932 đến năm 1941 đáng tin cậy. Trong khoảng mười năm, Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn biệt vô âm tín, không có bất cứ ghi chép nào về hoạt động của ông, nhưng lại có một người khác, xưng danh là Nguyễn Ái Quốc, tiếp tục sự nghiệp của ông., Đó là Hồ Tập Chương. Thế thân Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tập Chương phủ nhận cái chết vì bệnh phổi với lý do, vì có nhiệm vụ quan trọng phải rời Hương Cảng nên đã tung tin cái chết giả với báo chí. Quốc tế cộng sản và các yếu nhân Trung cộng đều ra sức che dấu những hoạt động của Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) từ năm 1929 đến năm 1933, mặt khác lại không ngừng dùng báo chí tuyên truyền khẳng định Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc vẫn hoạt động trên vũ đài chính trị. Ví như năm 1933, người ta đã tạo ra một hình ảnh Nguyễn Ái Quốc giả gặp người bạn Pháp là Vaillant Couturier tại Thượng Hải rồi tung lên các báo với ý đồ, làm cho người đời tin rằng, từ năm 1933, Nguyễn Ái Quốc vẫn hoạt động tại Thượng Hải, để đạt được mục đích "dời hoa tiếp cây". Gần mười năm sau khi Nguyễn Ái Quốc chết, ngày 6 tháng sáu năm 1941, lần đầu tiên Hồ Chí Minh công khai danh tính Nguyễn Ái Quốc trong bài "Thư gửi đồng bào toàn quốc" kêu gọi nhân dân Việt Nam đứng lên làm cách mạng, giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước.
Theo những mẩu chuyện tự kể về cuộc đời Hồ Chí Minh, những năm tháng sau khi Nguyễn Ái Quốc chết, rồi được làm cho sống lại từ màn kịch "dời hoa tiếp cây", nói rằng: "Mùa xuân năm 1932, Nguyễn Ái Quốc bí mật đến Hạ Môn chữa bệnh nửa năm, đầu năm 1933, từ Hạ Môn đến Thượng Hải, sau đó từ Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa". Đó chính là trò chơi "ve sầu thoát xác" tạo nên một Hồ Chí Minh từ xác chết Nguyễn Ái Quốc được phù phép cho sống lại.
Sự thật về cái chết của Nguyễn Ái Quốc rất rõ ràng, nhưng lịch sử bị bóp méo, ngụy tạo ra cách giải thích, ông phải chạy trốn sang Pháp do bị đặc vụ săn đuổi. Tất cả những việc làm trên đều thực hiện bởi bàn tay Quốc tế cộng sản cùng giới lãnh đạo chóp bu Trung cộng, Việt cộng, chỉ nhằm một mục đích, bắt buộc người ta phải thừa nhận Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc.
Báo chí đưa tin Nguyễn Ái Quốc chết bởi bệnh lao phổi.
Sophie Quinn Judge trong tác phẩm "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919 - 1941", đặc biệt tại chương 6, đã trực tiếp lấy việc Hồ Chí Minh "chết ở Hương Cảng, mai táng ở Mạc Tư Khoa" làm tiêu đề, đã nhận thấy có cái gì đó mù mờ trong chuyện sinh tử này. Sự nghi ngời của Quinn Judge phải chăng căn cứ từ các bài báo đương thời nhưng không có những tư liệu đáng tin cậy làm cơ sở pháp lý. Tuy nhiên, trong năm ấy, báo chí cộng sản lại lần lượt đưa tin Nguyễn Ái Quốc chết do bị lao phổi. Ví như tờ "Sự thật" của đảng Cộng sản Liên Xô, tờ "Nhân đạo" của đảng Cộng sản Pháp, tờ "Lao động" của đảng Cộng sản Anh, đặc biệt, nhóm lưu học sinh Việt Nam tại Đại học Phương Đông, Mạc Tư Khoa đã cử hành lễ truy điệu Nguyễn Ái Quốc, Quốc tế cộng sản cũng phái đại biểu đến chia buồn.
1 - Trong tác phẩm "Hồ Chí Minh ở Trung Quốc", giáo sư sử học Đài Loan Tưởng Vĩnh Kính, trang 74 - 75, đã viết:
Đầu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc sang Singapore nhưng bị cảnh sát bắt quay lại Hương Cảng, sau đó thì mất tích, nhưng phía Anh Quốc cũng không công bố việc này. Sau khi Nguyễn Ái Quốc mất tích, các báo đều đưa tin ông bị ho lao nặng và qua đời trong nhà giam. Những báo này bao gồm cả của nhà đương cục Pháp - Việt thực dân cho đến của các đảng Cộng sản như tờ "Lao động" của đảng Cộng sản Anh, tờ "Nhân đạo" của đảng Cộng sản Pháp, đến các báo của Nga Xô đều đăng tải tin Nguyễn Ái Quốc bị bệnh lao phổi chết. Nhóm lưu học sinh Việt Nam tại Đại học Phương Đông, Mạc Tư Khoa cử hành tang lễ, phái viên Quốc tế cộng sản đễn viếng và chia buồn. Hồ sơ của cảnh sát Pháp năm 1933 đã ghi chép về sự kiện này và chú thích "Nguyễn Ái Quốc đã chết tại Hương Cảng". (Tác giả nhận định: Báo chí Nga Xô cụ thể là tờ "Sự thật" (Pravda), xem cuốn "Chủ tịch nước Việt Nam ", Lý Gia Trung biên dịch, trang 224)
Những ghi chép của Tưởng giáo sư cùng các bài báo có liên quan đến cái chết của Nguyễn Ái Quốc dẫn từ "Bác Hồ" của Hoài Thanh, Thanh Tịnh, NXB Ngoại văn, 1962 và "Hoang Van Chi, From Colonialism to Communism" Ferederick A.Praeger, inc,1965 二書.(Hoàng Văn Chi, "Từ chủ nghĩa thực dân đến chủ nghĩa cộng sản" Ferederick A.Praeger, inc,1965, 2 quyển).
2 - Trong cuốn "Truyện Hồ Chí Minh", trang 209 và 212, William J. Duiker viết:
Vào ngày 11 tháng 8 năm 1932, tờ nhật báo "Công nhân" của Quốc tế cộng sản phát hành tại London, đăng tin Nguyễn Ái Quốc chết trong nhà giam. Nhóm lưu học sinh Việt Nam tại trường Đại học Stalin sớm đã biết tin Nguyễn Ái Quốc qua đời vì bệnh lao phổi nặng và tổ chức lễ truy điệu, cũng như trước đó, vào năm 1931, họ đã tổ chức lễ truy điệu Tổng bí thư Trần Phú chết ở nhà tù thực dân Pháp tại Việt Nam.
Những ghi chép của William J. Duiker thật ra không rõ ràng vì không dẫn được tư liệu gốc có tính thuyết phục. Những nghiên cứu của giáo sư Tưởng Vĩnh Kính, về đại thể là giống nhau, chỉ khác về tiểu sự nếu đem so sánh với các tư liệu viết về Hồ Chí Minh trong tác phẩm "Bác Hồ" của Hoài Thanh và Thanh Tịnh do NXB Ngoại văn ấn hành năm 1962.
3 - Sophie Quinn Judge trong "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919- 1941", trang 194 đã viết:
Tháng 9 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc thừa nhận mình bị lao phổi. Trong một bức thư gửi Bộ Ngoại giao năm 1932, Tổng Lãnh sự Pháp tại Hương cảng Soulange Teissier cũng chứng thực Nguyễn Ái Quốc bị nhiễm lao mạn tính. Mùa hè năm 1932, lần đầu tiên một tờ báo viết: "Người (Nguyễn Ái Quốc) bị bệnh lao, thân thể suy nhược này chính là một lãnh đạo quan trọng của Việt Nam ". Các báo Cộng sản tháng 8 năm 1932 đều đồng loạt đưa tin Nguyễn Ái Quốc qua đời bởi bệnh phế kết hạch (bệnh lao phổi).
Bí mật về cái chết của Nguyễn Ái Quốc
Tin Nguyễn Ái Quốc bị bệnh qua đời vì sao chỉ có các báo Cộng sản đăng tải? Vì sao lưu học sinh Việt Nam tại Mạc Tư Khoa tổ chức tang lễ? Lại vì sao đến mười năm sau Hồ Chí Minh mới giải thích việc mình chết rồi sống lại chính là một màn kịch để trốn khỏi Hương Cảng?
Đầu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc mất tích từ Hương Cảng, bí mật đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa. Kế hoạch này này là do Quôc tế cộng sản đạo diễn, vì thế chỉ có báo chí Cộng sản đưa tin. Có thể thấy, thời gian sau khi Nguyễn Ái Quốc chết, Quốc tế cộng sản vẫn chưa có ý định "cấy" Hồ Chí Minh thay thế ông ta, cho nên báo chí Cộng sản mới đưa tin Nguyễn Ái Quốc chết vì bệnh lao phổi và lưu học sinh Việt Nam tại Mạc Tư Khoa mới tổ chức lễ truy điệu.
Về cái chết của Nguyễn Ái Quốc, sau khi các báo đưa tin, tất cả đều im lặng, tuyệt nhiên không thấy Quốc tế cộng sản có bất cứ động thái gì. Trong khi ấy, liên lạc viên Cục Viễn Đông của Quốc tế cộng sản là Hồ Tập Chương, từ Thượng Hải đã đến Mạc Tư Khoa vào năm 1933. Hồ Tập Chương đã nhiều lần cùng làm việc với Nguyễn Ái Quốc, đặc biệt đã tham gia Ban Trù bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam . Vì vậy, lúc này, Quốc tế cộng sản yêu cầu Hồ Tập Chương thay thế thân phận Nguyễn Ái Quốc, tiếp tục tham gia phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Tập Chương (bí danh P.C.Lin), qua 5 năm, được sự giáo dục, cải tạo của Quốc tế cộng sản, lại đổi tên là Hồ Quang, Hồ Chí Minh hoạt động tại vùng biên giớ Việt Trung. Cố nhiên, đây mới là chỉ dấu ban đầu nghi ngờ về cái chết của Nguyễn Ái Quốc và thân phận thực của Hồ Chí Minh sau khi đã đồng nhất với Nguyễn Ái Quốc.
Phải chăng, Nguyễn Ái Quốc đã chết vào mùa thu năm 1932 bởi bệnh lao phổi? Căn cứ vào hoàn cảnh lúc ấy mà suy đoán thì hầu như có thể khẳng định đó là sự thật. Theo hồi ức Lưu Đức Phương, một đảng viên Cộng sản Việt Nam, thì từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Ái Quốc nỗ lực hoạt động vượt bậc. Chín trăm ngày đêm, công việc chồng chất như núi, ông phải làm việc thâu đêm, thân thể suy nhược, và nhất là ho rất nhiều, có lúc khạc ra máu. Từ tháng bảy đến tháng chín năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết 6 bức thư gửi Cục Viễn Đông, trình bày về việc mình bị bệnh lao phổi nặng, thường ho ra máu, thân thể suy nhược. Cuối tháng mười một năm 1931, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi đồng chí Lam Đức Thư của "Liên minh thanh niên cách mạng": "Tình trạng sức khỏe của tôi hiện rất nguy kịch, bệnh cũ tái phát, thường xuyên ho ra máu, rất đáng lo ngại, sợ rằng có thể chết trong ngục bất cứ lúc nào". Năm 1932, tình báo viên Anh Quốc là Paul Draken, dùng thủy phi cơ đưa Nguyên Ái Quốc rời Hương Cảng đã nhìn thấy "Nguyễn Ái Quốc quá mệt mỏi, ho liên tục, gần như không còn sức để nói".*
Như trên đã trình bày, từ khi rời Hương Cảng trốn đến Thượng Hải, tình trạng bệnh tật Nguyễn Ái Quốc đã khá trầm trọng, lại trải qua chặng đường dài vô cùng vất vả, vì thủy phi cơ rất xóc càng làm tổn hại sức khỏe. Huống nữa, sau khi lên bờ, đặc vụ Quốc dân đảng, cảnh sát tô giới Anh, với cặp mắt nhà nghế, luôn theo dõi nhất cử nhất động của những người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đâu dám công khai tìm thầy thuốc chữa bệnh mà chỉ cố chịu đựng để nhanh chóng đến được Mạc Tư Khoa. Cho nên ông bị chết ở Mạc Tư Khoa là hoàn toàn có thể xảy ra. Chính vì vậy, báo chí Cộng sản từ tờ "Sự thật" của Nga Xô đưa tin đầu tiên, sau đó đến tờ "Nhân đạo" của Đảng Cộng sản Pháp, tờ "Lao động" của Đảng Cộng sản Anh lần lượt đăng tải tin Nguyễn Ái Quốc chết vào tháng 7 và tháng 8 năm 1932. Cùng thời gian này, nhóm lưu học sinh Việt Nam tại Đại học Phương Đông đã tổ chức tang lễ cho Nguyễn Ái Quốc. Từ đó suy ra, Nguyễn Ái Quốc đã qua đời trên đường đến Mạc Tư Khoa, chôn cất tại Mạc Tư Khoa là sự thật, tuyệt đối không phải như Hồ Chí Minh tự thuật sau này nói về cái chết giả để tránh bị cảnh sát truy đuổi.
Chú thích:
* Dẫn từ: Paul Draken "Nhật ký Paul Draken- Ghi chép về Nguyễn Ái Quốc". "Nhật ký Paul Draken" chính là cuốn hồi ký mà nội dung trong đó có nhật ký của thân phụ ông là nam tước Draken chưa kịp xuất bản. Nhật ký thuật lại chuyến đi mạo hiểm của nam tước Draken từ năm 1900. Đầu năm 2000, "Nhật ký Paul Draken có kèm theo tranh ảnh được chuyển cho ngài Diêu Khai Dương thuộc Viện Bảo tàng Trung Quốc toàn quyền xử lý. Sau này Diêu Khai Dương viết thư xin ý kiến Paul Draken trao bản quyền cho tập đoàn YAO xuất bản và phát hành. "Nhật ký Paul Draken" có thiên thứ ba "Trân châu Trung Quốc" (1929-1932), chương 12, lấy tên Nguyễn Ái Quốc làm nhan đề chia ra hai phần "thượng", "hạ" ước khoảng ba nghìn chữ, kể lại việc ông tham gia vào kế hoạch giải cứu Nguyễn Ái Quốc. "Ghi chép về Nguyễn Ái Quốc" kể lại quá trình xây dựng kế hoạch và thực hiện giải cứu Nguyễn Ái Quốc là tác phẩm vô cùng quý giá, rất đáng đọc và suy ngẫm.
Sai lầm của Hồ Chí Minh về việc tự nhận "mình đã bị chết"
Liệu rằng Hồ Chí Minh có sự lật lọng khi nói đi nói lại nhiều lần "mình đã bị chết"? Lúc thì ông bảo, đây chỉ là tin giả do nhà đương cục Pháp công bố, lúc thì lại nói, luật sư Frank Loseby cố ý tung tin Nguyễn Ái Quốc chết, tạo điều kiện thuận lợi để ông trốn khỏi Hương Cảng. Lại nữa, trong các bản tiếng Việt như "Truyện Hồ Chí Minh" hay "Hồ Chí Minh biên niên tùng thư", trước sau đã nhiều lần nhắc đến việc này, khiến người ta rất khó tin là, Hồ Chí Minh "tự tuyên bố cái chết của mình với báo chí, mục đích giữ an toàn khi rời khỏi Hương Cảng". Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: " Việc công bố cái chết của Nguyễn Ái Quốc là do nhà đương cục Pháp cố ý bịa đặt nhằm mục dịch làm nhụt ý chí đấu tranh của nhân dân Việt Nam ". Cách giải thích như thế xem ra không đủ sức thuyết phục. Tin Nguyễn Ái Quốc chết bởi bệnh lao phổi, lần đầu tiên được báo chí đăng vào mùa thu năm 1932. Trong khi đó, Hồ Chí Minh lại tuyên bố mình trốn khỏi Hương Cảng đến Hạ Môn vào tháng giêng năm 1933. Khoảng thời gian sai số cách nhau gần nửa năm rất không phù hợp với thực tế. Công bằng mà nói, nếu đã tung màn khói cái chết giả để tiện lợi cho sự trốn chạy, tất yếu phải tạo ra một thời gian tương ứng phù hợp. Thế nhưng, ở đây lại có sự tiền hậu bất nhất những nửa năm, làm người đọc hoàn toàn có quyền nghi ngờ. Hơn thế nừa, mãi sau nửa năm mới nói mình sống lại, chỉ với mục đích duy nhất là muốn làm sáng tỏ lời tuyên bố về "cái chết" từ mười năm trước.
Một mặt nói là mình không chết, mặt khác lại nói mình chết để cho các đồng chí phải vất vả lo liệu tang lễ sau khi vừa tổ chức lễ truy điệu Tổng Bí thư Trần Phú. Câu chuyện hoang đường đầy chất hoạt kê này rất bất hợp lý chẳng khác gì kiều "gậy ông lại đập lưng ông", chẳng qua đó chỉ là màn kịch nhằm mục đích "mượn xác hoàn hồn', "dời hoa tiếp cây" được dàn dựng kỹ lưỡng mà thôi.
Hồ sơ bệnh án Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh
Đoàn Chủ tịch Trung ương Việt Nam đặc biệt thông báo: "Chủ tịch Hồ Chí Minh bị bệnh tim nặng đã từ trần hồi 9 giờ 47 phút năm 1969". Đây là một sự dối trá. Nguyễn Ái Quốc chết vào tháng 8 năm 1932 do bệnh lao phổi, trong khi ấy, Hồ Chí Minh, sau 37 năm, chưa từng thấy có ghi chép về việc chữa trị bệnh lao phổi trong hồ sơ, mà lại chết bởi bệnh tim. Hãy cứ lấy năm 1933 làm điểm mốc trước sau để so sánh, quan sát, sẽ dễ dàng phát hiện ra tình trạng bệnh lý rất khác nhau trong cùng một con người. Đây là vấn đề rất quan trọng, xin cung cấp để bạn đọc tham khảo.
Hồ sơ bệnh lao phổi Nguyễn Ái Quốc
1 - Tháng giêng năm 1920, một đặc vụ Pháp là Edouard mang bí danh Phúc Bắc (Phu bay) báo cáo: "Nguyễn Ái Quốc, Phan Chu Trinh là những người mắc chứng viêm phế quản hoặc bệnh lao phổi. Họ không có điều kiện giữ gìn sức khỏe, nên nói chung sinh hoạt khó khăn. ("Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"- Sophie Quinn Judge, trang 28).
2 - Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc thay (...) viết bài, tháng tám phải nhập viện đã gây trở ngại cho kế hoạch hoạt động. Lúc ấy, vai phải Nguyễn Ái Quốc lở loét mưng mủ phải điều trị. Phải chăng đây là dấu hiệu của căn bệnh lao? ("Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"- Sophie Quinn Judge, trang 30).
3 - Đầu năm 1921, sau Hội nghị Tours, Nguyễn Ái Quốc từng nói, ông chẳng cần quan tâm đến sự thành bại của cách mạng thế giới mà việc cấp bách trước mắt là vận mệnh dân tộc. Hai tháng sau đó, Nguyễn Ái Quốc bị nghi là mắc bệnh viêm phế quản, phải vào bệnh viện điều trị sau một trận ốm. ("Truyện Hồ Chí Minh"- William J. Duiker, trang 173).
4 - Trước sau tháng chín năm 1924, Nguyễn Ái Quốc được Quốc tế cộng sản tạm thời giao nhiệm vụ soạn thảo một bài về tình hình Đông Nam Á để đăng trong chuyên san "Tin tức châu Á". Lúc ấy chưa xác định được Nguyễn Ái Quốc mắc bệnh gì, Quốc tế cộng sản đưa ông đến Crime bên bờ Hắc Hải nghỉ điều dưỡng khôi phục sức khỏe. ("Truyện Hồ Chí Minh"- William J. Duiker, trang 147).
5 - Ngày 25 tháng chín năm 1924, Nguyễn Ái Quốc gửi một bức thư cho Voitinsky, trong đó có nói đến việc sẽ đi Trung Quốc để tăng cường sức khỏe. Ngày 5 tháng chín, ông đến viện điều dưỡng điều trị một thời gian dài chứng bệnh lao phổi. ("Truyện Hồ Chí Minh"- William J. Duiker, trang 598).
6 - Từ năm 1925 đến năm 1927, gần chín trăm ngày đêm, công việc của Hồ Chí Minh chất đầy như núi. Ông phải làm việc kiệt lực mới giải quyết xong "tòa núi" ấy. Hồi ức Lý Đức Phương viết: "Lúc ấy Bác Hồ thường dậy từ canh năm làm việc đến canh hai mới nghỉ, thân thể suy nhược, ho nhiều, có lúc khạc ra máu". Sau khi thoát hiểm đến Mạc Tư Khoa, ông không thể không đến bệnh viện chữa trị. ("Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh"- Lý Gia Trung, cựu Đại sứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam , trang 123).
7 - Cuối năm 1927, tôi nhận được chỉ thị của Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương thuộc Quốc tế cộng sản, nhưng lúc ấy đang lâm bệnh ở Thailand hơn một năm, vì thế, không thực hiện được bất cứ nhiệm vụ nào. ("Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"- Sophie Quinn Judge, trang 163).
8 - Nửa sau năm 1928, hồi ký Đặng Văn Chi viết: "Có một thời gian Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu Đông y, hy vọng có thể tìm ra phương pháp chữa bệnh lao phổi, vì vậy, sau này có báo cáo với một đồng chí Việt Nam ở Hương Cảng, trình bày lý do ông ở Thailand hơn một năm mà không làm được việc gì". ("Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"- Sophie Quinn Judge, trang 129, 163).
9 - Năm 1929, căn cứ vào lời kể của Lam Đức Thư, có tin nói rằng, Nguyễn Ái Quốc ở nước Đức, sức khỏe không tốt. ("Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"- Sophie Quinn Judge, trang 143).
10 - Trong khoảng thời gian từ ngày 3 tháng bảy đến ngày 2 tháng chín năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết 6 bức thư gửi Cục Viến Đông. Trong thư đề ngày 2 tháng chín, ông thú nhận từ ngày 13 tháng tám, sức khỏe đã suy sụp vì bệnh lao phổi, chứng cớ là thở rất khó khăn, thỉnh thoảng lại thổ huyết, cơ thể vô cùng mệt mỏi. ("Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"- Sophie Quinn Judge, trang 177).
11- Tháng chín năm 1930, Nguyễn Ái Quốc chính thức công bố mình bị lao phổi nặng. Tổng Lãnh sự Pháp Soulange Teissier, trong một bức thư viết vào năm 1932 gửi Bộ Ngoại giao cũng xác nhận, Nguyễn Ái Quốc mắc chứng lao phổi mạn tính rất nặng. ("Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"- Sophie Quinn Judge, trang 194).
12 - Trước sau trung tuần tháng sáu năm 1931, phu nhân luật sư Frank Loseby tiếp tục vào thăm Nguyễn Ái Quốc, nhìn thấy thân thể nhà cách mạng tiều tụy, đã nói với chồng, trước mắt đề nghị nhà đương cục đưa ông vào bệnh viện điều trị. ("Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh "- Lý Gia Trung, cựu Đại sứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam , trang 200).
13 - Cuối tháng mười một năm 1931, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi cho Ủy viên Liên minh thanh niên cách mạng Lam Đức Thư: "Hiện tại sức khỏe của tôi rất nguy kịch, hơn nữa bệnh thổ huyết lại tái phát, tình hình này, rất có khả năng chết ở trong ngục. Chỉ trách ông trời không cho tôi sống để tiếp tục thực hiện lý tưởng cách mạng". ("Truyện Hồ Chí Minh", William J. Duiker, trang 206).
14 - Cuối năm 1931, Nguyễn Ái Quốc được đưa tới bệnh viện điều trị dưới sự canh gác nghiêm ngặt của cảnh sát. Cuối tháng mười hai, hoàng thân Cường Để gửi một bức thư tỏ thái độ trân trọng và lo lắng về tình trạng bệnh tật của Nguyễn Ái Quốc. Ông cũng gửi kèm theo 300 đồng để Nguyễn Ái Quốc mua thuốc chữa trị, đồng thời đề nghị phải giữ gìn sức khỏe để phụng sự đất nước. ("Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"- Sophie Quinn Judge, trang 194).
15 - Đầu năm 1932, Khu mật viện Hoàng gia Anh Quốc mở phiên tòa xử vụ Tống Văn Sơ tức Nguyễn Ái Quốc. Kết thúc phiên xử, Tòa tuyên án phóng thích Nguyễn Ái Quốc. Tin vui đến Hương Cảng. Lúc ấy Tống Văn Sơ vẫn còn đang điều trị tại bệnh viện. Sau chín lần ra tòa (1/8/1931- 19/9/1931), sức khỏe Tống Văn Sơ đã quá suy nhược.("Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh ", Lý Gia Trung, cựu Đại sứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam , trang 217).
16- Năm 1932, đại diện Bộ Ngoại giao Anh Quốc là Paul Draken đến Hương Cảng gặp Nguyễn Ái Quốc. Paul Draken nói: "Tôi được cử đến đây giúp ngài xuất cảnh, xin hỏi, ngài muốn đến nơi nào?". Nguyễn Ái Quốc bảo: "Tôi muốn đến Liên Xô". "Tốt nhất là ngài nên qua đường Thượng Hải" - Paul gợi ý- Tôi sẽ tháp tùng ngài đi Thượng Hải, sau đó, ngài sẽ quyết định nên đến nơi nào". ("Nhật ký Paul Draken - ghi chép về Nguyễn Ái Quốc").
17 - Năm 1932, Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) mất tích tại Hương Cảng, các báo đều đưa tin sau khi Hồ Chí Minh bị cảnh sát Hương Cảng bắt đã chết trong tù vì bệnh lao phổi. Các báo này bao gồm cả của chính quyền Pháp lẫn các Đảng Cộng sản, như tờ "Lao động" của Đảng Cộng sản Anh, tờ "Nhân đạo" của Đảng Cộng sản Pháp cùng các báo chí Liên Xô. ("Hồ Chí Minh ở Trung Quốc"- Tưởng Vĩnh Kính, trang 74- 75).
18 - Trước đó, nhóm lưu học sinh Việt Nam tại học viện Stalin đã biết Nguyễn Ái Quốc chết bởi bệnh lao phổi và đã lo tổ chức tang lễ, như trước đó đã tổ chức tang lễ Tổng Bí thư Trần Phú chết trong nhà tù thực dân Pháp tại Việt Nam . ("Truyện Hồ Chí Minh"- William J. Duiker, trang 212).
19 - Năm 1933, thời kỳ Hồ đến Mạc Tư Khoa, tình trạng sức khỏe đã rất kém, lại bị lao phổi, thân thể gầy yếu, hai má hóp xám bệch, chốc chốc lại ho, đờm dính máu. Trước đây không có điều kiện chữa trị bằng các loại thuốc đặc hiệu, Hồ nghĩ ra cách điều trị riêng của mình: Sinh hoạt theo kỷ luật khắt khe, tuyệt đối tuân thủ các chế độ đã đặt ra. Mỗi sáng sau khi thức dậy, ông thường xuyên tập thể dục. Trong phòng luôn có quả tạ, dụng cụ luyện tập làm nở lồng ngực. ("Hồ Chí Minh ở Trung Quốc"- Tưởng Vĩnh Kính, trang 182).
20 - Cuối năm 1944, thiếu úy Shaw đề nghị Hồ Chí Minh cùng đến Côn Minh. Hồ Chí Minh và hai đồng chí thanh niên đi trước, trên đường qua Di Lương bị cảm mạo do nhiễm lạnh phải nghỉ lại vài ngày. Sau khi Hồ Chí Minh phục hồi sức khỏe, mọi người lại tiếp tục lên đường. ("Truyện Hồ Chí Minh"- William J. Duiker, trang 287).
21 - Cuối tháng ba năm 1945, sau chuyến công tác tại địa khu Đông Khê, chúng tôi chuyển đến Xuân Sơn tổ chức mấy cuộc phát động quần chúng, chính là lúc gặp Hồ Chủ Tịch từ Bắc Pha đi xuống. Tôi đi cùng Chủ Tịch một đoạn. Trên đường Hồ Chí Minh lại lên cơn sốt rét (hoặc nhiễm ngược tật, chợt nóng chợt lạnh. Khi nóng, nhiệt độ tăng cao, toàn thân hầm hập. Khi lạnh, hàm răng run cầm cập, gọi là sốt rét). Đồng chí Phạm Việt Tử phải dùng bơm tiêm ký ninh vào tĩnh mạch, nói rằng, loại thuốc này có hiệu quả cắt cơn ngay tức khắc. Năm 1946, tôi công tác ở địa khu Tứ Liên bị một trận sốt rét. Y tá cũng dùng ký ninh tiêm tĩnh mạch. Mũi kim vừa rút khỏi tay, tôi liền ngất đi, may có các đồng chí xung quanh xúm vào cứu chữa, hồi lâu mới tỉnh lại. Sau đó hỏi bác sĩ tôi mới biết, tiêm ký ninh vào tĩnh mạch vô cùng nguy hiểm. Trước đó, Phạm Việt Tử tiêm tĩnh mạch Hồ Chí Minh mà không xảy ra sự cố, quả là đại hạnh cho toàn dân Việt Nam . ("Hạt thóc trên biển cả"- Hoàng Văn Hoan, trang 180- 181, NXB Giải phóng quân, Trung Quốc, 1987).
22 - Tháng bảy năm 1945, Võ Nguyên Giáp kể: "Trên đường từ Tĩnh Khê (Trung Quốc) về Việt Nam, bệnh cũ Hồ Chí Minh tái phát, nhiều ngày liền sốt cao, hôn mê bất tỉnh. Chúng tôi tìm được một thày lang người dân tộc Đại biết cách điều chế môn thuốc hạ nhiệt cho Bác uống mỗi ngày hai ba lần, cuối cùng bệnh cũng thuyên giảm, sau đó mới tiếp tục công việc". Thế nhưng về phía Hoa Kỳ, những ghi chép sự kiện này lại không đúng như vậy. Một y sĩ thuộc Trung tâm chiến lược Hoa Kỳ (nhóm nhảy dù) chẩn đoán, Hồ Chí Minh ngoài bệnh sốt rết còn mắc thêm chứng kiết lỵ. ("Truyện Hồ Chí Minh"- William J. Duiker, trang 301- 302).
23 - Vào năm 1950, sau khi Trung cộng chiếm được Trung Quốc, báo chí Đại lục phần lớn đều đưa tin Hồ Chí Minh đến Trung Quốc chữa bệnh, tuyệt nhiên không nói đến việc điều trị chứng lao phổi.
Tổng hợp các tư liệu về bệnh tình Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc):
Năm 1933, hồ sơ ghi chếp về bệnh sử Hồ Chí Minh đều liên quan mật thiết đến chứng lao phổi, hoàn toàn phù hợp với căn bệnh lao phổi của Nguyễn Ái Quốc năm 1932. Vậy mà sau năm 1933, hầu như không nói đến bệnh này trong hồ sơ bệnh án Hồ Chí Minh. Cuối cùng, vào tháng 9 năm 1969, khi ông qua đời, căn bệnh được công bố chính thức lại là bệnh tim. Trong khi ấy, nhiều hồ sơ ghi chép về Hồ Chí Minh vào năm 1933, khi mới đến Mạc Tư Khoa, đều khẳng định sức khỏe của ông rất tệ hại bởi bệnh lao phổi, thỉnh thoảng lại ho ra máu. Điều này, đã được giáo sư Nguyễn Khánh Toàn kể lại trong hồi ký. Vậy mục đích của họ là gì? Câu trả lời là: để tạo điều kiện thuận lợi cho Hồ Chí Minh tiếp tục sự nghiệp cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc, cố ý giấu đi cái chết vì bệnh phổi của Nguyễn Ái Quốc, dùng thân phận Hồ Chí Minh thay thế, tạo ra sự lẫn lộn trong bệnh sử của hai người.
Màn hai
Tiết mục Nguyễn Ái Quốc "chết rồi sống lại"
Căn cứ vào hồi ký của tình báo viên Anh Quốc Paul Draken, khi ông này tham gia vào vụ giải cứu Nguyễn Ái Quốc chạy thoát khỏi Hương cảng thì: "Vào đầu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Hương Cảng bằng thủy phi cơ đến bến sông Hoàng Phố, Thượng Hải". Trong khi đó, các tác giả viết truyện ký về Hồ Chí Minh lại dẫn dựng những tư liệu sau này về Hồ Chí Minh: "Đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng bằng thuyền đến Hạ Môn". Hai tư liệu đương nhiên là không thống nhất, bởi thời gian này còn dính dáng đến mùa thu năm 1932 báo chí đưa tin Nguyễn ái Quốc bị bệnh chết. Vì thế, xác định được, thực chất Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng vào thời gian nào là vấn đề vô cùng quan trọng.
Điều cần nói là, việc Nguyễn Ái Quốc chết có phải là sự thật? Và Hồ Chí Minh có phải đã chơi trò ú tim chết rồi sống lại? Vì thế, nhất định phải tìm được chứng cứ gốc, cẩn trọng so sánh, đối chứng các tài liệu thật giả mới có thể xác định được sự kiện Nguyễn Ái Quốc bị bắt, bị thẩm vấn, bị mất tích, và, cuối cùng là tử vong để trả lại công bằng cho lịch sử.
Vụ án Nguyễn Ái Quốc bị bắt tại Hương Cảng
Vào lúc 2 giờ sáng ngày 6 tháng sáu năm 1931, tại số nhà 186 phố Tam Long, Hương Cảng, cảnh sát Hương Cảng bắt Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc bị bắt liên quan đến vụ Hilaire Noulens chấn động Trung Quốc một thời. (Hilaire Noulens tên thật là Jakov Rudink, sinh năm 1894 tại Ukraine, liên lạc viên của Quốc tế cộng sản tại Cục Viễn Đông). Bắt đầu là cảnh sát Anh Quốc cùng với mật thám Pháp phối hợp, vào tháng sáu năm 1931, bắt được Joseph Ducroix. vốn là đảng viên Cộng sản Pháp đang giữ chức Bí thư Công hội Quốc tế cộng sản. Joseph Ducroix tên thật là Serge Lefrance, khai ra những bí mật của Cục Viễn Đông đã cử Hilaire Noulens và Nguyễn Ái Quốc chia nhau đến Thượng Hải và Hương Cảng, vì thế cảnh sát Anh đón lõng bắt được. Lúc ấy Serge Lefrance đăng ký địa chỉ tại số nhà 186, phố Tam Long, Hương Cảng.
Vụ án "Tòa Hương Cảng thẩm vấn Nguyễn Ái Quốc"
Sau khi Nguyễn Ái Quốc bị bắt, chính quyền Pháp yêu cầu nhà cầm quyền Hương Cảng dẫn độ về Hà Nội. Lúc này Quốc tế cộng sản thông qua "Hội cứu tế đỏ" đề nghị có biện pháp cứu giúp bằng cách mời luật sư nổi tiếng người Anh là Frank Loseby biện hộ cho Tống Văn Sơ. (Tống Văn Sơ là bí danh của Nguyễn Ái Quốc ở Hương Cảng). Tòa án Hương Cảng đã có chín phiên xử công khai thẩm vấn Nguyễn Ái Quốc, tạo thành một sự kiện quốc tế, khiến cả thế giới phải quan tâm.*
Phiên thứ nhất mở ngày 1 tháng tám, chánh tòa Hương Cảng phán quyết tội danh Tống Văn Sơ như sau: "Tống Văn Sơ tức Nguyễn Ái Quốc, là tay sai của Nga Xô, phái viên Đệ tam quốc tế, đến Hương Cảng hoạt động phá hoại, vì thế, đợi đến ngày 18 tháng 8 sẽ trục xuất khỏi Hương Cảng, áp giải về Việt Nam trên chiếc tàu Algiers của Pháp". Vừa nghe chánh tòa tuyên án, trợ lý của luật sư Loseby là luật sư J.C đã kịch liệt lên án việc bắt người trái phép và giam trong ngục 14 ngày mà không trả tự do cho thân chủ của ông ta. Sau một hồi tranh biện, pháp quan rung chuông tuyên bố Tòa tạm nghỉ.
Phiên thứ hai mở ngày 15 tháng tám, tranh luận và thẩm vấn 7 điểm qua các chứng cứ có tính hợp pháp của đương sự. Cuối phiên, Tòa phải thừa nhận sai lầm và rung chuông tạm nghỉ.
Phiên thứ ba mở ngày 17 tháng tám. Thẩm phán trưởng tuyên bố, nếu như tòa án không có khả năng giải quyết những vấn đề đã nêu ra..., nếu không chấp nhận đưa lên tàu Algiers về Việt Nam thì sẽ đưa lên tàu "梅當埃將軍" (Mai Đương Ai Tướng Quân), để đến ngày 1 tháng chín rời khỏi Hương Cảng.
Phiên xử thứ tư vào chiều ngày 17 tháng tám. Bắtt đầu phiên tòa, thẩm phán trưởng nói: "Lệnh trục xuất Tống Văn Sơ đã được ký, đề nghị không tiếp tục xử nữa". Luật sư J.C trong lòng mừng thầm, đồng ý với thẩm phán trưởng và đề nghị, phiên xử cuối cùng vào thứ năm ngày 20 tháng tám. Như vậy, nhà đương cục Hương Cảng không thể thực hiện lời hứa với chính quyền Pháp là trục xuất Tống Văn Sơ vào ngày 18 tháng tám.
Buổi sáng và buổi chiều ngày 20 tháng tám là ngày xử phiên thứ năm và thứ sáu. Không khí phiên tòa rất căng thẳng. Luật sư J.C đã đề nghị ngày 12 tháng tám sẽ có lệnh trục xuất của Thẩm phán trưởng tại Tòa, vì sao mãi đến ngày 15 tháng tám, trong phiên xử thứ hai mới có? Ông yêu cầu chuyển ý kiến của ông đến Toàn quyền và Ủy viên hành chính Hương Cảng đối chất. Đến đây chánh án tuyên bố Tòa tạm nghỉ, mời luật sư J.C bàn bạc. Phiên xử tiếp tục, pháp đình đề xuất lý do 2 điểm trục xuất Tống Văn Sơ như sau:
1- Tống Văn Sơ tức Lý Thụy, cũng là Nguyễn Ái Quốc, là phần tử Cộng sản, đặc phái viên của Đệ tam quốc tế, đã tuyên truyền những điều có hại đối với an ninh Hương Cảng.
2 - Quê quán của Nguyễn Ái Quốc tại Đông Dương (An Nam), từ năm 1929 đã bị tuyên án tử hình vắng mặt, chính quyền Đông Dương yêu cầu chính quyền Hương Cảng dẫn độ về Đông Dương quy án.
Ngày 25 tháng tám, phiên tòa thứ bảy khai mạc, luật sư J.C có bài có bài thuyết trình về vấn đề chính trị phạm. Tống Văn Sơ vì nền độc lập dân tộc, tham gia vận động cách mạng, vì vậy không thuộc diện trục xuất mà pháp luật Hương Cảng đề cập tới. Luật sư chỉ trích Thẩm phán trưởng, Công tố viên, Pháp quan, Toàn quyền và Toàn quyền ủy viên hội đều chấp pháp sai lầm trong vụ án Tống Văn Sơ. Tuy nhiên nhưng lời biện hộ đó chưa làm cho nhà đương cục Hương Cảng thay đổi thái độ.
Phiên thứ tám mở vào ngày 2 tháng chín năm 1931. Tại phiên xử này Chánh tòa Hương Cảng buộc phải thừa nhận:
- Bắt giữ Tống Văn Sơ là một sai lầm.
- Giam giữ Tống Văn Sơ trong ngục cũng là một sai lầm.
- Hỏi cung không phù hợp với trình tự tố tụng.
- Nhà đương cục Hương Cảng ngụy tạo lời khai của đương sự.
Tuy vậy, tại phiên xử thứ chín ngày 19 tháng chín năm 1931, Tòa án vẫn cưỡng ép phán quyết trục xuất Tống Văn Sơ về Đông Dương. Luật sư J.C cực lực phản đối. Ông tuyên bố sẽ gửi kháng nghị lên Viện Khu mật hoàng gia London , Anh Quốc.
Chú thích:
* Sự việc có liên quan đến tòa án Hương Cảng thẩm tra, có thể xem Dennis Ducanson "Hồ Chí Minh ở Hương Cảng, 1931- 1932", Nguyễn Việt Hồng 1996 "Sự kiện 1931 ở Hương Cảng", Dennis J. Duncanson "Trung Quốc quý san", (tháng 1 đến 3 năm 1974), là tài liệu viết tay Nguyễn Việt Hồng dẫn dụng từ hồ sơ đã giải mật của Anh Quốc ("Hoàng gia đáng án quán", năm 1931 Z225C, HEIII,VOLIII/40 - 1240 hiệu quyển tông đích tư liệu).
Viện Khu mật Hoàng gia London xét xử - Chống án
Luật sư Loseby đã dự đoán, tTòa án Hương Cảng sẽ phán quyết trục xuất Nguyễn Ái Quốc về Việt Nam, lập tức viết đơn kháng cáo lên Viện Khu mật Hoàng gia Anh Quốc. Tòa Hương Cảng nhận đơn kháng án để chuyển về London với ba điều kiện như sau:
1- Trong vòng 14 ngày đương sự phải đệ trình đơn kháng cáo.
2 -Trong vòng 90 ngày phải chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án về Viện Khu mật.
3 - Nộp 500 dollars lệ phí.
Cả ba điều kiện này luật sư Loseby đều chấp nhận.
Do đơn kháng án phải qua thời gian mấy tháng thẩm định mà Nguyễn Ái Quốc lại bị lao phổi trầm trọng, thân thể suy nhược nên ông được chuyển từ nhà tù Victoria đến bệnh xá trại giam Bảo Vân Đạo điều trị.
Người biện hộ cho Nguyễn Ái Quốc là luật sư D. N. Pritt, biện hộ cho nhà đương cục Hương Cảng là luật sư S. Cripps. Hai vị này đều là bạn của luật sư Frank Loseby. Luật sư P. N. Pritt là con trai nghị viên cánh tả, huân tước Palme. Luật sư Pritt đã thu thập đầy đủ thông tin vụ án từ luật sư Loseby. Sau khi thống nhất kế hoạch trong nhóm, ông mời luật sư Cripps đề xuất kế hoạch Tống Văn Sơ sẽ thắng trong phiên xử, hy vọng luật sư Cripps, vì tình bạn bè và lương tâm nghề nghiệp, đứng ra bảo vệ công lý, bảo vệ chính nghĩa. Hai ông đã thống nhất phương án giải quyết, tìm mọi cách buộc chính quyền Hương Cảng trả tự do cho Tống Văn Sơ mà không mất thể diện.
Đầu năm 1932, Khu mật viện Hoàng gia Anh Quốc mở phiên tòa. Luật sư D. N. Pritt và luật sư S. Cipps trình bày tóm tắt nội dung vụ án và phát biểu ý kiến cá nhân sau đó đề xuất biện pháp giải quyết:
1 -Trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc.
2 - Nguyễn Ái Quốc chỉ cần rời khỏi Hương Cảng, sau đó có thể đi đến bất cứ nơi nào mình muốn.
3 - Lúc ra đi và sử dụng phương tiện giao thông nào đều do tự mình quyết định.
Khu mật viện Hoàng gia Anh Quốc đồng ý với kiến nghị trên, đồng thời yêu cầu chính quyền Hương Cảng thông báo quyết định này. Cuối cùng, ngày 27 tháng sáu năm 1932, luật sư hai bên đã có được kết quả chung, đề nghị Viện Khu mật kết thúc vụ án. Nhà cầm quyền Hương Cảng chấp hành án quyết, trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc và cấp cho ông 400 dollars làm lộ phí.**
Chú thích
** London ("Hoàng gia Viện Khu mật - Thẩm thượng tố" án, xem thêm Denis Duncanson "Hồ Chí Minh ở Hương Cảng năm 1931 đến năm 1932", Nguyễn Việt Hồng,1936 "Sự kiện Hương Cảng năm 1931" và "Truyện Hồ Chí Minh" của William J, Duiker, trang 205-207, nội dung dẫn từ bức thư của Burton ngày 6 tháng tháng 10 năm 1932 gửi Bushe; bức thư của Cowell ngày 30 tháng 12 năm 1931 và của Howard Smith ngày 15 tháng 10 năm 1931 gửi chính phủ thực dân Shuck Burgh đều còn lưu giữ tại chính quyền Hương Cảng. Sophie Quinn Judge trong "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", trang 193 viết, nội dung dẫn từ bức điện báo từ Hà Nội gửi đến Sài Gòn ngày 24 tháng 8 năm 1931 và ngày 31 tháng 12 năm 1931 do Cowell gửi (PRO CO 129/535/3 trang 27.
Vụ án Nguyễn Ái Quốc đến Singapore bị buộc phải quay lại Hương Cảng
Đầu năm 1932, Khu mật viện Hoàng gia Anh Quốc mở phiên tòa với phán quyết trả lại tự do cho Nguyễn Ái Quốc. Do sự sắp xếp của luật sư Loseby, ngày 6 tháng giêng năm 1932, Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng đến Singapore . Tuy nhiên cảnh sátSingapore không cho nhập cảnh mà bắt ông phải quay lại. Cảnh sát Hương Cảng buộc phải tiếp nhận Nguyễn Ái Quốc và hứa sẽ đăng ký hộ khẩu. Ngày 19 tháng giêng năm 1932, cảnh sát Hương Cảng lại bắt Nguyễn Ái Quốc. Nhà đương cục Hương Cảng chẳng cần để ý đến bản chất sự việc mà tuyên bố Nguyễn Ái Quốc xuất cảnh trái phép, đến ngày 22 tháng giêng lại phóng xuất ông với mệnh lệnh, nội trong 3 ngày phải rời khỏi Hương Cảng. Từ đấy Nguyễn Ái Quốc mất tích.
Tường thuật sự kiện "Nguyễn Ái Quốc đến Singapore nhưng lại buộc phải trở về Hương Cảng", các chuyên gia nghiên cứu đều có quan điểm thống nhất về nội dung nhưng lại không nhất trí được với nhau vê thời gian. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là bởi đầu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc tự nhiên mất tích mà không có bất cứ tờ báo nào đưa tin. Sau này người ta chỉ được nghe một câu chuyện có tính chất ngụy tạo về Hồ Chí Minh, là đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng đến Hạ Môn, nảy sinh một khoảng thời gian gián đoạn. Liên kết thời gian "rời Hương Cảng" với "đến Hạ Môn" cùng sự thật trước và sau đã xảy ra, các chuyên gia, học giả rất dễ mắc sai lầm khi đem thời gian "rời Hương Cảng" từ đầu năm 1932 kéo dài tới đầu năm 1933 tạo ra sự sai lệch vừa tròn 1 năm.
Giáo sư Tưởng Vĩnh Kính trong "Hồ Chí Minh ở Trung Quốc", trang 74, cũng giống như Paul Draken trong "Nguyễn Ái Quốc" cùng nói về thời gian Nguyễn Ái Quốc đến Singapore vào đầu năm 1932. Cựu Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Lý Gia Trung, trong "Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh ", trang 217 viết khá tối nghĩa: "Thời gian đến Singapore không thấy có ghi chép, chỉ nói thời gian đầu năm 1933 rất vội vàng đến Hạ Môn". Thời gian mà William J. Duiker cũng như Sophie Quinn Judge ghi chép đều vào ngày 6 tháng giêng năm 1933 Nguyễn Ái Quốc đến Singapore . Như vậy, những ghi chép của các nhà nghiên cứu chia thành hai phe rất không trùng khớp với nhau là "đầu năm 1932" và "đầu năm 1933". Về lý mà nói, các học giả hữu quan đều thống nhất nhận định đầu năm 1932, theo phán quyết của Viện Khu mật Hoàng gia Anh Quốc, là đồng ý với đề nghị của luật sư hai bên, trả lại tự do cho Nguyễn Ái Quốc, trong thời hạn 21 ngày phải rời khỏi Hương Cảng, vậy thì làm sao có thể trì hoãn đến đầu năm 1933? Hơn thế, từ Hương Cảng đến Hạ Môn, đường đi cũng chỉ mất một đến hai ngày, chẳng có lý do gì hành trình kéo dài những 1 năm. Lại nữa, trong những hồ sơ liên quan đến Nguyên Ái Quốc, không tìm thấy bất cứ tài liệu nào ghi chép về chuyến đi dài ngày này. Vì thế, nói rằng "có chuyến đi Singapore vào đầu năm 1933" thật sự là vô lý.
William J. Duiker và Sophie Quinn Judge đề dẫn tư liệu từ "Hồ sơ Quân đội viễn chinh Pháp Quốc thuộc bộ phận hải ngoại", số hiệu 369 và của Dennis J. Duncanson trong "Hồ Chí Minh ở Hương Cảng, năm 1931- 1932", vậy làm sao có khả năng mãi đến đầu năm 1933 mới đi Singapore? Rất khó giải thích. Và, nếu quả là vào đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc mới đi Singapore thì rõ ràng mâu thuẫn với phần tiếp sau (thời gian Nguyễn Ái Quốc từ Hạ Môn đến Thượng Hải).
William J.Duiker và Sophie Quinn Judge đều là những học giả chuyên nghiệp, làm việc nghiêm cẩn, thực tế không thể mắc sai lầm trong việc xác định thời gian. Sở dĩ có tình trạng này là bởi các vị vẫn cho rằng Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc chỉ là một người, mà không biết rằng, còn có một nhân vật khác ngoài Nguyễn Ái Quốc tham gia vào vở kịch này. Đó là lý do để người ta đem thời gian từ ngày 6 tháng giêng năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đi Singapore, kéo dài đến ngày 6 tháng giêng năm 1933, Nguyễn ÁI Quốc đi Hạ Môn liên kết thành một chỉnh thể, để tạo ra sự ngộ nhận lịch sử.
Sự kiện "Nguyễn Ái Quốc đi Singapore bị buộc trở lại Hương Cảng", cần xem thêm "Hồ Chí Minh ở Hương Cảng, năm 1931- 1932" của Dennis J. Duncanson và "Sự kiện Hương Cảng năm 1931" của Nguyễn Việt Hồng. Giáo sư Tưởng Vĩnh Kính trong "Hồ Chí Minh ở Trung Quốc", trang 74, nội dung dẫn từ Bernard B. Fall, "Le Vietminh 31" ( Librarie Armand Colin, 1960 see Hoang Van Chi, P.50).
William J. Duiker trong "Truyện Hồ Chí Minh", trang 208- 209, nội dung dẫn từ Dennis J. Duncanson "Hồ Chí Minh ở Hương Cảng năm 1931- 1932", trang 99.
"Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"- Sophie Quinn Judge, trang 193, nội dung dẫn từ "Hồ sơ Quân đội viễn chinh Pháp Quốc thuộc bộ phận hải ngoại", số hòm 369".
"Nhật ký Paul Draken, ghi chép về Nguyễn Ái Quốc" của Paul Draken.
Sự kiện Nguyễn Ái Quốc mất tích ở Hương Cảng
Đầu năm 1932 Nguyễn Ái Quốc đi Singapore, như vậy, thời gian từ Singapore trở lại Hương Cảng cũng trong tháng giêng năm 1932, không thể nào kéo mãi sang năm 1933. Hơn thế, trong năm 1933 không có bất cứ tờ báo nào đưa tin Nguyễn Ái Quốc mất tích. Chuyện Nguyễn Ái Quốc trốn khỏi Hương Cảng đến Hạ Môn đều là lời kể 16 năm sau của Hồ Chí Minh, bút danh Trần Dân Tiên trong cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch". Nói cách khác, sau khi Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Hương Cảng vào đầu năm 1932, không một ai biết ông đi đâu, hành tung thật sự bí hiểm, vì thế mới thành sự kiện "mất tích ở Hương Cảng". Mười sáu năm sau Hồ Chí Minh nói ngược lại: "Sau khi trốn khỏi Hương Cảng, tôi đi Hạ Môn", việc này đích thị là trò bịp bợm.
1 - William J. Duiker trong "Truyện Hồ Chí Minh", trang 209 viết:
Sau khi Nguyễn Ái Quốc bị buộc quay trở lại, nhà cầm quyền Hương Cảng không thèm để ý đến bản chất sự việc, mà cho rằng ông ta xuất cảnh trái phép, chẳng quan tâm đến kháng nghị của cảnh sát địa phương, tuy nhiên, ngày 22 tháng giêng năm 1932, lại phóng thích ông, đồng thời ra lệnh trong vòng ba ngàyphải rời khỏi Hương Cảng.Vợ chồng luật sư Frank Loseby lần này lại sắp xếp cho Nguyễn Ái Quốc ở một nơi bí mật, sau đó tìm cách để ông rời khỏi Hương Cảng. Kế hoạch được đặt ra là, Nguyễn Ái Quốc sẽ ra đi bằng tàu thủy đến Hạ Môn vào ngày 25 tháng giêng trong vai một nhân viên phiên dịch. Để tránh con mắt lực lượng bảo an Pháp, Nguyễn Ái Quốc đợi trời tối, được cảnh sát mặc thường phục hộ tống xuống thuyền, rồi lại dùng xuồng máy của chính phủ Hương Cảng đưa ra ngoài eo biển Lý Ngư là nơi tàu đậu đón khách.
2 - Sophie Quinn Judge trong "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941"-, trang 195 viết:
Nguyễn Ái Quốc buộc phải trở về Hương Cảng, sau đó bị bắt lại vào ngày 19 tháng giêng. Toàn quyền Hương Cảng William Peel ra quyết định (không cần biết lý do) bắt giam Nguyễn Ái Quốc (là di dân trái phép) tống giam thời hạn 1 năm theo quy định của luật pháp hiện hành, đồng thời cự tuyệt yêu cầu của lãnh sự Pháp Teyssières. Sau đó Hồ Chí Minh rời khỏi Hương Cảng. Lần này Frank Loseby thuyết phục đươc nhà cầm quyền Hương Cảng để ông tự chon nơi đến. Toàn quyền Peel giải thích bằng công văn, cuối ngày 22 tháng giêng sẽ sắp xếp cho Hồ Chí Minh lên một chiếc thuyền (không phải của chính phủ Hương Cảng) chở đến chiếc tàu "An Huy Châu Tế" đậu ngoài bến Hương Cảng.
3 - Lý Gia Trung, cựu Đại sứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam, trong " Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh ", trang 218 viết:
Sau khi Nguyễn Ái Quốc buộc phải trở lại Hương Cảng, bị giam trong ngục, có nhờ một cai ngục chuyền mảnh giấy thông báo tình hình đến luật sư Frank Loseby. Loseby lập tức đến gặp Toàn quyền William Peel. Ông này đồng ý lập tức trả lại tự do cho Nguyễn Ái Quốc và giao phạm nhân cho Loseby xử lý. Lúc này Nguyễn Ái Quốc được bố trí ở tạm trong gian phòng bí mật một nhà thờ Thiên chúa giáo. Phu nhân luật sư làm nhiệm vụ người đưa cơm hàng ngày. Theo lời dặn của Loseby, thư ký của ông là Long tiên sinh đem đến cho Nguyễn Ái Quốc một chiếc áo lông, một áo khoác ngoài rộng tay, một chiếc quần dài sang trọng và một túi xách trong để tờ giấy đã viết sẵn mấy chữ. Vào lúc hoàng hôn, một người trong trang phục giáo sư, thản nhiên bước ra khỏi ký túc xá, qua cửa lớn rồi lên một chiếc kiệu. Bên cạnh kiệu là một người châu Âu mang kính trắng, tay cầm cây bút. Người đàn ông châu Âu đó chính là luật sư Frank Loseby, còn vị giáo sư chính là Nguyễn Ái Quốc. Luật sư mời Nguyễn Ái Quốc lên xe sau khi liếc mắt nhìn trước nhìn sau không thấy có dấu hiệu mật thám, liền quay xe về phía nhà mình. Vợ chồng Loseby cùng Phó Toàn quyền bàn bạc. Ông ta đồng ý gặp Toàn quyền William Peel đề nghị giúp đỡ và được Toàn quyền chấp thuận.
4 - Paul Draken trong "Nhật ký Long Bảo La" viết về Nguyễn Ái Quốc như sau:
Tôi và Nguyễn Ái Quốc gặp nhau trong căn hầm của Tổng bộ cảnh sát. Ông ta là một người trung niên thân hình ốm yếu, mắc bệnh phổi, xem ra tình hình sức khỏe không tốt. Nguyễn Ái Quốc biết tiếng Hoa và tiếng Pháp nên chúng tôi có thể nói chuyện được với nhau: "Tôi là Paul Draken, đại diện Bộ Ngoại giao Anh Quốc, được cử đến đây giúp đỡ tiên sinh xuất cảnh, xin hỏi, ngài định đến nơi nào?". Nguyễn Ái Quốc uể oải trả lời trong khi vẫn không dứt cơn ho: "Tôi muốn đến Liên Xô".
"Liên Xô? Vậy tốt nhất là nên qua lối Thượng Hải, như vậy tôi sẽ có hân hạnh được tháp tùng ngài, đến Thượng Hải sẽ tùy ngài quyết định đi đâu". Tuy nhiên luật sư Loseby tỏ ra lo lắng: "Tôi chỉ sợ mật thám Pháp đã ngầm cử sát thủ đến Hương Cảng, vậy phải làm thế nào để đảm bảo cho Nguyễn tiên sinh an toàn xuất cảnh?". Lúc này, cả hai chúng tôi đều ngẩng lên nhìn Cảnh sát trưởng. Cảnh sát trưởng cáo già khôn khéo xua tay thoái thác: "Tôi đã biết ý các ngài. Chúng tôi có thể bố trí tóm được đám sát thủ Pháp, nhưng việc này phải tuyệt đối giữ bí mật, nếu để lộ ra, chính phủ Anh Quốc sẽ khó ăn nói với người Pháp". Ngẫm nghĩ một lúc, ông ta nói tiếp: "Chỉ cần các ngài đề xuất biện pháp xuất cảnh an toàn, tôi sẽ rất vui được "thuận nước giong thuyền", có điều phải nói trước, vạn nhất, sự việc bị vỡ lở, tôi sẽ không thừa nhận, đến lúc đó sẽ đắc tội với chính quyền địa phương, mong nhị vị thông cảm".
Ra khỏi Tổng bộ cảnh sát, Loseby lớn tiếng chửi Cảnh sát trưởng là một gã xảo trá. Bất chợt, tôi nảy ra một kế. Loseby vốn rất quen thân với Toàn quyền Hương Cảng, nếu được ông ta đứng ra giải quyết vụ này, có thể xem đấy như một là bùa hộ mệnh, tránh được thất bại do Cảnh sát trưởng có ý đồ phản thùng. Tuy nhiên, cách làm hơi mạo hiểm là đóng giả làm khách của Toàn quyền William Peel ra thăm bến cảng, sau đó chuyển lên chiếc thủy phi cơ "Trân châu Trung Quốc" bay đi Thượng Hải. Nghĩ vậy, tôi bèn đem ý tưởng này bàn với Loseby. Luật sư cảm thấy có thể thành công liền phân công nhau chuẩn bị hành động.