Đầu năm 2016 này, tập đoàn bán lẻ Walmart của Mỹ công bố cho biết họ đóng cửa đến 154 điểm buôn bán trên toàn nước Mỹ. Nếu tính luôn từ năm 2010 đến này, đã có 269 cửa hàng Walmart đóng cửa trong tổng số 11.000 cửa hàng của tập đoàn này trên toàn thế giới. Con số nhìn vào thì không lớn, nhưng các chuyên gia kinh tế đánh giá đó là bước khởi đầu sự sa sút quan trọng của tập đoàn Walmart.
Việc đóng cửa hàng loạt của tập đoàn Walmart có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những lý do luôn được người dân Mỹ quan tâm, đó là làn sóng chỉ trích các hệ thống bán lẻ của Walmart đã tận dụng nguồn hàng giá rẻ làm từ Trung Quốc, gây thương tổn cho nền kinh tế nước nhà, cũng như gây thiệt hại cho quyền lợi của hàng trăm ngàn người lao động Mỹ.
Amy Traub, nhà phân tích chính sách kinh tế hàng đầu của Mỹ, đã từng tố cáo việc ích kỷ tạo lợi nhuận của các công ty thích nhập hàng rẻ từ Trung Quốc đang tàn phá ngành công nghiệp Mỹ. Riêng với Walmart, bà Amy từng nêu bảng phân tích 10 điểm vô cùng nguy hại. Trong đó, đáng lo ngại nhất là im lặng đẩy mạnh nạn thất nghiệp ở nước Mỹ, lên đến 400,000 người (số liệu 2015), đổi bằng con số 20.000 công nhân Trung Quốc bị bóc lột bằng giá lao động rẻ mạt. Không chỉ riêng Ưalmart, mà tất cả các công ty, hãng xưởng đang có khuynh hướng đặt mua hàng giá rẻ từ Trung Quốc đều phải đối diện với lời chỉ trích nặng nề rằng đã đã khiến một lớp công nhân Mỹ chỉ có thể sống bằng lương tối thiểu, đói nghèo, và các nhà máy nội địa phải đóng cửa.
Trong những ngày ở Mỹ vào năm ngoái, tôi chứng kiến những nhóm xã hội dân sự đấu tranh quyết liệt cho quyền lợi lao động và kinh tế của nước Mỹ. Các nhân viên của các hệ thống bán hàng này được lệnh đi tìm và gỡ bỏ các miếng dán trên các kệ hàng, do các nhà hoạt động xã hội chia nhau đi gắn vào, hoặc đứng trước cửa các cửa hàng đó, với nội dung rất mạnh mẽ “Hãy tẩy chay Walmart”, “Đây không phải là nơi có hàng được sản xuất từ nước Mỹ”, “Hàng Trung Quốc từ Walmart đang hủy diệt nước Mỹ”… Trong làn sóng ấy, các món hàng được sản xuất từ Mỹ, lúc này được in nhãn “made in USA” thật to và kiêu hãnh trên sản phẩm, được mọi người chọn mua như một cách chống lại sự xâm lăng hàng hóa từ Trung Quốc hoặc như mọt động thái ái quốc. Rõ ràng là ở một nơi có ý thức, ngay cả việc được hưởng thụ hàng hoá giá rẻ, người ta cũng phải giật mình và hỏi rằng “rồi công nhân mình sẽ sống ra sao?”.
Người của mình rồi sẽ sống ra sao? Đó là câu hỏi như đang bị lãng quên.
Những mùa hoa trái, nuôi giữ của Việt Nam hàng năm cứ luôn bị hụt hẩng do thương lái Trung Quốc hứa hẹn rồi biến mất trong một chuỗi kế hoạch độc ác. Nông dân ngồi khóc ròng trên vệ đường, người trồng trọt đổ bỏ và cho heo, bò ăn để đỡ xót của vẫn diễn ra hàng năm. Vẫn chưa thấy một quan chức nào đủ dũng khí đập bàn và quát lên rằng “rồi nông dân mình sẽ sống ra sao?”.
Sự lệ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc bởi lòng tham và dốt nát về nội lực quốc gia đang giết mòn đất nước. Cứ nhìn vào số nhập siêu của Việt Nam đối với hàng Trung Quốc mà kinh sợ: Phó giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại – tiến sĩ Lê Quốc Phương cho hay con số nhập siêu không ngừng tăng qua các năm, từ khoảng 200 triệu USD năm 2001 lên đến 28,9 tỉ USD vào năm 2014, tức tăng 144 lần. Năm 2015, con số còn cao hơn nữa.
Hiện tại ở Việt Nam, các công ty lớn, vỗ ngực tự xưng là thành đạt là “made in Việt” như Tôn Hoa Sen, Number One (Tân Hiệp Phát)… rồi mới đây là Trà Ô long Tea + Plus của Pepsi cũng đều lệ thuộc nặng nề vào nguồn hàng của Trung Quốc. Tiến sĩ Lê Quốc Phương cho biết trong 94 ngành nghề của Việt Nam, đã có tới 40 ngành chết dính với nguồn từ Trung Quốc. Đó là chưa nói đến độ kém chất lượng của thương phẩm, các sản phẩm độc hại của Trung Quốc đang bủa vây người Việt như một cuộc hủy diệt im lặng, cũng không thấy ai có đủ một trái tim Việt Nam thương giống nòi mà kêu gọi “rồi người Việt mình sẽ sống ra sao?”.
Nhưng bên cạnh đó, mọi người dân Việt Nam cũng cần phải tự hỏi: Hàng Trung Quốc dễ dàng nhập vậy, đem lại nhiều vấn nạn như vậy, mà nhiều năm, sao lắm cơ quan hải quan, kiểm tra tốn kém tiền thuế dân, vẫn “ra vẻ” bất lực. Hơn 300 tấn hoa quả độc hại của Trung Quốc mà từ năm 2014, Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản của Việt Nam gửi công văn sang Bắc Kinh, đòi Cục An toàn thực phẩm xuất nhập khẩu Trung Quốc trả lời vì sao cố ý nhập vào Việt Nam, đến 2016 vẫn không thấy hồi âm. Vì sao? Vì cơ quan đồng cấp của Bắc Kinh coi thường Việt Nam, hay vì có quá nhiều uẩn khúc ở cửa khẩu khiến mọi thứ phải im lặng? Loại im lặng mà tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hiếu của trường Đại học Việt Đức từng nói rằng loại hàng nhập khẩu từ Trung Quốc chỉ có giá 1 đồng, nhưng nhờ đút lót 3 đồng nên cái gì cũng trôi.
Cái gì cũng trôi, số phận con người, nội lực của một quốc gia cũng trôi đi.
Đã từng có các bài báo, các lời kêu gọi người Việt hãy mua hàng giúp nhau, cứu nhau và những lúc xốn xang, khốn khó. Giữa những lúc thương lái Trung Quốc cười gằn và biến mất, để lại một thị trường của những nong dân Việt nghèo và cả tin đầy những hoảng loạn. Nhưng người Việt tự mình khong thể gồng gánh nhau, níu nhau sống mà thiếu một chính sách quyết liệt với anh “bạn vàng”, mà vốn lâu nay các quan chức có trách nhiệm vẫn vẫn hô hoán với màu sắc sân khấu.
Tết Bính Thân này, hàng trung Quốc lại ngập các cửa khẩu Việt Nam. Những tiếng lo lắng lại bật lên ở nhiều nơi. Những trái dưa hấu, những quà bánh, những cành hoa đẫm mồ hôi người nông dân nghèo Việt Nam lại phải gồng gánh trận đấu không cân sức: hàng giá rẻ và sự tiếp tay của trục ác hám lợi, quên cả đất nước mình. Những mùa Tết mà nông dân buồn thiu chở đầy thuyền hoa Tết ế ẩm trở lại quê, những hàng trái cây bán thảo bán đổ để lấy chút tiền vốn… có thể sẽ tái hiện lại ở năm nay. Thật xót xa. Tôi bỗng lại nhớ những tấm băng-rôn mà những người lao động Mỹ căng trên các ngã đường vào Walmart: “Bring our America Back” (Hãy trả lại nước Mỹ của chúng tôi). Mùa xuân này, tôi cũng muốn giăng một biểu ngữ như vậy, “Hãy trả lại một Việt Nam!”, một Việt Nam của tôi!
Hố thẳm phía trước
Mới đây, tin tức báo chí Úc tường thuật về chuyến đi của chiếc tàu chiến 152 của Trung Quốc ghé cảng Brisbane, Úc, trong một chuyến hải hành ngoại giao quốc tế đã làm bùng lên nhiều tranh cãi. Ngay khi tàu cập cảng, người ta nhìn thấy hầu hết thuỷ thủ của tàu 152 vội vã đi mua gom loại sữa bột trẻ em hiệu Aptamil 3, một loại sữa Úc mà mọi người dân Trung Quốc tin dùng.
Liên tiếp trong nhiều năm, những vụ bê bối về sữa độc bị phát hiện ở đại lục đều khiến giới phụ huynh ai nấy đều hoảng kinh. Vì tham tiền, các nhà sản xuất sữa ở Trung Quốc đã trộn vào đó các hoá chất khiến sữa bột trở nên hấp dẫn hơn, bất chấp nguy hại.
Hình ảnh các nhóm hải quân oai hùng của Bắc Kinh khệ nệ ôm các thùng sữa mang xuống tàu, khiến lời bình của dân chúng rộ lên. Trung Quốc được coi là quốc gia có nền kinh tế hàng đầu thế giới, hàng hoá tràn ngập khắp nơi, thế nhưng chất lượng của nó là điều làm mọi người phân vân, hay nói đúng hơn là lo sợ. Từ khi nhiều nhãn hiệu sữa bị phát hiện là thứ gây độc hại cho trẻ em, sữa Aptamil 3 của Úc trở thành nhãn hàng cứu tinh cho các gia đình trung lưu ở Trung Quốc, mặc dù giá mắc đến gấp hai, ba lần. Dĩ nhiên, còn các gia đình có thu nhập thấp ở đại lục chỉ còn biết im lặng và tuyệt vọng.
Câu chuyện nói trên đang là đề tài bàn thảo, giúp cho nhiều người nhìn lại mô hình phát triển hào nhoáng của Bắc Kinh, vốn đã mê hoặc một lớp người bên ngoài nhìn vào, thích giàu có nhanh và thành đạt, bất chấp hậu quả. Quả là có cái gì đó đáng phải nghĩ về một nền kinh tế xuất hàng đi khắp thế giới với giả rẻ mạt nhưng đi mua gom hàng của nước khác về sử dụng, dù giá đắt hơn nhiều lần. Trung Quốc vĩ đại đang né tránh sử dụng hàng hoá của chính mình sản xuất, nhưng họ tống sang các quốc gia lân cận mình: những thứ gây chết người và đầu độc dân tộc láng giềng.
Ngay tại Trung Quốc lúc này, vấn nạn ngày càng lớn : tiền bạc làm ra như chỉ để nhằm thoát nạn, đi khỏi đất nước mình. Dân chúng mất niềm tin vào cuộc sống chung quanh, về tương lai – và dĩ nhiên là mất luôn niềm tin ở các nhà lãnh đạo. Các loại hàng hoá gọi là sạch và an toàn chỉ còn phục vụ cho số ít giới giới nhà giàu, bỏ lại đại đa số còn lại bấp bênh với số phận. Một sự phân hoá giai cấp tàn nhẫn hơn cả giai cấp tư bản, mà vốn các sách chính trị của Trung Quốc vẫn cao đạo lên án.
Làm ra thật nhiều tiền, nhưng không để an sinh, mà chỉ để tìm sự sống sót. Những đoàn người Trung Quốc đua nhau mua hàng bên ngoài về dự trữ, để sống. Trong The love of life của Jack London, người đàn ông thoát chết qua băng giá đã mắc bệnh giấu thức ăn dưới giường vì sợ sẽ bị chết đói, còn Trung Quốc hôm nay thì săn tìm và cất giữ lương thực để mong không trúng độc từ thực phẩm của quê hương mình. Năm ngoái, Tờ The Guardian có làm một cuộc thăm dò trên 20 thành phố lớn của Trung Quốc về vấn đề niềm tin vào thực phẩm nội địa, đã có 80% số cư dân trả lời rằng họ luôn lo sợ.
Là người cùng một nước, nhưng người dân ở Hồng Kông ngày càng mệt mỏi với việc mua gom của người Trung Quốc đại lục. Kelvin Chan, cây bút của AP tại Hồng Kông từng có bài bình luận, ghi nhận việc người dân ở hòn đảo này ngày càng bất bình trước làn sóng khách du lịch ở đại lục vác theo nhiều túi và vali, ồn ào chen lấn chỉ để mua gom hàng, gây náo loạn và mất cân bằng trong thị trường địa phương. Lý do là người Trung Quốc hôm nay chuộng mua bán mọi thứ từ bên ngoài để yên tâm về chất lượng. Một trong những nhà lãnh đạo, quản lý về thương vụ ở Hồng Kông, ông Leung Chun-ying nói ràng năm 2015 có đến 4.6 triệu du khách từ đại lục, mỗi tuần đến một lần để mua gom hàng như vậy.
Vậy thì những nguồn hàng độc hại, kém chất lượng và đầy bẫy rập đó của Trung Quốc, sẽ được đưa về đâu? Ở châu Á, Việt Nam và Lào là những nơi xe hàng Trung Quốc ngày đêm vượt biên giới để chuyển đến các tỉnh, bao gồm cả loại thịt heo, bò được đông lạnh cả nửa thế kỷ: mục rửa, thối và đầy hoá chất. Sau khi truyền thông Trung Quốc khám phá những kho lạnh cất giữ 800 tấn thịt được giữ lạnh từ thập niên 70, trị giá hơn 10 triệu Nhân dân tệ, giờ thì đường chuyển đi đến thị trường mới, chỉ còn nhằm vào Việt Nam. Báo giới phương Tây dự đoán Trung Quốc còn tàng trữ đến cả trăm ngàn tấn thịt như vậy, cất giữ từ thời Cách mạng văn hoá, tức thập niên 60, mà nơi dễ dàng lấy lại vốn tiện và nhanh, chỉ là Việt Nam.
Báo chí Việt Nam liên tục cảnh báo về tình trạng phát triển bệnh ung thư, tâm thần, các loại bệnh của trẻ em, rồi chuyện người ăn hàng quán vỉa hè… đang tự giết mình với các món ăn không rõ nguồn gốc, nhưng ít có lời tố cáo nào đủ mạnh rằng rất nhiều thứ ấy đều là do thực phẩm, hàng hoá của Trung Quốc đang cố ý huỷ diệt con người Việt Nam. Ngay khi đã biết vậy, bất kỳ ai cũng kinh hoàng về một viễn cảnh đen tối, khi có những quan chức lên tiếng bênh vực hàng hoá Trung Quốc, thậm chí khi phát hiện có độc chất. Có người còn ra mặt thông báo với dân chúng rằng cứ dùng ít thì không sao, không chết. Thật quả đáng khinh.
Trung Quốc hôm nay săn tìm các loại thức ăn sạch như một cách tự cứu. Nếu ai đó chú ý, thì rõ là nỗi sợ hãi cũng lan đến Việt Nam. Thị trường thực phẩm Việt Nam giờ đây cũng bùng phát với tiếng rao về thực phẩm sạch, với giá đắt đỏ. Và cũng như đại lục, giới trung lưu, giàu có Việt Nam đang không ngại bỏ tiền ra để tìm cách sống sót mỗi ngày. Người nghèo Việt Nam thì cũng im lặng và tuyệt vọng.
Vì sao Trung Quốc và Việt Nam đang giãy giụa với vấn đề thực phẩm sạch, trong khi Thái Lan, Campuchia, Malaysia, Singapore… vẫn kiểm soát được những điều đó? Có phải giới lãnh đạo của các quốc gia nói trên đủ mạnh để từ chối tiền tham nhũng và biết lo cho dân tộc mình, không biến tổ quốc mình thành một bãi rác của kẻ ác?
Bài học phát triển nhanh và học đòi làm giàu như Trung Quốc từng là kim chỉ nam của nhiều người Việt. Ở Trung Quốc giờ đây bộc lộ một tương lai của thị trường và xã hội vô đạo đức, không có tương lai và phân hoá giàu nghèo đến phẫn nộ. Con đường tận cùng của xã hội Trung Quốc đã rõ. Còn chúng ta, nhất là với các nhà lãnh đạo, khi nào thì sẽ nhận ra hố thẳm phía trước? Hố thẳm trên đường chạy song song của tình hữu nghị vô nhân tính.