Wednesday, 22 June 2016

Đứa con của biển và đứa con của chế độ - VietTuSaiGon


Trong vòng chưa đầy ba năm, có gần 4,500 tàu cá của ngư dân Việt Nam bị bắn phá, đâm chìm và bắt bớ trên biển Đông. Cũng trong vòng chưa đầy ba năm, có hơn 2000 ngư dân bị bắt bớ, đánh đập và bắn giết. Đây là một con số quá khủng khiếp cho một làng nghề! Và cái chết, sự mất mát của những người chịu nắng, chịu gió, chịu mọi khổ đau của chính trị nhược tiểu để bám biển, để thực thi chủ quyền lãnh hải chỉ có Mẹ Biển chứng kiến, ôm lấy thân thể họ cùng tiếng ai điếu của trùng khơi. Họ là những người con của biển cả, của danh dự trong âm thầm và anh hùng trong bóng tối. Họ là đứa con của biển Việt Nam.
Điều này khác xa với những anh hùng của chế độ, đương nhiên, cái chết và sự mất mát của những phi công đã tập dượt, tìm kiếm cứu nạn và cuối cùng mất tích trên biển Đông là một sự mất mát lớn của chế độ, cũng là sự mất mát của dân tộc. Bởi suy cho cùng, dân tộc, nhân dân đã cưu mang, che chở và nuôi sống chế độ. Từ chiếc áo cho đến chén cơm, chiếc máy bay, xăng để bay và mọi thứ trang bị cho người phi công đều do nhân dân mà có. Những phi công đã mất tích và tử nạn trên biển Đông cũng là những đứa con của nhân dân, con của biển cả!
Nhưng, sự khác nhau rất rõ rệt giữa những ngư dân và các phi công nằm ở chỗ, ngư dân vừa đóng vai trò nhân dân để nuôi chế độ, vừa đóng vai trò người lính giữ vững tiền tiêu và bảo vệ chủ quyền lãnh hải lại vừa đóng vai trò đứa con của biển khơi khi cái chết ghé đến, sự im lặng, không tên tuổi mang cái chết của họ đi như bọt sóng trong một ngày gió lớn. Cái chết đầy bi hùng của người vạn chài chìm trong im lặng và hình như quốc gia đã không hay biết để đưa tang cho họ.
Ngược lại, cái chết của những đứa con chế độ thì khác, cái chết của họ vô hình trung làm khuấy động bầu không khí vốn đóng băng suốt nhiều năm nay trong lòng chế độ. Sự đóng băng của tính tham lam, ích kỉ và vô cảm. Sự đóng băng của những đố kị, kèn cựa địa vị, thủ đoạn hất nhau tranh quyền lực đã được hâm nóng bởi một vở kịch mà ở đó, cả báo chí nhà nước lẫn giới quan chức cấp cao trong quân đội, không ai nói ai, tất cả tự biến mình thành một kịch sĩ của nước mắt và bi ai.
Cái chết của những đứa con chế độ được bi kịch hóa đến đỉnh điểm, ở đó, người ta khóc mếu máo… Từ tướng lĩnh cho đến trí thức nhà nước, quan chức và những người lính… Tất cả họ chìm trong một trận bi ai của một kịch bản soạn sẵn, những ai chứng kiến đều phải rơi nước mắt. Có thể nước mắt của nhiều binh sĩ, sĩ quan quân đội Cộng sản là nước mắt thật chảy ra từ đáy lòng. Bởi hơn ai hết, họ thấu hiểu nỗi đau của đồng nghiệp, đồng chí và họ cũng thấu hiểu nỗi khốn khó của một người lính phải sống, học tập và chiến đấu trong một thứ cơ chế mà ở đó hiện hữu tất cả sự gian trá và đau khổ dành cho họ. Thậm chí, có thể họ hiểu cả nguyên nhân của cái chết, một nguyên nhân không phải bởi sự sơ xuất của người lính hay viên đạn, hòn tên của kẻ thù mà chính ở sự mất nhuệ khí, sự bạc nhược của chế độ mà họ đang phục vụ.
Và, có một vấn đề then chốt để thấy rằng cái chết của những người con biển cả khác xa cái chết của những người con chế độ. Bởi cái chết của những người con biển cả âm thầm và lặng lẽ, thậm chí thiếu cả những tiếng kèn trống ai điếu. Nhưng bên trong cái chết không tên tuổi ấy là sức mạnh của của một dân tộc là niềm tin vào lẽ phải và sự quyết liệt của con dân Việt Nam trong ý chí bảo vệ biển đảo, bảo vệ lãnh hải.
Những cái chết không tên tuổi, không tiếng vang của các ngư dân đã để lại trong lòng biển Đông những con sóng, những làn sóng yêu nước và quyết tâm giữ lấy biển đảo quê hương. Không ai nói ai, tự trong lòng mỗi người nhận ra sự tàn khốc của kẻ thù và chuẩn bị cho mình một tư thế để chiến đấu với quân xâm lược. Những cái chết tưởng chừng nhỏ nhoi ấy lại thắp lên ngọn lửa yêu nước và niềm hy vọng chống quân bành trướng, xua kẻ thù ra khỏi lãnh địa, lãnh hải quốc gia mạnh hơn bao giờ hết.
Ngược lại, những cái chết của đứa con chế độ, tuy kèn trống rình rang, lời bi ai tràn ngập trên các mặt báo và có vẻ người ta còn có khuynh hướng biến những cái chết ấy thành một bản anh hùng ca của thời đại. Nhưng rất tiếc, những cái chết ấy lại gieo một nỗi tuyệt vọng cho dân tộc, cho nhân dân hơn bao giờ hết.
Bởi khác xa với những ngư dân bám biển tay không tất sắt, không viên đạn phải đối đầu với sóng gió, tàu sắt và súng đạn của Trung Quốc, những người con chế độ được trang bị đầy đủ, từ chiến đấu cơ hiện đại cho đến cơ số đạn dược và các loại công cụ hỗ trợ tối tân nhất. Bên cạnh đó, họ là những con người mà mỗi kĩ năng họ có được có thể đánh đổi bằng tài sản của một gia đình ngư dân. Họ là những người mà nhân dân tin rằng một khi họ xuất kích thì câu chuyện an ninh và chủ quyền quốc gia được đảm bảo bất khả xâm phạm.
Thế nhưng (xin lỗi anh Khải và các sĩ quan, binh sĩ trên CASA 212!), cái chết quá ư đơn giản và có chút gì đó chưa sạch nước cản trên đường bay của các anh đã làm sụp đổ hoàn toàn niềm hi vọng của nhân dân vào chủ quyền quốc gia. Cái chết của các anh chỉ cho thấy sự yếu ớt và mất khả năng đề kháng của quân đội Việt Nam.
Báo chí trong nước từng ca ngợi đội bay của không quân Việt Nam là biệt đội ưu tú nhất, sẵn sàng chiến đấu với mọi kẻ thù và là biệt đội thần thánh. Thế nhưng cái gọi là biệt đội thần thánh của các anh lại là mới bay tập dượt đã lâm nạn và những người đi tìm kiếm cứu nạn bằng phương tiện hiện đại như CASA 212 mà người lái là một con chim đầu đàn trong đội bay, có kinh nghiệm lão luyện , trong điều kiện thời tiết bình thường cũng không thoát khỏi tử thần, cùng tám đồng đội oan uổng.
Thử nghĩ, suốt nhiều năm nay, dù muốn hay không thì nhân dân vẫn kì vọng vào quân đội, bởi chức năng lớn nhất của quân đội là bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải quốc gia. Nhân dân đã góp từng đồng thuế để nuôi quân, góp từng đứa con để tạo nên quân đội. Thay vào đó, quân đội lại cho nhân dân nỗi tuyệt vọng khôn tả! Và lẽ ra, trong tình thế hiện tại, cái chết của những phi công tử nạn trên đường tập dượt cũng như tìm kiếm cứu nạn phải được biến thành lời thề máu của quân đội, thành quyết tâm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ những gì còn lại và lấy lại những gì đã mất của quốc gia, dân tộc. Thì đằng này, cái chết của các anh được biến thành vở kịch mếu máo, khóc sướt mướt và đánh động bi tâm, đánh động lòng thương xót của nhân dân.
Đúng, nhân dân sẽ thương xót những người đã ngã xuống. Nhưng chắc chắn một điều, nhân dân thương xót các anh một thì nhân dân thương xót cho vận mệnh đất nước đến mười. Nhân dân sẽ thương xót cho những người thân các anh bị mất con, mất chồng, mất cha. Nhưng nhân dân còn thương xót gấp triệu lần nữa vì dân tộc đã mất đi nhuệ khí, nhân dân đã mất đi chỗ dựa là sức mạnh quân đội và niềm tin chiến thắng quân ngoại xâm hoàn toàn mất đi.
Trong lúc này, ông Nguyễn Chí Vịnh, một chỉ huy cấp cao của quân đội Cộng sản Việt Nam đã im lặng, từ chối sự giúp đỡ của Mỹ để tìm kiếm cứu nạn những nạn nhân trên chiếc CASA 212, trong khi đó ông ta lại tiếp tục khẳng định mối quan hệ răng môi với Trung Quốc và kêu gọi Trung Quốc mang bốn tàu hải quân, hai tàu tuần cảnh và hai tàu cứu hộ, cứu nạn cùng hai máy bay tiến thẳng vào biển Việt Nam.
Và đáng sợ nhất là ông Vịnh đã bắn tiếng xin Trung Quốc hỗ trợ, cho phép tàu thuyền Việt Nam tìm kiếm, cứu hộ người Việt Nam ngay trên biển Việt Nam! Vô hình trung, cái chết của những người con chế độ làm lộ rõ gương mặt thật đớn hèn và bạc nhược của cả quân đội và chế độ Cộng sản.
Và đám tang của Đại tá Khải cũng song hành với đám tang của dân tộc Việt Nam đưa tiễn những tháng ngày bi hùng về nơi chín suối. Những gì còn sót lại chỉ là sự đớn hèn!
Biết đâu, trong buổi hội ngộ nơi suối vàng, linh hồn anh Khải lại gặp linh hồn của những ngư dân bám biển, và họ sẽ cùng ngồi với nhau để nhìn lại nước non ngàn dặm héo mòn!

Thấy gì qua hai vụ máy bay rơi

Chuyện đến lúc này mới nói có vẻ như hơi muộn. Nhưng đến thời điểm bây giờ mới có thể nhìn bao quát được trong chừng mực nào đó về vụ hai chiếc máy bay (SU-30 MK2 và CASA - 212) cùng với một người tử nạn và chín người mất tích. Có những câu hỏi đặt ra lúc này: Máy bay của quân đội Việt Nam bị bắn? Hệ thống kĩ thuật của hai chiếc máy bay này có vấn đề? Đâu là hướng điều tra?

Độc ở không gian và độc ở tâm hồn

Suốt chiều dài đất nước này, dường như không có chỗ nào là không có độc. Từ chất độc Dioxin để khai hoang trong cuộc chiến tranh cách đây ngót nghét nửa thế kỉ cho đến độc tố trong thực phẩm ngấm dần vào cơ thể, bào mòn từng tế bào trong thời kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và gần đây nhất là tứ bề độc trùng vây, độc tố trên biển, độc tố trong ao hồ… Có vẻ như đất nước này đang đối mặt với độc tố và nguy cơ diệt vong không phải là không có. Nhưng, đáng sợ nhất chính là độc tố trong tâm hồn con người.

Chứng vô cảm từ nền tảng chính trị


Gần đây, trên các trang mạng xã hội xuất hiện nhiều video clip mà nội dung của nó nhằm tìm hiểu có bao nhiêu người trên đường bị rơi vào chứng vô cảm. Bối cảnh trong các video clip này là đường phố Việt Nam. Và rất tiếc là hầu hết những con người xuất hiện trong video clip đều bị chứng vô cảm. Liệu có phải đã đến lúc nói rằng người Việt Nam đã trở nên vô cảm nặng nề? Và  đâu là nguyên nhân?

Nơi đây tôi chờ, nơi kia em chờ…

Xin mượn mấy ca từ này của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để diễn ta nỗi niềm của người Việt Nam bây giờ. Nếu như trước đây hơn nửa thế kỉ, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết những ca từ này để diễn ta nỗi trông chờ, hoài mong của dân tộc về một ngày bình yên không đạn bom, không máu chảy và nước mắt rơi… Thì sau đó hơn nửa thế kỉ, nỗi mong chờ về một ngày bình yên của người Việt Nam vẫn chưa hề nguôi, nếu không muốn nói rằng nỗi mong chờ ấy ngày càng trở nên tha thiết hơn, mãnh liệt hơn.

Thư gửi ông Trần Đại Quang – Chủ tịch nước

Thưa ông Trần Đại Quang!
Có lý do cụ thể mà tôi buộc phải gọi tên ông chứ không thể viết là “thưa chủ tịch” được. Bởi lẽ, cho đến này vẫn chưa có kết quả bầu cử chính thức để biết rằng ông, bà Kim Ngân và ông Phúc có phải là Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội hay là Thủ tướng.

Bàn về những lá phiếu vô hồn

Một ngày bầu cử trôi qua, và các phương tiện truyền thông nhà nước Việt Nam lại bắt đầu thống kê những tỉnh nào bầu cử sớm, việc ấy xem như là một thứ công tác thi đua trong đợt bầu cử này. Tất cả các tổ bầu cử trên cả nước đều chăm bẵm thi đua.
Nhạc cổ động bầu cử năm nay lại dùng nhạc cổ động bầu cử khóa 13 nên đi bất kì điểm bầu cử nào trên cả nước đều có cảm giác đang trong mùa bầu cử quốc hội khóa 13.

Tương lai là gì và tương lai về đâu?

Tương lai người Việt Nam là gì? Và tương lai đất nước Việt Nam sẽ về đâu? Đây là những câu hỏi quá lớn nhưng cũng quá nhỏ trong lúc này. Lớn bởi khi nói về một luận đề có tính mông lung từ chủ thể đến khách thể, từ khái niệm dân tộc Việt Nam cho đến ý niệm tương lai. Nhưng nó cũng quá nhỏ hẹp khi hỏi về tương lai của dân tộc Việt Nam khi mà cả dân tộc gồm hàng trăm triệu người này đang nằm trong vòng kiền tỏa của chết độ Cộng sản, đặc biệt là Cộng sản Trung Quốc.

Không nhìn thấy quê hương

ôi mùa chìm nổi
vận nước điêu linh
một lũ âm binh
cõng quạ qua phố…

đi trên quê hương mà không thấy quê hương
những gương mặt nổi trôi chiều bất lực
đèn đường vàng khô mắt xanh mỏ đỏ
bụi mịt đường cây cũ ngủ thiu thiu
những giấc mơ cá cơm ngày tẻ nhạt
giấc mơ xanh rụng đỏ ối trời chiều

giọng lơ lớ gáy xanh đồng tội lỗi
xương đã khô trong mộ hoang thủy tổ
nơi thăm thẳm trường sơn hú gọi
của những oan hồn tiền thân vong quốc

Khái niệm Yêu Nước đã bị đánh tráo và rẻ rúng

Từ những ngày tôi còn học tiểu học, những kiểu hô hào yêu nước hầu như đã thành món ăn bội thực của thế hệ chúng tôi – những cô cậu học trò sinh từ 1975 về sau. Hồi đó cứ mỗi dịp có bầu cử hoặc có chuyện gì liên quan đến đảng, nhà nước thì nhà trường bắt chúng tôi phải xếp thành hàng dài, cầm cờ đỏ búa liềm và đi dọc các con đường quê để “cổ động”, tỉ như lớp trưởng hô “Việt Nam Hồ Chí Minh muôn năm!” thì cả lớp đế theo “Muôn năm.. Muôn năm… Muôn năm!”. Hoặc ông hiệu trưởng cầm loa mini hô: “Nộp thuế xây dựng đất nước là yêu nước!