"A Clean, Well-Lighted Place" là một truyện ngắn của Ernest Hemingway, đăng lần đầu tiên trên Tạp chí Scribner năm 1933. Hemingway đã từng cho biết đây là truyện ngắn đắc ý nhất của ông. Nhiều nhà bình luận cũng xem đây là một lối hành văn đặc sắc đã xoá đi khoảng cách giữa văn chương và đời sống thực. "Hemingway has reduced the veil between literature and life - James Joyce".
Người dịch: Trần Trung Tín
Đã trễ quá rồi và ai cũng rời quán café ngoại trừ một ông già ngồi trong bóng tối nơi đám lá của một cây được làm ra để che ánh đèn điện. Ban ngày con đường thì bụi bặm, nhưng tới tối sương đêm làm bụi đường lắng xuống và ông già thích ngồi lại khuya bởi vì ông ta điếc và bây giờ tối đêm thì im lặng và ông cảm thấy sự khác biệt. Hai anh hầu bàn trong quán café biết là ông già này đã hơi say một chút rồi, và trong khi vẫn là một khách hàng tốt họ biết là nếu say quá, ông ta sẽ đi ra mà không trả tiền, vì vậy họ phải trông chừng ông.
"Tuần qua ông này tính tự tử," một anh hầu bàn nói.
"Tại sao vậy?"
"Ổng trong tuyệt vọng."
"Vì chuyện gì?"
"Không vì chuyện gì hết."
"Sao anh biết không vì chuyện gì hết?"
"Ổng có nhiều tiền."
Họ cùng ngồi ở cái bàn sát bên tường gần cửa ra vô quán café và nhìn ra sân lộ thiên bên ngoài thì bàn nào cũng trống trơn ngoại trừ chỗ ông già ngồi trong bóng tối của đám lá của một ngọn cây đang dật dờ trong gió. Có một cô con gái và một anh lính đi ngang qua trên đường. Đèn đường lấp lánh lên con số trên cổ áo của anh ta. Cô con gái không đội khăn che đầu và vội vã bên cạnh anh.
"Lính tuần sẽ lượm anh này," một anh hầu bàn nói.
"Có nhằm nhò chi một khi anh này có được thứ mà anh ta đi tìm?"
"Biết khôn thì cha này phải bước ra khỏi con đường ngay bây giờ. Lính tuần sẽ bắt anh ta. Họ mới đi qua trước đây năm phút."
Ông già ngồi trong bóng râm cầm ly gõ nhẹ nhẹ lên cái đĩa. Người hầu bàn trẻ đi tới.
"Ông muốn cái gì?"
Ông già ngó anh ta. "Cho ly nữa," ông nói.
"Ông sẽ say," người hầu bàn nói. Ông già ngó anh ta. Anh hầu bàn bỏ đi.
"Ông nội này sẽ ngồi đây suốt đêm," anh ta nói với anh bạn đồng nghiệp. "Buồn ngủ quá rồi. Không hồi nào mà tui được vô giường trước ba giờ sáng. Ông già này sao không chết luôn trong tuần qua cho rồi."
Anh hầu bàn trẻ lấy ra chai rượu và cái dĩa khác nơi quầy bên trong quán café và mạnh chân bước tới bàn ông già. Anh ta để xuống cái dĩa và rót đầy ly rượu.
"Sao ông không chết luôn trong tuần qua cho rồi," anh nói với người đàn ông điếc. Ông già giơ tay ngoắc ngoắc anh hầu bàn. "Cho thêm chút nữa," ông nói. Anh hầu bàn rót rượu vào ly tới độ trào ra và tuôn xuống chồng dĩa. "Cám ơn," ông già nói. Anh bồi đem chai rượu trở vô bên trong. Anh ta lại ngồi xuống bàn với người bạn đồng nghiệp.
"Giờ thì ổng say thiệt rồi," anh ta nói.
"Tối nào ổng cũng say."
"Ổng muốn tự giết ổng để làm chi vậy?"
"Làm sao tao biết được."
"Cách nào mà ổng làm được chuyện đó?"
"Ổng treo cổ với sợi thừng."
"Ai cắt dây đem ổng xuống?"
"Cháu gái của ổng."
"Tại sao làm vậy?"
"Bị sợ cho linh hồn của ổng."
"Ông già có bao nhiêu tiền vậy?"
"Ổng có nhiều."
"Ông già chắc phải cỡ tám mươi."
"Thì tao cũng tính nói là ổng tám mươi."
"Ước chi ông già đi về nhà. Tui không bao giờ được vô giường trước ba giờ sáng. Giờ giấc thứ gì mà tới hồi đó mới đi ngủ?"
"Ông già thức khuya bởi vì ổng thích."
"Ổng cô đơn. Tui không cô đơn. Tui có vợ chờ tui trong giường."
"Có một thời ông già cũng có vợ."
"Bây giờ có vợ thì cũng không tốt lành chi cho ổng."
"Mày nói vậy nghe sao được. Không chừng có vợ thì ổng sẽ đỡ hơn."
"Cháu gái ổng săn sóc cho ổng. Anh nói là cô đó cắt dây đem ổng xuống."
"Tao biết chớ."
"Tui không muốn già tới cỡ đó. Một ông già là một cái gì nhớp nhúa."
"Không phải hồi nào cũng vậy. Ông già này sạch sẽ. Ổng uống đâu có bị trào ra đâu. Ngay như bây giờ, say mướt cũng vậy. Ngó coi ổng kìa."
"Tui không muốn ngó tới ổng. Tui muốn ổng đi về nhà. Ổng không biết điều với mấy người còn phải đi làm."
Ông già ngó từ cái ly của ổng nhìn ngang qua sân rồi tới hai anh hầu bàn.
"Cho ly nữa," ông già chỉ vô cái ly. Anh bồi đang gấp về bước tới.
"Chấm dứt," anh nói, với cái giọng của thứ dân ngu ngốc đem ra sử dụng khi nói với dân say rượu hay người nước ngoài. "Tối nay hết rồi. Tới giờ đóng cửa."
"Cho thêm ly nữa," ông già nói.
"Không. Chấm dứt." Anh bồi trẻ đem khăn lau mấy cạnh bàn và lắc đầu.
Ông già đứng dậy, từ từ đếm đống dĩa, móc ra cái bóp bằng da và trả tiền rươụ, không quên để lại tiền tip.
Anh hầu bàn nhìn ông đi xuống đường, một ông già quá già bước đi siêu vẹo nhưng vẫn đàng hoàng.
"Sao mày không để ổng ngồi lại uống?" người hầu bàn không gấp về nhà hỏi. Họ đang dựng lên mấy tấm che cửa quán. "Chưa tới hai giờ rưỡi mà."
"Tui muốn về nhà đi ngủ."
"Một tiếng đồng hồ là cái gì?"
"Nhiều với tui hơn là với ổng.”
"Một tiếng thì ai cũng như ai."
"Anh nói kiểu như ông già. Ổng có thể mua nguyên chai và đem về uống tại nhà."
"Uống vậy không giống như uống ở quán."
"Không, không giống," anh hầu bàn trẻ có vợ cũng đồng ý. Anh ta không muốn bất công với ông già. Anh chỉ gấp về.
"Còn mày? Bộ mày không sợ về nhà trước giờ bình thường hả?"
"Bộ anh tính chửi xéo tui đó sao?"
"Không có, mày, tính ghẹo chơi chút xíu."
"Không," người hầu bàn gấp về nói, anh đang đứng lên sau khi kéo cửa sắt xuống. "Tui có tự tin. Tui hoàn toàn tự tin."
"Mày có tuổi trẻ, tự tin, và có việc làm," anh hầu bàn già hơn nói. "Mày có mọi thứ."
"Và anh thì thiếu cái gì?"
"Cái gì cũng thiếu, ngoại trừ công việc đang làm."
"Anh có hết thảy mấy thứ mà tui có."
"Không. Tao không bao giờ có sự tự tin và tao không còn trẻ."
"Thôi đi ông. Đừng có nói mấy chuyện tào lao và lo khoá cửa lại đi."
"Tao là một trong mấy người thích ở lại trễ trong quán café," người hầu bàn lớn tuổi nói. "Cùng với tất cả những ai không muốn đi ngủ. Cùng với tất cả những ai cần ánh sáng trong đêm."
"Tui muốn đi về nhà và vô giường."
"Tao với mày là hai thứ khác biệt," người hầu bàn già hơn nói. Bây giờ thì anh ta đã mặc đồ để về nhà. "Cũng không phải chỉ là mấy câu hỏi của tuổi trẻ và tự tin mặc dù mấy thứ đó thì thiệt là đẹp. Tối nào tao cũng không muốn đóng cửa vì nghĩ tới chuyện có người nào đó cần tới quán café."
"Cha nội, thì có mấy quán ăn khuya mở nguyên đêm kìa."
"Mày không hiểu gì hết. Đây là quán café sạch sẽ và dễ chịu. Sáng choang đèn. Ánh đèn thì rất tốt và bây giờ, cũng còn có bóng rợp của lá.”
"Thôi, chào," anh hầu bàn trẻ tuổi nói.
"Chào," anh hầu bàn có tuổi nói. Tắt xong ánh đèn điện rồi, anh ta lại tiếp tục nói chuyện với chính bản thân. Dĩ nhiên đúng là ánh đèn rồi nhưng cũng cần thiết có một chỗ sạch sẽ và dễ chịu. Mày không muốn âm nhạc. Tất nhiên là mày không muốn âm nhạc. Cũng như mày không thể đàng hoàng đứng khơi khơi trước quán bar mặc dầu đó là tất cả những gì được cung cấp trong mấy tiếng đồng hồ này. Ông già sợ cái gì vậy? Không phải là nỗi sợ hay sự kinh hãi. Nó là cái không là thứ mà anh ta biết rất rành. Mọi thứ đều là không và một người đàn ông cũng là không luôn. Chỉ có vậy và ánh đèn là tất cả những gì cần tới và một sự sạch sẽ và thứ tự nào đó. Có người sống trong mấy thứ đó và không bao giờ cảm được nhưng anh ta biết mấy thứ đó tất cả đều là không và rồi không và không và rồi không (nada y pues nada y nada y pues nada). Cái không của chúng ta sản sinh ra không, không là tên của ngươi là vương quốc của ngươi không sẽ không là gì trong hư không như thể nó đang trong cái không. (Our nada who art in nada, nada be thy name thy kingdom nada thy will be nada in nada as it is in nada.) Hãy cho chúng ta cái không này cái không hàng ngày và chúng ta không là gì không có gì của chúng ta như khi chúng ta tạo ra cái không không có gì của chúng ta và cái không chúng ta không đi vào cái không nhưng chuyển chúng ta đi từ chốn không; rồi cũng không. (Give us this nada our daily nada and nada us our nada as we nada our nadas and nada us not into nada but deliver us from nada; pues nada.) Ca ngợi cái không chất chứa đầy những cái không, không có cái gì với ngươi hết (nothing is with thee). Anh ta mỉm cười và đứng trước quầy bar với một máy ép cà phê bằng hơi nước bóng loáng.
"Anh uống thứ gì?" người bán quán bar hỏi.
"Nada. Thứ không."
"Otro loco mas. Thêm một mạng điên" người bán quán bar nói và quay đi.
"Cho một ly nhỏ," anh hầu bàn lớn tuổi nói.
Người bán quán bar rót vô ly cho anh hầu bàn.
"Đèn ở đây sáng và dễ chịu nhưng có cái bar thì không được chùi bóng," người hầu bàn nói.
Người bán quán bar ngó qua anh hầu bàn nhưng không trả lời. Đêm dài, đã quá trễ để bắt chuyện.
"Anh muốn ly nữa không?" người bán quán bar hỏi.
"Không, cám ơn," anh hầu bàn nói và đi ra. Anh không thích quán bar và hầm rượu. Một quán café sạch sẽ, đèn đóm sáng choang lại là một chuyện rất khác. Bây giờ, không ngẫm nghĩ xa xôi gì thêm nữa, anh hầu bàn đi về nhà tới phòng của anh. Anh ta sẽ nằm vô giường và cuối cùng, với ánh sáng ban ngày, anh sẽ đi vào giấc ngủ. Sau hết, anh ta tự nói với anh ta, cũng có thể chỉ là bịnh bị mất ngủ. Nhiều người hẳn phải có bịnh này.
Nguyên bản: http://www.url-der. org/a_clean_well_lighted_ place.pdf
Trần Trung Tín
Nguyên bản: http://www.url-der.