Biến
cố Mậu Thân(1968) xảy ra cách đây đúng 50 năm (1968-2018),bắt đầu từ quyết định
rất khó hiểu vào lúc đó là việc sửa đổi âm lịch ở Bắc Việt Nam (BVN) nhân dịp
Tết Mậu Thân.
1.- SỬAĐỔI ÂM LỊCH Ở BẮC VIỆT NAM
Ngày
8-8-1967, nhà cầm quyền BVNra lệnh cho Nha Khí tượng Hà Nội đổi âm lịch, và
lịch mới sẽ được áp dụng kể từ ngày 1-1-1968.
Nha Khí tượng chỉ có khoảng 5 tháng để đổi lịch.
Thông
thường, việc soạn lịch do những nhà khoa học lịch pháp nghiên cứu dựa trên
những điều kiện thiên nhiên, chứ không phải theo ý muốn của con người, nhưng ở
đây lại khác. Xin cùng nhau đọc
"Lời giới thiệu của Nha Khí tượng" Hà Nội trong lần ấn hành thứ nhứt
năm 1968 quyển Lịch thế kỷ XX của nhà
xuất bản Phổ Thông (sau đổi thành nhà xuất bản Văn Hóa), Hà Nội, có các đoạn nguyên
văn như sau:
"Lịch
thế kỷ XX gồm thời gian đã qua (1901-1967) và thời gian sắp đến (1968-2000)...
"Đối
với những năm đã qua, ngày tháng âm lịch và các tiết được sao lục theo đúng các
lịch được công nhận là lịch chính thức trong từng thời kỳ, không đính
chính. Phần nầy chúng tôi gọi là
"Phần lịch sử (1901-1967).
"Đối
với những năm sắp đến, ngày tháng âm lịch và các tiết được tính toán dựa theo quyết định số 121/CP ngày 8-8-1967 của Hội đồng
Chính phủ. Phần nầy chúng tôi gọi là
là "Phần tính toán (1968-2000)…
"…
Phần nầy tính căn cứ theo Quyết định
số 121/CP ngày 8-8-1967 của Hội đồng Chính phủ. Đã tính tất cả 792 ngày tiết và 408 tháng âm
lịch, trong đó có 217 tháng đủ, 191 tháng thiếu, 12 tháng nhuận. Trong thời gian 33 năm sắp tới trên thế giới
sẽ xảy ra 73 nhật thực và 48 nguyệt thực: ở nước ta sẽ trông thấy 10 nhật thực
và 29 nguyệt thực...”(Nha
Khí tượng Việt Nam, Lịch thế kỷ XX
(1901-2000), Hà Nội: Nxb. Văn Hóa, 1982.
"Lời giới thiệu của Nha Khí tượng", không đề trang.)
Những
chữ in đậm do người viếtbài nầy,nhằmlưu ý rằng không phải những nhà soạn lịchtự
ý đề nghị sửa đổi âm lịch, mà việc sửa đổi nầy do quyết định số 121/CP ngày
8-8-1967 của Hội đồng chính phủ (HĐCP)BVN, tức những nhà soạn lịch phải sửa đổi
âm lịch theo ý muốn của nhà cầm quyền.
Vì
vậy, trong lời nói đầu, những nhà làm lịch hai lần nhấn mạnh rằng việc đổi âm lịch
“được tính toán dựa theo quyết định số
121/CP ngày 8-8-1967 của Hội đồng Chính phủ.” Nghĩa là chính phủ quyết định trước, rồigiao
cho những nhà lịch pháp thi hành quyết định đó,phải sửalịch đúng theo yêu cầu
của chính phủ.Dưới chế độ CS, tất cả các ban ngành đều phải phục vụ chính trị,
phục vụ chế độ, phục vụ đảng CS.
Việc
sửa đổi âm lịch không ảnh hưởng gì đến dương lịch, chỉ ảnh hưởng đến âm lịch.Theo
Nha Khí tượng Hà Nội, trong thế kỷ 20, âm lịch sửa đổi ở BVN có những sai biệt với
âm lịch cũ, đang được Nam Việt Nam (NVN) sử dụng, như sau: "Cụ thể là,
từ 1968 đến năm 2000 có thất cả 29 ngày tiết và 26 tháng âm lịch thiếu, đủ khác
với lịch cũ. Sự khác nhau đó đưa đến kết quả là, so với lịch cũ, ngày Tết Mậu Thân
(1968) và Kỷ Dậu (1969) sớm hơn một ngày.
Ngày Tết Ất Sửu (1985) sớm hơn
một tháng."(“Lời giới thiệu của Nha Khí tượng”, “Phần tính toán
(1968-2000), sđd.)(Người viết bài nầy
in đậm.)
Trong
những sai biệt so với âm lịch cũ, gần nhứt và quan trọng nhứt là tháng Chạp
(tháng 12) năm Đinh Mùi không có ngày 30, tức tháng Chạp thiếu, và ngày mồng
Một Tết Mậu Thân (1968) ở BVN sớm hơn một ngày so với lịch cũ. Đó là ngày thứ Hai 29-1-1968 dương lịch.Trong
khi đó, theo âm lịch cũ, cũng là âm lịch NVN đang sử dụng, ngày mồng Một Tết
Mậu Thân là ngày thứ Ba 30-1-1968 dương lịch.
(Lịch năm 1967 và 1968 của BVN theo Nha Khí Tượng Việt Nam [Hà Nội], Lịch
thế kỷ XX (1901-2000), Hà Nội: Nxb. Văn Hóa, 1982. Lịch năm 1967 và 1968
của NVNtheo Nguyễn Như Lân, 200 năm dương lịch và âmlịch đối chiếu [1780-1980],
Sài Gòn 1961, tt. 216-227.)
Việc
sửa đổi nầy không căn cứ trên nghiên
cứu khoa học, mà căn cứ theo quyết định của HĐCP.Hội đồng chinh phủ CS
nằm dưới quyền điều khiển của bộ chính trị đảng Lao Động.Lúc đó, chẳngai hiểu vì
sao BVN bớt đi một ngàyvào cuối tháng chạp năm Đinh Mùi, và cũng chẳng ai lưu ý
bớt để làm cái gi?
Ngày
nay, muốn tìm hiểu câu hỏi nầy, cầnnhìn lạidiễn tiến chính trị và quân sự lúc
đó ở BVN, vì ai cũng biết rằng tất cả việc làm, dù lớn dù nhỏ, của nhà cầm
quyền Hà Nội đều luôn luôn dựa trên những tính toán chính trị hữu cơ rất chi
tiết.
3.- HOÀNCẢNH ĐƯA ĐẾN VIỆC ĐỔI ÂM LỊCH
Khi
cầm quyền ở BVN từ tháng 10-1954, đảng Lao Động lo ổn định tình hình, cải cách
công thương nghiệp, tổ chức công tư hợp doanh ở thành phố, cải cách ruộng đất ở
nông thôn, quốc hữu hóa toàn bộ sinh hoạt kinh tế và làm chủ tuyệt đối
BVN. Sau đó, CS nhìn về phương Nam, dự
tính xâm lăng NVN, bành trướng chủ nghĩa CS.
Hội
nghị Trung ương đảng Lao Động lần thứ 15 tại Hà Nội ngày 13-5-1959, đưa ra nghị
quyết thống nhất đất nước (tức đánh chiếm NVN bằng võ lực) và đưa miền Bắc tiến
lên xã hội chủ nghĩa. (Nghị quyết đăng trên nhật báo Nhân Dân ngày 14-5-1959)
.
Năm
sau, đại hội III đảng Lao Động tại Hà Nội từ ngày 5-9 đến ngày 10-9-1960, được
mệnh danh là "Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện
thống nhất nước nhà", đưa ra hai mục tiêu lớn của đảng Lao Động là xây
dựng BVN tiến lên Xã hội chủ nghĩa và "giải phóng" NVN bằng võ
lực.
Để
chuẩn bịtấn công NVN, CSBVN thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt
Nam (MTDTGPMNVN) ngày 12-12-1960 tại Hà Nội.Mặt trận nầy chính thức ra mắt vào
ngày 20-12-1960 tại chiến khu Dương Minh Châu vùng Tây Ninh ở NVN.(Dương Minh
Châu là chủ tịch Uỷ ban Hành chánh Kháng chiến Tây Ninh bị Pháp giết chết trong
một trận càn quét vào tháng 2-1947 tại Tây Ninh.)
Ở
NVN, chính phủ Ngô Đình Diệm bị sụp đổ năm 1963.Nam Việt Nam bị xáo trộn liên
tục trong ba năm. Chiến tranh du kích
càng ngày càng lan rộng và càng ác liệt ở NVN.
Quân đội Hoa Kỳ và Đồng minh đến giúp NVN càng ngày càng đông.Nền Đệ nhị
Cộng Hòa được thành lập giữa năm 1967, ổn định dần dần tình hình.Năm 1967 cũng là năm bắt đầu cuộc vận động
tranh cử tổng thống cho năm sau (1968) tại Hoa Kỳ.Chính trường Hoa Kỳ rất nhạy
cảm và dễ dao động trong giai đoạn vận động tranh cử.
Chính
trong hoàn cảnh đó, BVN dự tính mở một cuộc tổng tấn công để đánh chiếm nhanh
chóng toàn bộ NVN, hoặc ít nhất phá vỡ nền tảng hành chánh mới được thiết lập
của nền Đệ nhị Cộng Hòa ở NVN, đồng thời để chứng tỏ cho Hoa Kỳ thấy rằng Hoa
Kỳ không thể chiến thắng tại Việt Nam, dù vào cuối năm 1967 số quân Hoa Kỳ tại NVN
đã lên đến 486,000 người.
Vào
đầu tháng 7-1967, tại Hà Nội, diễn ra các cuộc họp quan trọng của Bộ chính trị
và Quân uỷ Trung ương đảng Lao Động, duyệt y kế hoạch phát động cuộc tấn công
vào các thành phố ở NVN nhân dịp Tết
Mậu Thân (1968). Cuộc họp nầy diễn
ra một tháng trước khi HĐCP Hà Nội ra quyết định ngày 8-8-1967, sửa đổi âm lịch.Phải
chăng chính cuộc họp của Bộ chính trị đảng Lao Động đã ra lệnh cho HĐCP, rồi
HĐCP theo đóthi hành,buộc Nha Khí tượng gấp rút soạn lại
lịch, chuẩn bị cho cuộc tổng tấn côngở NVN?
4.-HƯU CHIẾNTẾT MẬU THÂN
Trong
cuộc chiến Quốc Cộng, hai bên thường hưu chiến trong ba ngày Tết.Đây là một
thông lệ bất thành văn giữa hai bên, tôn trọng tập tục truyền thống dân tộc
Việt Nam.
Ngày
19-10-1967, đài phát thanh Hà Nội đưa ra lời tuyên bố của nhà nước VNDCCH, tự
nguyện ngưng bắn từ 01G:00 sáng giờ Hà Nội ngày 27-1-1968 đến 01G:00 sáng giờ
Hà Nội ngày 3-2-1968, tức trong 7 ngày.(Wikipedia.org. Chữ khóa: “Sự kiện Tết Mậu Thân.)
Ngày
17-11-1967, MTDTGPMNVN đưa ra đề nghị hưu chiến 3 ngày trong dịp lễ Giáng Sinh,
3 ngày lễ Tết dương lịch và 7 ngày Tết âm lịch. (Don Oberdorfer, TET, New York: A Da Capo Paperback,
1971, tr.70.)Đề nghị nầy đưọc đài phát thanh MTDTGP lập lại ngày 15-12-1967.
(Đoàn Thêm, 1967 Việc từng ngày,
California: Nxb. Xuân Thu tái bản, 1989, tr. 287,) Đến gần Tết Mậu Thân, ngày 27-1-1968, đài
phát thanh Hà Nội đưa ra thông báo của Thông tấn xã BVN sẽ phóng thích ba tù
binh Hoa Kỳ nhân dịp Tết vì nhân đạo. (Đoàn
Thêm, 1968 Việc từng ngày,
California: Nxb. Xuân Thu tái bản, 1989, tr. 38.)
Trong
khi đó, ngày 15-12-1967, chính phủ VNCH thông báo sẽ hưu chiến trong dịp lễ
Giáng sinh từ 18G:00 ngày 24-12-1967 đến 18G:00 ngày 25-12-1967; hưu chiến 24
giờ vào dịp 1-1-1968, và hưu chiến 48 giờ vào dịp Tết nguyên đán Mậu Thân.
(Đoàn Thêm,1967 Việc từng ngày, sđd.
tr. 286.)
Hưu
chiến là hai bên thỏa thuận tạm ngừng đánh nhau cho dân chúng hưởng Tết.Tuy
nhiên, tình báo quân đội Hoa Kỳ bắt được nhiều nguồn tin là CS sẽ tấn công lớn
vào dịp Tết, và thông báo cho phía VNCH biết.
Dầu
vậy, trước tình hình ngoại giao có vẻ hòa hoãn, nhứt là vào cuối năm 1967, quân
đội Hoa Kỳ hiện diện đông đảo ở NVN (486.000 người), đã tạo một ảo giác bình
yên trong tâm lý dân chúng miền Nam, nên ngay cả cá nhân trung tướng Nguyễn Văn
Thiệu, vừa mới đắc cử tổng thống ngày 3-9-1967, cũng rời Sài Gòn đưa gia đình
về quê vợ ở Mỹ Tho, và trung tướng Vĩnh Lộc, tư lệnh quân đoàn 2, phụ trách
lãnh thổ cao nguyên Trung phần, bỏ về Sài Gòn nghỉ Tết.
Trong
khi đó, về quân sự để đánh lạc hướng dự đoán của VNCH và Đồng minh, Việt cộng
tấn công mãnh liệt các cứ điểm quân sự ở Cao nguyên Trung phần và đặc biệt tung
ba sư đoàn chính quy là 325C, 304, và 308 bao vây Khe Sanh (Quảng Trị) từ ngày
20-1-1968. Khe Sanh là cứ điểm chiến
lược kiểm soát trục giao thông và vận tải trên đường mòn Trường Sơn của cộng
sản từ Bắc vào Nam, gần khu phi quân sự, do Lực lượng đặc biệt Mỹ trấn giữ, nằm
trên đường số 9, giữa biên giới Lào và thị trấn Quảng Trị, cách biên giới
khoảng 20 dặm và cách Quảng Trị khoảng 30 dặm.
Nhà
cầm quyền cộng sản Hà Nội còn đưa ra một hư chiêu, bằng cách cho báo chí Hà Nội
lên tiếng rằng Khe Sanh sẽ là một Điện Biên Phủ thứ hai, khiến các nhà lãnh đạo
VNCH, Hoa Kỳ, và cả thế giới nữa, đổ dồn sự chú ý vào Khe Sanh, và chờ đợi một
cuộc thử sức lớn lao giữa hai bên sắp bùng nổ.
5.-TẤN CÔNG ĐÊM GIAO THỪA
Đúng
như tin tức tình báo do quân đội Hoa Kỳ bắt được, bộ đội CS đã nổi lên tấn công
đêm Giao thừa và sáng Mồng Một Tết Mậu Thân ở nhiều thành phố NVN (tối thứ Hai
29-1-1968 sáng thứ Ba 30-1-1968 dương lịch).
Cộng sản hy vọng tấn công trong dịp hưu chiến, thì còn gì bất ngờ hơn nữa.Tuy
nhiên quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng đẩy lui cuộc tổng tấn công của bộ
đội CS.
Cộng
sản nổ súng đêm Giao thừa mới lòi ra âm mưu đen tối của CS. Rõ ràng BVN thay đổi âm lịch, làm cho ngày
Tết Mậu Thân ở BVN trước ngày Tết NVN một ngày, nhắm mục đích diễn trò đánh lén
hèn hạ, bất chấp ngày lễ cổ truyền thiêng liêng của dân tộc.
Cộng
sản để cho dân chúng BVN và bộ đội của họ ăn Tết trước một ngày. Điều nầy nhắm đến hai mục tiêu: Mục tiêu thứ nhứt, trong ngày mồng Một Tết của
BVN theo âm lịch mới, dân chúng BVN cũng như bộ đội CS ở BVN và NVN vui xuân
bình thường như mọi năm. Đặc biệt là
Không quân Việt Nam Cộng Hòa tức NVN cũng như Không quân Hoa Kỳ tôn trọng hưu
chiến, không hoạt động nhân ngày hưu chiến, nên CS hưởng được một ngày an bình
trọn vẹn dưới đất cũng như trên không. Mục
tiêu thứ hai là đánh lừa sự quan sát theo dõi của thế giới, bảo mật tối đa đến
phút chót đối với binh sĩ của họ cũng như đối với quân đội VNCH.
Ngày
mồng Một Tết Mậu Thân của BVN tức là ngày 30 tháng chạp âm lịch của NVN(29-1-1968),
dân chúng BVN và bộ đội CS, ở ngoài Bắc cũng như bộ đội CS ở trong Nam, đều vui
chơi hưởng Tết, khiến ai cũng tưởng rằng CS sẵn sàng tôn trọng cuộc hưu chiến
trong dịp Tết và không hoài nghi gì về việc CS đang chuẩn bị một cuộc tấn công
quy mô trên khắp lãnh thổ VNCH.
Tuy
chuẩn bị kế hoạch đầy đủ, nhưng vấn đề chính trị luôn luôn biến chuyển sinh
động từng ngày, từng giờ, đôi khi đột biến bất ngờ.Có thể có những yếu tố đột
biến xoay chuyển cả lịch sử. Trên thế
giới đang diễn ra những cuộc vận động ngoại giao ráo riết liên tục từ nhiều
nước, để giải quyết chiến tranh Việt Nam, nên đảng Lao Động phải đợi đến giờ
chót mới ra lệnh là sẽ tấn công hay không tấn công?
Lệnh
tổng tấn công nầy cần được ngụy trang, và Hà Nội chọn cách ngụy trang hầu như
không ai chú ý, là thơ chúc Tết mà hằng năm Hồ Chí Minh thường đọc trên đài
phát thanh Hà Nội.Đây là điều bình thường hằng năm ở BVN, nên chẳng ai chú
ý.Lần nầy thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh là hiệu lệnh tổng tấn công.
Lệnh
tấn công thì phải đọc trước giờ tấn công.Giờ tấn công định vào giờ Giao thừa ở
NVN. Nếu đã định vào giờ Giao thừa, mà đọc
thơ chúc Tết sáng 30 tháng chạp thì sẽ bị chú ý ngay, vì đây là một hiện tượng
bất thường chưa hề xảy ra về trước. Phải
đọc thơ chúc Tết đúng đêm giao thừa và được lập lại nhiều lần sáng mồng Một ở
Hà Nội bình thường như mọi năm, mới tránh được sự nghi ngờ từ mọi phía.
Vậy
chỉ có một biện pháp duy nhứt là sửa lịch thế nào cho BVN là mồng Một mà NVN
vẫn là Ba mươi, tức là BVN trước NVN 24 giờ.
Như thế Hồ Chí Minh đọc thơ chúc Tết đêm Giao thừa và lập lại sáng mồng
Một ở BVN (trước Giao thừa NVN 24 giờ) nhằm truyền lệnh tấn công cho bộ đội CS
vào đêm Giao thừa tức đêm Ba mươi Tết ở NVN (sau đêm Giao thừa Bắc Việt 24
giờ).
Dĩ
nhiên đài Hà Nội phát đi phát lại nhiều lần bài thơ nầy trên làn sóng điện từ
đên Giao thừa và suốt trong ngày mồng Một Tết ở BVN, tức trong ngày Ba mươi ở
NVN, nên ở đâu trên toàn cõi NVN tức VNCH, các cấp chỉ huy CS cũng đều nghe
được mật lệnh nầy, và đều có thời giờ chuẩn bị sẵn sàng nhất loạt hành
động. Cách truyền lệnh nầy hầu như không
bị chú ý.
Lúc
đó phương tiện thông tin liên lạc còn rất kém.
Muốn ra lệnh kịp thời vào giờ chót cho các lực lượng CS trên toàn lãnh
thổ NVN, trải dài từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mau (từ bắc xuống nam VNCH), thì
chỉ có phương tiện duy nhứt là đài phát thanh Hà Nội, là đài phát thanh rất
mạnh mà ở đâu trên toàn cõi VNCH cũng có thể nghe được. Do đó, nhà cầm quyền CSBVN chọn đài phát
thanh Hà Nội để ra lệnh.
6.- TẠI SAO ĐÊM GIAO THỪA?
Ngang đây, có một câu hỏi phụ thêm là CS có thể giữ nguyên lịch cũ, đêm
Giao thừa, Hồ Chí Minh đọc thơ ra lệnh, tối mồng Một tấn công, cũng bất ngờ
vậy?Điều nầy đúng, nhưng chắc chắn thời điểm tấn công tối mồng Một không thuận
lợi bằng tấn công đêm Giao thừa.
Lý
do đơn giản là đối với người Việt Nam ở Bắc cũng như Nam, ở thành thị cũng như
nông thôn hay rừng núi, đêm Giao thừa có ý nghĩa linh thiêng, ở đâu mọi người
đều lo cúng rước ông bà, tổ tiên về vui Tết với con cháu, và đón mừng năm mới
theo tập tục cổ truyền của dân tộc.
Chắc
chắn việc trực gác cơ quan hay đơn vị quân sự cũng có phần lơ là hơn là các
ngày mồng Một hay mồng Hai Tết. Tại các
tiền đồn hẻo lánh, các đơn vị quân đội hẵn cũng tổ chức đón mừng năm mới vào
đêm Giao thừa. Do đó, tấn công đêm Ba
Mươi Tết là thời điểm bất ngờ hơn cả, hy vọng đạt kết quả hơn cả. Đó là lý do CS chọn đêm Ba Mươi để hành
sự. Muốn chọn đêm Ba Mươi (ở NVN) và bảo
mật đến mức tối đa đến phút chót, thì CS phải sửa âm lịch theo kế hoạch như đã
trình bày ở trên.
Để
giữ bí mật đến phút chót, nhà cầm quyền Hà Nội còn ra lệnh cho Nha Khí tượng áp
dụng lịch mới đổi từ ngày 1-1-1968, chỉ được phát hành lịch mới nầy vào đầu năm
1968, tức là ngay cả dân chúng BVN, đến phút chót vào đầu năm 1968, mới được biết
việc thay đổi âm lịch.
Do
đó, về phần Nha Khí tượng Hà Nội, trong lời giới thiệu rất ngắn, để tránh bớt
trách nhiệm, kín đáo nhắc lại hai lần: "Đối với những năm sắp đến, ngày
tháng âm lịch và các tiết được tính toán dựa theo quyết định số 121/CP ngày
8-8-1967 của Hội đồng Chính phủ. Phần
nầy chúng tôi gọi là là "Phần tính toán (1968-2000)".
Đặc
biệt, trong những lần ấn hành lịch vào những năm sau, Nha Khí tượng Hà Nội đều
không quên in lại lời giới thiệu lần đầu nầy, như một cách tránh né trách nhiệm
trước dư luận. Sự cẩn trọng của những
chuyên viên lịch pháp Nha Khí tượng Hà Nội chắc chắn có những lý lẽ ngầm mà họ
không thể nói ra.
KẾT LUẬN
Tóm
lại, tất cả những diễn tiến chiến tranh trên đây đã trả lời câu hỏi là Hà Nội
sửa đổi âm lịch năm Mậu Thân 1968 để làm gì?Nói văn hoa là để tấn công bất ngờ. Nói nôm na là để đánh lén. (Nói thô tục lả để cắn trộm.)
Tuy
bội ước, tráo trở, tấn công bất ngờ, hay đánh lén, CS cũng không thành công trong
cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân, mà còn mang lấy thảm họa, đến nỗi khi nghe nhà
văn quân đội CS, đại tá Xuân Thiều trình bày: “Tôi thấy Tết Mậu Thân sáu tám ở Huế chết chóc nhiều
quá, mất mát đau thương lớn quá. Bộ đội chết không còn người để chôn nhau. Dân
chết cũng nhiều...Mới nghe có thế, Tổng Bí Thư [Lê Duẩn] đã
đứng bật dậy, đỏ mặt quát: Ngu! Ngu! Đại Tá mà ngu!... rồi ông đùng đùng bước
nhanh ra cửa như chạy trốn.” (Phạm Đình Trọng, Về Với Dân, phần 3: Khắc
khoải xuân Mậu Thân 1968, https://nhatbaovanhoa.com/.../tet-mau-than-1968-nhin-tu-mot-nha-van-dang-vien-co)
Hứa
hẹn hưu chiến, hứa hẹn tôn trọng truyền thống dân tộc. Rồi bội ước, vi phạm hưu chiến, bất chấp
truyền thống dân tộc. Vì vậy không ai
lấy làm lạ CS bội ước luôn cả những văn kiện quốc tế có nhiều nước trên thế
giới làm chứng.Bội ước là thói quen thường ngày của người CS.Chức tước càng
cao, càng có nhiều kinh nghiệm bội ước.
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto,
29-01-2018)