Khi
tôi còn trẻ, tôi muốn học làm nghề Viết Văn nhưng Bố tôi nói: con viết
tiếng Việt đầy lỗi chính tả, làm sao mà tính sinh sống bằng nghề viết
Văn được? Con phải chọn một nghề vững chắc có thể nuôi sống mình chứ
không thể tin cậy vào nghề viết Văn. Các nhà văn Pháp mà con học trong
trường như Hugo, Lamartine, Baudelaire, Apollinaire .. đều nghèo đói cả
khi về già. Con nhớ ông Petrus Trương Vĩnh Ký là một nhà Văn, một nhà
Bác Học bậc nhất nước Việt Nam mà vào tuổi già cũng sống trong cảnh
nghèo túng, bệnh tật…
Bố
tôi còn nhắc cho tôi 1 câu thơ bằng Hán Văn mà tới giờ này – hơn 60 năm
sau- tôi vẫn còn nhớ như hôm nào còn là một thanh niên trẻ , đầy nhiệt
huyết và ảo tưởng:
Lập thân tối hạ thị văn chương.
(mà lúc đó tôi hiểu một cách nôm na là ở đời, chọn nghề khổ nhất, bết bát nhất, nghèo nhất là chọn nghề Viết Văn) .
Thực
tình ra câu thơ có nhiều hàm ý sâu xa về phong cách con người, về
triết lý nhân sinh con người , về bản tính sĩ phu con người nữa mà, 60
năm trước tôi chưa hiểu biết hết ý nghĩa .
Sáu
mươi năm sau, bây giờ tôi hết sức đồng ý với Bố tôi là tôi không đủ
tài làm nghề viết Văn, nếu làm thì cũng không có đủ độc giả , rồi cũng
chết đói mà thôi.
Bài
viết này chỉ là bài phiếm luận viết nhân dịp Trường Trung Học Petrus
Ký kỷ niệm thành lập được 90 năm kể từ ngày viên gạch xây trường được
đặt nền móng vào năm 1926. Và kỷ niệm 30 năm hội Ái Hữu các cựu học sinh
Trường.
Hồi
tôi lớn lên tại Hanoi trong thập niên 40 và 50, khó kiếm ra những sách
ca ngợi nhiều về công trình văn học của Trương Vĩnh Ký và các bạn ông
ta như Huỳnh Tịnh Của, học trò ông ta như Trương Minh Ký , như các nhà
văn vào thế hệ cháu ông như Đốc Phủ Sứ Hồ Biểu Chánh. ..
Tôi
nghĩ – nhưng cũng có thể tôi nghĩ lầm - nếu các sách xuất bản thời đó
tại Hanoi có nhắc dến các nhân vật này thì cũng chỉ nhắc qua loa , không
bao giờ coi họ là những nhà văn có ảnh hưởng quan trọng trong nền Văn
Học Việt Nam.
Người
ta không biết nhiều về Văn Học Miền Nam có lẽ vì các học giả như Dương
Quảng Hàm, Trần Trọng Kim, hay Phạm Quỳnh không để ý nhiều đến vài trò
của Văn Học Miền Nam, hay rất ít được tiếp xúc với Văn Học Miền Nam,
ít được đọc các sách vở xuất bản tại Saigon & Gia Định.
Một
lý do chính là các sách vở in tại Saigon và Gia Định hồi cuối thế kỷ
XIX và đầu thế kỷ XX không được mang ra bán nhiều tại các hiệu sách tại
Hanoi, nên các học giả Bắc Hà vô tinh không để ý tới kho tàng Văn Học
Miền Nam.
Các
người như Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Nguyển Văn Vĩnh
không phải là những người hẹp hòi , họ không có óc địa phương và không
có ý định cố tinh gạt bỏ kho tàng quý giá Miền Nam này. Nhưng trong hoàn
cảnh thiếu tài liệu để đọc, thì làm sao mà viết được ?
Sau
này các nhà Văn miền Nam - sinh đẻ tại Miền Nam hay di cư, sinh sống
trong Nam trước và sau 1954 - với các tác phẩm mới viết ra đời, có đầy
đủ phẩm chất và có đủ phương tiên quảng bá với báo chí, nên mới được
người ta để ý đến nhiều.
Trong
các nhà văn này, trước và sau 1954, phải kể đến các người như Vương
Hồng Sển, Huỳnh Văn Lang, Sơn Nam, các nhà giáo kiêm văn sĩ như Linh Mục
Thanh Lãng, Sử gia Phạm Văn Sơn, KQ Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, LM
Lương Kim Định, Nguyễn Hiến Lê, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Nguyên Sa , Cung
Trầm Tưởng vv…
Lẽ dĩ nhiên còn rất nhiều nhà văn giá trị khác nữa , nhưng khuôn khổ bài viết này không cho phép tôi nói lên hết.
Trương Vĩnh Ký là một nhà Bác Học có giá trị vào cỡ hạng quốc tế chứ không phải riêng gì của dân tộc Việt Nam.
Ông
nói lưu loát 27 thứ tiếng, ông viết hơn 100 tác phẩm (có tài liệu
viết ông là tác giả 119 tác phẩm), tác phẩm nào cũng vô cùng giá trị cả.
Cùng người bạn là Đốc Phủ Sứ Paul Huỳnh Tịnh Của, ông sáng lập ra tờ
Báo đầu tiên của cả nước Việt Nam vào năm 1865 (khởi đầu dưới tên một
người công chức Pháp của phủ Toàn Quyền) và 4 năm sau, năm 1869 , thì
chính quyền Thuộc Địa chính thức chỉ định ông là Giám Đốc với Huỳnh Tịnh
Của làm phụ tá.
Hết
cả các học sinh Việt Nam đều phải học Kim Vân Kiều với bản của học giả
Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim , nhưng ít ai biết Trương Vĩnh Ký là người đầu
tiên dịch Kim Vân Kiều ra chữ Quốc Ngữ. Bản dịch đầu tiên , vô cùng
quý giá này , còn giữ 1 bản tại Thư Viện Quốc Gia Pháp ( Bibliothèque
Francois Mitterrand) tại Paris XIII.
Năm
1876, Ất Hợi, Trương Vĩnh Ký được Phủ Toàn Quyền chỉ định ra thanh tra
Bắc Kỳ, tìm hiểu nguyên do tại sao lại có tinh trạng chế độ quan liêu
tham nhũng quá nặng tại Bắc Kỳ , và soạn thảo ra một phương cách hành
chánh và hình sự để cải tổ tinh trạng thối nát này.
Sau
khi làm tờ trình cho thượng cấp thì Trương Vĩnh Ký có viết về “ Chuyến
Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi” (Voyage au Tonkin en 1876 Ất Hợi ) kể lại những gì
đã xẩy ra khi đi thanh tra ngoài Bắc. Tác phẩm này đã làm cho triều
đình Huế thù ghét và coi Trương Vĩnh Ký là việt gian, bán linh hồn cho
Pháp.
Tác
phẩm này cũng cho chúng ta một cái nhìn tổng quát về xã hội Bắc Kỳ thời
đó, của một nhân chứng ra quan sát thực tế và ghi chép lại cảm tưởng
của mình, ngay sau khi hoàn tất cuộc du hành này.
Tác
phẩm “Phép Lịch Sự An Nam” ( Les convenances et les civilités
Annamites) là một tác phẩm đầu tiên về Phong Tục Học được soan thào bằng
Quốc Ngữ, theo thể loại mới, ngăn nắp hơn, tây phương hơn, khác với
nhửng công trình biên khảo rất giá trị - nhưng hơi luộm thuộm - khác
của các tiền nhân đi trước , trong đó phải kể công trình biên khảo khai
phá của nhà bác học Lê Quý Đôn nhà Hậu Lê (Kiến Văn Tiểu Lục) .
“Phép
Lịch Sự An Nam” tuy không đầy đủ bằng các khảo cứu về Phong Tục Học sau
này, nhưng nó đã dọn đường cho thế hệ sau của các người như Phan Kế
Bính (Phong Tục Việt Nam) , Pierre Huard (Connaissance Du Vietnam) Toán
Ánh và Nhất Thanh (Đất Lề Quê Thói)…
Toan
Ánh với 11 cuốn Nếp Cũ, các cuốn Việt Nam Chí Lược, Phong Lưu Đồng
Ruộng, Nếp Xưa , Phong Tục Việt Nam , Tín Ngưởng Việt Nam, Hồi Hè Đình
Đám , cho chúng ta thừa hưởng 1 công trình biên khảo về Phong Tục Học
vô cùng đồ sộ và phong phú.
Tôi
nghĩ – nhưng rất có thể tôi nghĩ sai –ảnh hưởng của các người đi trước
Toan Ánh như Trương Vĩnh Ký, Phan kế Bính và nhất là linh mục Leopold
Cadière trên tác phẩm của Toan Ánh không phải là nhỏ.
Như
Leopold Cadière , Nhất Thanh cũng là một linh mục, nếu tôi không lầm.
Cuốn sách của ông “Đất Lề Quê Thói” hết sức hàn lâm và đầy đủ chi tiết.
Ông viết rất ngăn nắp và dễ hiểu. Tôi nghĩ các linh mục Thiên Chúa Giáo
đã đóng góp không kể xiết về Văn Học Việt Nam kể từ thời Alexandre De
Rhodes sang Việt Nam để giảng đạo.
Linh
Mục Leopold Cadière sống 60 năm trời tại Việt Nam, nhất là Miền Trung,
vùng Huế. Ông viết hơn 250 công trình biên khảo về Lịch Sử, Văn Học,
Nghệ Thuật, Phong Tục, Ngôn Ngữ, Âm Nhạc về Việt Nam. Ông là người Việt
Nam hơn rất nhiều người Việt Nam.
Ông
là một trong những người người sáng lập và biên khảo nòng cốt của tập
San “Les Amis Du Vieux Huế” (Đô Thành Hiếu Cổ, Những Người Bạn Của Cố
Đô Huế ) , một tập san vô cùng giá trị, có lẽ - theo ý kiến rất thô
thiển của tôi – còn giá trị hơn tập san của Trường Viễn Đông Bác Cổ
Bulletin De L’Ecole Francaise D’Extrême Orient (BEFEO) nhiều.
Linh
Mục Cadière là người đầu tiên tìm hiễu phong tục , ngôn ngữ và đời
sống của các dân tôc thiểu số , sinh sống miền Cao Nguyên thượng du.
Công
trình của ông ảnh hưởng nhiều đến các công trình biên khảo về Văn Học
và Phong Tục Học của Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên, người Giám Đốc cuối cùng
củaTrường Viễn Đông Bác Cổ EFEO tại Việt Nam và sau này cũng là Bộ
Trưởng Giáo Dục của Chính Phủ Hồ Chí Minh trong 28 năm liên tục.
Các tác phẩm của Tiến Sĩ Nguyễn Văn Huyên như “Chants Alternés des Garcons et Filles D’Annam” "Hát đối đáp nam nữ thanh niên ở An Nam" và “Introduction à l’étude De l’Habitation sur Pilotis dans l’Asie du Sud Est” "Nhập môn nghiên cứu nhà sàn ở Đông Nam Á" (these de Doctorat , Paris 1934) “Recueil Des Chants De Marriage Thổ De Lang Sơn et Cao Bằng” “ Những bài Hát Lễ Cưới của Dân Tộc Thổ Vùng Lang Sơn , Cao bằng” 1943 , “Văn Minh Nước Nam” “Sự Thở Phụng Thánh Thần tại Việt Nam” , là những công trình biên khảo vô cùng giá trị mà các học giả và sinh viên ngày nay bây giờ vẫn dùng để tham khảo.
Tôi
rất thích khi thấy Nguyễn Văn Huyên là người đầu tiên đưa ra và bảo vệ
giả thuyết tại vùng “Châu Á Gió Mùa” (Asie Des Moussons) bao gồm hầu
hết tất cả Đông Nam Á và các vùng lân cận đã xuất hiên một nền văn minh
tiền-Ấn Độ và tiền-Trung Hoa (Pre-Indian and Pre-Chinese Civilization) .
Trong nhiều năm, ngoài Paul Mus, không có ai trong trường Viễn Đông Bác Cổ đồng ý với giả thuyết này.
Gần
đây chúng ta thấy có 1 vài học giả ngoại quốc , bắt đầu tin là trước
khi người Trung Hoa và Ấn Độ sang Việt Nam thì Việt Nam có thể
có giai đoạn đầu của một một nền văn minh căn bản rồi.( vấn đề này còn
nan giải và vô cùng phức tạp, nó còn nhiều yếu tố ẩn mã chưa giải đáp)
Khi
Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm bùng nổ trong thời gian 1955-58 , các học
giả và văn nghệ sĩ dinh líu vào vụ này bị tù đầy, hay cấm hành nghề,
nhiều người phải bỏ quê hương, đi ăn mày, sống đầu đường só chợ, không
dám về sống với các con vì sợ liên luỵ đến các con.
Nguyễn
Mạnh Tường và Đào Duy Anh cũng bị dinh líu về vụ này. Nguyễn Văn Huyên
đã đứng ra che trở cho hai người bạn này, cho vào làm nhân viên Bộ Giáo
Dục ( nhân viên thừa hành , cấp dưới, không có chức vụ lớn gì cả ) nhưng
nhờ có giấy tờ tuỳ thân là công chức thì có thẻ Hộ Khẩu, không phải
đuổi đi các vùng Lao Cai, Yên Bái, Lai Châu…
Đó
là một hành động can trường, trong chế đô Cộng Sản man dại thời điểm
đó, có thể nguy hiểm tới tính mang và tương lai của chính mình , cũng
như con cái mình. Tôi kính phục ông ta vào khía cạnh này. Hơn nửa,
Nguyễn Văn Huyên làm Bộ Trưởng 28 năm mà không hề vào đảng Cộng Sản cho
tới khi chết.
Gia tài Văn Hoá của Paul/Paulus Huỳnh Tịnh Của cũng đồ sộ không thua kém bao nhiêu công trình văn hoá của Trương Vĩnh Ký.
Tuy
Huỳnh Tịnh Của viết ra có 17 cuốn sách (so với trên 100 cuốn của Petrus
Ký) , nhưng bộ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị là một cuốn sách được người ta
kính trọng cho tới ngày nay. Cuốn Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của cũng là cuốn
Tự Vị đầu tiên bằng quốc ngữ của Việt Nam.
Huỳnh Tịnh Của định nghĩa lại rõ ràng sự khác biệt giữa Tự Vị và Tự Điển.
Tự
Vị cho người tham khảo ý nghĩa của một chữ hay một cụm chữ. Tự Điển lớn
rộng hơn, cho người tham khảo thêm các điển tích, điển cố liên quan tới
chữ/cụm chữ đó. Chúng ta thấy cuốn Kim Vân Kiều của Nguyễn Du gồm có
3254 câu tương đối là một cuốn sách mỏng nhưng khi bình luận, bàn về các
điển cố liên quan đến các chữ Nguyễn Du dùng trong Truyển Kiều thì có
thể lên tới cả ngàn trang.
Đốc
Phủ Sứ Huỳnh Tịnh Của có cuộc đời hạnh thông hơn người bạn ông (và có
lúc là thượng cấp của ông) là Trương Vĩnh Ký. Có lẽ vì ông chưa bao giờ
giữ các chức vụ quan trọng như Petrus Ký, không làm việc trong Cơ Mật
Viện của Huế nơi mà cả triều đình cũng như Vua e dè vì sợ ông là tai
mắt (việt gian) người Pháp gài để dò xét Triều Đình.
Huỳnh
Tịnh Của cũng chẳng bao giờ giữ chức vụ một người thanh tra trung ương,
được cử ra Bắc Kỳ làm tất cả hệ thống Quan Lại , Sĩ Phu Bắc Hà phải run
sợ.
Tôi
thích cách Huỳnh Tịnh Của phân biệt chữ kép “bụng dạ” như sau: Dạ là
phần trên rốn , và bụng là phần dưới rốn. Tôi không biết Huỳnh Tịnh Của
tham khảo tài liệu nào mà phân chia như vậy nhưng tôi thích cách phân
chia này của Huỳnh Tịnh Của.
Trong
Phong Tục và Văn Hoá Việt Nam, các chữ tim, bụng dạ, lòng dạ, tấm lòng ,
vv… có một hàm ý sâu xa về tâm hồn, tâm linh chứ không phải chỉ riêng
về ăn uống , tuần hoàn máu, hay tiêu hoá mà thôi.
Người có lòng dạ tốt là người tử tế , nhân hậu . Người Bụng dạ xấu là người không tử tế, hay dèm pha hay thù hại người khác.
Thay lòng đổi dạ là kẽ phản phúc , không thể tin cậy được. Kẻ gan dạ là người rất can đảm, không sợ nguy hiểm.
Người có con tim tốt/tâm địa tốt là người tử tế, hay thương người, chứ không phải là người có cái tim mạnh khoẻ, không bị cao áp huyết máu
Các
thí dụ trên cho ta thấy là người Việt Nam cũng như người Trung Hoa đặt
trung tâm suy nghĩ của tâm hồn vào tim, vào lòng dạ, bụng dạ , vào gan
; trong khi khoa học Âu Tây coi đó chỉ là nôi tạng về tuần hoàn máu, về
tiêu hoá thức ăn.
Âu
Tây đặt trọng tâm suy nghĩ vào cái óc., và hầu hết các xã hội tân
tiến Âu Mỹ chấp nhận Óc là bộ phận quan trọng nhất, duy nhất có thể xuất
phát ra các tư tưởng, ý nghĩ của mỗi cá nhân.
Vào
khoảng năm 1988 , môt bênh nhân đau tim nặng, bà Claire Sylvia, được
thay tim vì tim bà quá hư hỏng từ nhiều năm. Bà được nhận tim từ 1 người
thanh niên trẻ 18 tuổi, bị chết vì tai nạn xe cộ xẩy ra trong vùng
tỉnh Boston ngày hôm trước.
Sau
khi giải phẫu và ghép tim xong một thời gian thì bà ta bắt đầu thèm
khát uống bia/ beer. Beer là một thứ mà bà Claire Sylvia ghét nhất trước
khi giải phẫu tim, mà bà tránh không bao giờ uống suốt cuộc đời bà
trước khi giải phẫu.
Sau
đó. bà thấy thèm ăn loại ớt xanh, mà xưa nay bà không bao giờ ăn cả,
bà cũng thèm ăn gà chiên Kentucky fried Chicken, việc mà bà rất ghét xưa
nay.
Với
thời gian, tinh tinh bà cũng thay đổi. Xưa nay bà là người rút dát, rụt
dè, khống nói to tiếng với ai cả. Nay bà trở thành người có nhiều tự
tin, hay lên tiếng cho ý kiến và không để ai ép bức mình.
Việc đó các bạn hữu cũng như con cái bà đều nhận thấy.
Lần lần sự thay đổi lấn sang khía cạnh tinh dục của bà. Bà trở thành một người gay thích phụ nữ như một người đàn ông khác.
Khi ngủ, bà hay nằm mơ thấy 1 người thanh niên trẻ , người đó báo cho bà biết là anh ta tên là Tim.
Bà
Claire Sylvia hỏi nhà thương tên người đã cho bà trái tim của anh ta,
thì nhà thương từ chối không cho biết vì pháp luật không cho phép.
Bà đi hỏi các bác sĩ giải phầu thì không ai biết gì cả. Họ chỉ nhận được trái tim và họ giải phẫu thôi.
Bà
Claire đi tới tỉnh Boston là nơi mà tai nạn lưu thông xẩy ra, bà vào
thư viên tìm kiếm các vụ tai nạn lưu thông xẩy ra vào tháng bà được giải
phẫu, bà tìm thấy tên một thanh niên 18 tuổi là Tim Lamirande và tìm
kiếm nơi cư ngụ gia đình anh ta.
Sau
cùng bà gặp gia đình, cha mẹ và chi em của Tim, họ cũng xác nhận Tim
ngày xưa rất thích Kentucky Frie chicken, uống beer, ăn ớt xanh.
Câu chuyện bà Claire Sylvia có được làm thành film cinema và bất cứ ai cũng có thể thuê DVD phim này về coi.
Tôi viết dài dòng về việc bà Claire Sylvia vì tôi muốn nhấn mạnh giả thuyết các tế bào tim hay gan, ruột, có thế lưu giữ một phần nào ký ức (
cellular residual memory) do óc phát ra trong quá khứ và mang ký ức
đó chuyển sang ( memory transfer) thân thể của bệnh nhân được ghép
tim, gan etc..không hẳn là một giả thuyết điên khùng.
Nếu giả thuyết đó được chứng minh , thì cách nói của các cụ : bụng dạ tốt, tâm địa tốt, có thể có 1 căn bản khoa học.
Có một tờ báo Văn Học miền Nam tên là Tạp Chí Bách Khoa là một tờ báo, một cơ quan truyền thông văn học vô cùng giá trị.
Có
lẽ cho tới ngày nay, Việt Nam chưa có một tờ Đặc San nào có giá trị như
vậy, có nhiều nhân tài cộng tác như vậy, trong suốt 20 năm trời của
miền Nam Việt Nam.
Hồi
đó tất cả những người có tên tuổi về Văn Học miền Nam đều cộng tác bài
vở với Bách Khoa, từ Huỳnh Văn Lang đến Nguyễn Hiến Lê, từ Vương Hồng
Sển tới Thanh Lãng, từ Vũ Quốc Thúc tới Nguyễn Cao Hách, từ Doãn Quốc Sỹ
tới Võ Phiến, từ Mai Thảo tới Nguyên Sa, từ Vũ Khắc Khoan tới Đinh
Hùng, Vũ Hoàng Chương, từ Trần Ngọc Ninh tới Trần Văn Tích, từ Cao văn
Luận đến Lê Thanh Minh Châu , từ Nguyễn Đăng Thục tới Nguyễn Thế Anh,
Lê Văn tới Nguyển Văn Trung, , từ Minh Phong Phạm Ngọc Thảo đến
Nguyễn Thị Hoàng, từ Nguyễn Ngu í, Bùi Giáng tới Cung Trầm Tưởng, vv.…
Trong suốt thời gian đó , ngoài Hanoi không có một tập san nào có tầm cỡ như tập san Bách Khoa cả.
Nói
như vậy không phải là ngoải Bắc không có nhân tài, nhưng sau vụ Nhân
Văn Giai Phẩm, gần như tất cả tinh hoa văn hoá ngoài Bắc bị chà đạp tù
tội, các người khác tuy không vào tù nhưng hết sức sợ hãi, tay lúc nào
cũng sờ gáy xem còn hay mất, bắt buộc – dù trái với lý tưởng và nguyện
vọng mình - phải viết văn theo chỉ đạo và giáo điều của đảng.
Vì
sự gò bó tinh thần như vậy, vì lúc nào cũng sợ Công An mời lên “làm
việc” như vậy, không ai có bụng dạ phóng khoáng viết văn theo đúng lý
tưởng, theo đúng con tim của mình.
Nguyễn Tuân , tác giả cuốn sách “Vang Bóng Một Thời”
một tác phẩm mà tôi say mê khi còn trẻ, khi trở về Hanoi sau nhiều năm
xa cách, gặp lại bạn hữu. Ông ngồi hút điếu thuốc lào, uống chén trà
xanh, rôi lẩm bẩm tâm tình với mấy người bạn thân: “Đéo mẹ, chúng mày tưởng gì ? tao sở dĩ còn sống ngày hôm nay là vì tao biết sợ… ”
Trần Dần viết câu thơ khi đọc thấy trong lòng muốn thắt lại: ‘Tôi bước đi/ không thấy phố/ không thấy nhà/ Chỉ thấy mưa sa/ trên màu cờ đỏ. ... Ít lâu sau, Trần Dần bị bỏ tù Hoả Lò.
Phùng Cung viết một bài “Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh”
là một truyện ngắn hay, nói về con ngựa ngày xưa oai phong ra trận mà
bây giờ già rồi chỉ được ở nhà kéo xe mà thôi. Thế mà có người chạm nọc,
cho Công An mời đi “làm việc” mút mùa.
Phùng
Quán . lúc hút thuốc lào rẻ tiền, uống chén trà xanh, ngà ngà say thuốc
lào, ăn nói “linh tinh” làm vài câu thơ đọc cho mấy thằng bạn thân
nghe : “Bút giấy tôi ai cướp giật đi, Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá”. Chỉ
nói chuyện và làm thơ “linh tinh” với mấy người bạn thân tinh mà ngày
hôm sau có Công An mời lên và bị đầy đoạ cho tới khi chết, không ngóc
đầu lên nổi.
Các học giả, các văn sĩ, triết gia Bắc Hà sống trong khung cảnh đó thì làm sao có tâm hồn viết lách, sáng tạo gì nữa ?
Ai
ai cũng phải lo cái mạng sống của mình trước đã. Bản năng sinh tồn
không cho phép các học giả ngoài Bắc viết như Tập San Bách Khoa. Trong
Nam lại khác, ai có chân tài là có chỗ đứng trong Bách Khoa.
(lẽ dĩ nhiên, tôi biết thân, biết phận, nên không bao giờ dám gửi bài cho anh Huỳnh Văn Lang in trong Bách Khoa J )
Ngoài Bắc người ta viết và ca ngợi Trăm Hoa Đua Nở, nhưng chính tại miền Nam người ta mới có Trăm Hoa Đua Nở thực sự.
Theo
tôi nghĩ – nhưng cũng có thể tôi nghĩ sai – các tạp san nổi tiếng xa
xưa như Nam Phong Tạp Chí, như Phong Hoá, có vai trò khai phá nền Văn
Học mới của dân tộc ta , nhưng thực chất – substance -bài vở của Bách
Khoa trong Nam sau này có giá trị về văn hoá, về hiểu biết, hơn các đàn
anh đi trước rất nhiều.
Tôi
được nghe là các người như Đào Duy Anh khi vào Saigon sau 1975 , là đi
kiếm ngay tờ Bách Khoa tại Toà soạn để đọc và mang về Hanoi làm tài liệu
tham khảo.
Ông
Đào Duy Anh là một học giả, một sử gia có thực tài, nếu ông sống trong
Nam trong thời gian Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hoà, được tự do viết lách,
khảo cứu , thì tôi nghĩ nền Văn Hoá nước ta sẽ sáng lạn hơn giờ nhiều
Đào
Duy Anh không thua kém gì bất cứ ai đã cộng tác với Bách Khoa cả. Tôi
thích cách viết văn của Đào Duy Anh hơn Nguyễn Mạnh Tường, ông đi thẳng
ngay vào vấn đề bàn cãi chứ không mất thì giờ nói văn hoa, bóng bẩy , mỹ
miều như tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường.
Tôi
có găp và ăn cơm với Đào Duy Hùng, con ông Đào Duy Anh. Anh có cho tôi
biết là ngày xưa ở Huế có học cùng với - và là bạn thân của- một người
bạn khác của tôi-:BS Vũ Đình Minh.
Khi
nói chuyện với Đào Duy Hùng thì tôi có cảm tinh ngay. Tôi chưa gặp ông
Đào Duy Anh bao giờ cả, nhưng hồi nhỏ tôi xử dụng cuốn tự vị
Pháp-Việt Đào Duy Anh rất nhiều lần. Cuốn tự vị của ông làm theo khuôn
khổ cuốn tự vị Larousse nhưng to lớn hơn và có nhiều chi tiết giúp cho
cậu học trò nhỏ bé tại Hanoi làm bài dễ dàng hơn.
Tôi thấy công trinh khảo cứu của Đào Duy Anh về ” Danh Giới Việt Nam Qua Các Thời Đại”
là một công trình khảo cứu Sử Học vô cùng giá trị, tuy nhiên tôi không
đồng ý với ông về “Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam” trong bộ Lịch Sử Cổ Đại
Việt Nam, (tuy nhiên vấn đề này ngoài phạm vi bài viết này nên không dám
mạo bàn nơi đây). Bộ sách về Luận Giải Truyện Kiều của Đào Duy Anh là
một bộ sách vô cùng giá trị mà cho tới giờ này, tôi nghĩ ít có sách nào
sánh bằng.
Một chi tiết Sử Học về nhà Hậu Lê và Mạc Đăng Dung mà Đào Duy Anh khám phá và viết ra làm tôi thích thú vô cùng.
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư chép là Mạc Đăng Dung tự trói mình, tạc hai tượng
bằng vàng khối , lớn bằng người thường, và dâng châu Quy và Thuận
cho nhà Minh để xin nhà Minh tha.
Trái
lại, Đào Duy Anh cho chúng ta biết hai châu Quy và Thuận đã chính thức
thuộc Trung Hoa từ thời nhà Tống từ nhiều thế kỷ trước. Các tài liệu nhà
Tông, nhà Nguyên đều có vẽ châu Quy & Thuận nằm trong danh giới
Trung Hoa, vậy thì làm sao mà đời Minh Tuyên Đức, Mạc Đăng Dung có thể
dâng hiến hai châu này lại cho nhà Minh được ?.
Hai
châu Quy & Thuân thuộc vùng xôi đậu, lúc bên này lúc bên kia, dân
cư vùng đó phần lớn là người Nùng.Trước thời Ngô Quyền thì việc này
không có gì quan trọng cả, vì nước ta thời đó là 1 quận của Trung Hoa,
cả hai bên danh giới đều thuộc về Tầu hết.
Trong thời gian đó, không ai đặt nó thành vấn đề cả.
Vào
thời kỳ độc lập nhà Lý, khi Tống Địch Thanh mang quân sang xâm chiếm
nước ta, Nùng Chí Cao mang đội quân du kích người Nùng ra chống cự lại.
Người Nùng ( họ hay tự xưng là người Thổ, thuộc nhóm Tầy, Choáng) là
một dân tộc can trường, hai bên đánh nhau qua lại rất gay go trong
nhiều tháng, Nùng Chí Cao thua , phải cắt đất , dâng hai châu Quy và
Thuân cho Tống Địch Thanh.
Việc
này xẩy ra từ thời Lý Thái Tông, hai châu này thuộc Trung Hoa từ lâu
rồi thì làm sao mà Mạc Đăng Dung lại dâng được cho nhà Minh ?
Tuy
vậy Sử Gia Trần Trọng Kim vẫn chép lại Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và gọi
Mạc Đăng Dung là kẻ cắt đất, bán nước, phản thần, phản quốc và vô liêm
sỉ. Thật tinh ra Trần Trọng Kim tiên sinh chỉ cần mở Tống Sử hay Nguyên
Sử là thấy ngay ( hai bộ sử mà tiên sinh tham khảo rất nhiều lần khi
soạn Việt Nam Sử Lược).
Theo
tôi nghĩ – và tôi cũng có thể nghĩ sai - Trần Trọng Kim chắc thừa biết
chi tiết này khi ông soạn bộ sử lược , nhưng ông đã có thành kiến sẵn
về Mạc Đăng Dung rồi mà ông coi là vô liêm sỉ, là phản quốc, là gian
thần. Nếu đưa chi tiết lịch sử này vào thì đương nhiên Trần tiên sinh gỡ
tội và miễn trách Mạc Đăng Dung rồi, một việc mà trong lòng, ông không
chấp nhận làm.
Trong
những năm 1505 -1527 , nhà Hậu Lê thối nát như bùn. Các vua Lê lúc đó
là hôn quân, bạo đế, tàn ác, dã man, lấy vợ người ta, giết hại người
ta, tịch thu vơ vét tài sản của dân, đến nỗi chính Sứ Thần Trung Hoa
làm báo cáo cho Hoàng Đế nhà Minh , gọi vua Lê là Vua Lợn (Lê Tương Dực) và Vua Quỷ (Lê Uy Mục) . Đây là người Trung Hoa gọi, còn dân Việt Nam tại Thăng Long còn dùng nhiều chữ nặng hơn để kêu họ.
Như vậy hành động truất phế Vua Quỷ và Vua Lợn và
người kế nghiệp họ là một hành động đáng khen, giải thoát toàn dân ra
khỏi cảnh khổ đoạ, lầm than , chứ sao lại dùng các chữ Gian Thần, Bán
Nước, Phản Quốc, Vô Liêm Sỉ , để gọi Mạc Đăng Dung ?
Trong
nửa đầu của thế kỷ XX, tiên sinh Trần Trọng Kim là Thái Sơn Bắc Đẩu của
Văn Học Việt Nam, kẻ hâu sinh mạt học này không khỏi cảm thấy buồn
buồn khi thần tượng mình tôn thờ suốt thời niên thiếu đã không còn là
khuôn vàng thước ngọc như khi xưa nữa .
Hồi
còn trẻ tôi được biết là cuốn tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên của Việt
Nam là cuốn Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, in năm 1925. Hoàng Ngọc Phách
là một nhà giáo có tiếng, dậy học tại nhiều trường Trung Học và ông có
dậy học nhiều đồng nghiệp đàn anh của tôi.
Trong
cuốn tiểu thuyết lãng mạn này , Song An Hoàng Ngọc Phách có viết 1 câu “
Phi Cao Đẳng , Bất Thành Phu Phụ”, câu này được nhiều thế hệ thiếu nữ
Việt Nam nói đi nói lại như một câu ca dao, tục ngữ.
Hồi
tác phẩm này được in ra, nó trở thành một làn sóng thần mãnh liệt đẩy
vào thế hệ thanh niên Việt Nam thời đó. Nó mang một tư tưởng lãng mạn
về ái tinh, về sự thoát ly gia đình chưa từng thấy vào năm 1925 khi tác
phẩm này mới in ra.
Hoàng
Ngọc Phách cho nhiều bạn hữu biết cuốn Tố Tâm dựa theo cảm hứng khi ông
đọc cuốn La Dame Aux Camelias của Alexandre Dumas. Câu chuyện buồn và
cả hai nhân vật chánh của Tố Tâm và La Dame Aux Camelias đều chết vì là
một nạn nhân oan trái của xã hội và ái tinh.
La
Dame Aux Camellias về sau được Verdi soan thành opera rất thành công
dưới tên La Traviata. Nếu ai chưa coi opera này thì là một thiếu sót lớn
lao. Nếu không có thì giờ đi coi thì có thể mở Youtube.com
coi cũng thấy những nghệ sĩ nhất thế giới như Pavarotti, Placido
Domingo, Maria Callas, Anna Netrebko… đóng thì cũng vô cùng thích thú. Nhiều người nói là Maria Callas trong La Traviata thì không ai bằng cả. Tôi thấy Anna Netrebko người Nga cũng hay tuyệt vời.
Cuốn
tiểu thuyết Tố Tâm là một cuốn sách có một địa vị quan trọng trong nên
Văn Học Việt Nam hồi đầu thập niên 20 thế kỷ trước, tuy nhiên nó không
phải là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của nước ta.
Cũng như về báo chí , Gia Định Báo của
Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của xuất bản trước các báo chí Bắc Hà
nhiều thập niên , sĩ phu Nam Kỳ cũng viết và in tiểu thuyết trước Hoàng Ngọc Phách 11 năm (1914) .
Cuốn sách tiểu thuyết đầu tiên in tại Việt Nam là cuốn Hà Hương Phong Nguyệt Truyên (xin
coi hình đính kèm). Nó được in từng đọan ít trang một ( roman
feuilleton) trong nhiều năm trời trong tờ báo ‘Causeries Sur
L’Agriculture et sur le Commerce” mà tên Việt Nam nghe lãng xẹt là Nông
Cổ Mín Đàm. (Vừa uống trà vừa nói chuyện Buôn Bán và Canh Nông).
Cái
tên “Hà Huơng Phong Nguyệt truyện” nó có hàm ý là truyện “trai gái” ,
tiếng Hán chữ ‘Phong Nguyệt” ( trăng gió) theo cách hiểu biết phổ thông
là truyện “trai gái” tư tinh với nhau, yêu thương nhau.
Tôi
chưa được đọc cuốn tiểu thuyết này bao giờ, hồi xưa ở Saigon cũng có
một số người có. Cụ Vương Hồng Sển khoe cụ còn giữ một ấn bản rất đẹp
nhưng xin coi thì cụ không cho coi. Khi Chính Quyên Cộng sản vào Nam thì
họ bắt nạp tất cả sách vở in trong thời đại “Mỹ Nguỵ” để đốt hết,
nhiều gia đình có, nhưng đem đi đốt trước ngay tại nhà để tránh vạ,
không dây với hủi.
Bây
giờ không biết tại Saigon có còn cuốn này không ? Hơn nữa vì in theo
kiểu Roman Feuilleton trong suốt mấy năm trời nên phải giử cả chồng
báo. .
Ngày
xưa Học Giả/nhà Văn Bình Nguyên Lộc có nói là hồi ông còn trẻ ông có
đọc rồi. Khi đọc xong bị thân phụ bắt gặp, bì đánh đòn, phạt nặng và cấm
không được đọc nữa. Ông Bình Nguyên Lộc cho biết là đọc cũng chẳng
“thấy gì” , không hiểu tại sao người ta lại gọi là văn chương đồi bại,
truỵ lạc.
Học
giả Bình Nguyên Lộc là thân phụ của BS Tô Dương Hiệp, Giám Đốc bệnh
Viên Tâm Thần, Biên Hoà, trước 1975. Anh Hiệp nay đã qua đời rồi, anh
học trên lớp tôi, lớp anh BS Trần Văn Tích hiên đang về hưu bên Đức.
Tôi
được biết thư viên Quốc Gia Pháp Francois Mitterrand tại Paris có toàn
bô Nông Cổ Mín Đàm, nếu có anh chị nào muốn đọc – nhất là các anh chị
bên Pháp - thì có thể lại thư viện này coi.
Tôi
không biết Thư Viện Đại Học Yale có bộ này không ? Hồi xưa có anh Học
Giả Huỳnh Sanh Thông làm quản thủ Thư Viện Yale thì Đại Học này có mua
được nhiều tài liệu quý giá về Văn Học Việt Nam, không biết anh Thông có
dịp mua sách này không ?
Cái tin tức này có lẽ phải hỏi anh GS Huỳnh Chiểu Đẳng thì may ra mới biết được Yale University có bản này hay không ? .
Cách
đây vào khoảng 20 năm, khi cháu Hoài trang làm residency về Internal
medicine tại Yale, tôi có lên thăm cháu và có gặp giáo sư Jonathan
Spence , một sử gia về Trung Hoa hàng đầu trên thế giới ( In Search of
Modern China) trong thư viện. Jonathan Spence cho tôi biết ở Harvard có
1 bức tranh Tầu do người họa sĩ của Hoàng Đế Càn Long vẽ bữa tiệc phái
đoàn Việt Nam của Nhà Tây Sơn đưa sang Bắc Kinh triều Cống và xin tạ lổi
vua Càn Long vì đã đánh nhau với quân Mãn Thanh .
Vì
phái đoàn Tây Sơn khôn khéo nhận là Việt Nam thua nặng trong trận Đống
Đa , nên vua Càn Long được giữ thể diện ; nhà vua đặt tiệc yến thết
phái đoàn ngoại giao Việt Nam . Trong thư tạ lỗi, Nguyện Huệ cũng viết
là đáng lẽ chính mình phải sang tận nơi tạ lỗi với Hoàng Đế Càn Long
nhưng vì đang bị bệnh nặng , không đi được và phái người cháu ruột sang
thay. (có tài liệu viết là 1 con Nguyễn Huệ đi thay).
Các
thư viên của Yale , Stanford hay Harvard Universities có nhiều tiền, họ
sẵn sàng trả giá rất cao để mua những tài liệu quý giá mà họ chưa có.
Bài
viết này quá dài với khuôn khổ Đặc San Trường Petrus Ký kỷ niệm 90 năm
thành lập trường và 30 năm thành lập hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Petrus Ký
tại Bắc California.
Xin phép quý vị tạm chấm dứt và xin hẹn một dịp khác.
Bài
này viết để biểu hiệu lòng kính trọng của tôi với nhà Bác Học Trương
Vĩnh Ký và lòng quý mến của tôi với bao nhiêu bạn hữu thân tinh , cựu
học sinh của Trường.
(Xin coi hình chụp trang bìa của Hà Hương Phong Nguyệt Truyện sau đây.)
Nếu có nhiều sai lầm ấu trĩ , xin quý vị vui lòng bỏ qua