Trong giới kinh tế tài chính, nhất
là vào những năm chót của chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), ai cũng biết đến
Thống đốc trẻ tuổi của Ngân Hàng Quốc Gia là ông Lê Quang Uyển.
Sau khi tốt nghiệp HEC (Hautes
Etudes Commerciales) tại Paris năm 1960, ông Lê Quang Uyển về Việt Nam phục vụ.
Ông đã làm một thời gian ngắn làm cho Ngân Hàng Pháp Á (BFA – Banque Francaise
de l’Asie). Sau đó ông Lê Quang Uyển cũng như nhiều chuyên viên trẻ khác cũng
bị động viên vào quân đội và lên đến cấp bậc đại úy.
Từ quân đội ông được chuyển sang ngạch “chuyên viên Phủ Tổng Thống,” một ngạch công vụ của VNCH dành cho các chuyên viên trẻ, có học thức và nhiều tương lai. Họ được đào tạo để trở thành các nhà lãnh đạo tương lai trong ngành kinh tế, tài chính, giáo dục; các công ty của chính phủ – nhà đèn, công ty đường, Air Vietnam,… Và sau này có thể có những trách nhiệm cao cấp trong chính phủ. Ngạch này được thành lập từ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm để kéo các chuyên viên giỏi phục vụ cho chính phủ VNCH.
Trong cương vị này, ông đã tham gia
nhiều chuyến đi của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, trong đó có chuyên viếng thăm
Manilla. Sau này ông đã được đề nghị giữ ghế thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia.
Người ta nhớ nhất về Thống Đốc Uyển
là những việc sau:
Chuyện Tín Nghĩa Ngân Hàng (TNNH hay
Con gà đẻ trứng vàng), một xì-căng-đan thời VNCH
Lúc đó Tín Nghĩa Ngân Hàng là một
trong những ngân hàng có tiếng tại Việt Nam, có nhiều chi nhánh tại Sài Gòn,
Chợ Lớn và tại các tỉnh (năm 1969, sau khi đậu cao học kinh tế tôi có về làm
tập sự tại ngân hàng ở VN và được gởi đi nhiều chi nhánh để biết về các nghiệp
vụ tài chính ngân hàng).
Ban thanh tra ngân hàng của Ngân
Hàng Quốc Gia có trách nhiệm theo dõi các nghiệp vụ cho vay của mọi ngân hàng
có mặt tại Việt Nam. Một người trong nhóm thanh tra có báo cáo “sơ hở” trong
quy trình cho vay của Tín Nghĩa Ngân Hàng và việc này đã trở thành xì-căng-đan
tài chính tại Việt Nam. Ông Nguyễn Tấn Đời, chủ tịch kiêm tổng giám đốc Tín
Nghĩa Ngân Hàng đã dùng một số bộ hạ, người thân tín trong gia đình để vay các
tín dụng. Ông quên rằng những việc làm này cũng khó mà qua mắt các thanh tra
ngân hàng của Ngân Hàng Quốc Gia. Những người đi vay mà tài sản quá thấp làm
sao có thể thế chấp để đi vay một số tín dụng khổng lồ của Tín Nghĩa Ngân Hàng.
Thật ra thì ông Nguyễn Tấn Đời đã sử dụng những người này, đứng tên vay tiền
cho cá nhân ông, rồi ông dùng số tiền tín dụng này để đầu tư cho cá nhân ông.
Thời đó chưa có tin học hay máy
computer, nên muốn kiểm tra phải tới tận nơi và khám xét trực tiếp các hồ sơ
cho vay (các sổ sách và tính toán đều làm bằng tay hoặc bằng máy NCR). Thống
Đốc Uyển đã trình Tổng Thống Thiệu và thảo luận với ngành cảnh sát hình sự để
giúp Ngân Hàng Quốc Gia đánh giá các hồ sơ cho vay của Tín Nghĩa Ngân Hàng.
Thống Đốc Lê Quang Uyển đợi lúc ông
Nguyễn Tấn Đời đi nghỉ ở Đà Lạt, để gởi các thanh tra ngân hàng làm cuộc truy
tìm các hồ sơ tín dụng gian lận của Tín Nghĩa Ngân Hàng. Các thanh tra chặn mọi
cánh cửa của Tín Nghĩa Ngân Hàng ở bến Chương Dương không cho hồ sơ thoát ra
ngoài. Trụ sở Tín Nghĩa Ngân Hàng không xa Ngân Hàng Quốc Gia, có lẽ độ 1,000 m
và cùng ở Bến Chương Dương. Qua việc kiểm tra này, các thanh tra đã tìm thấy
các hồ sơ tín dụng “dởm.” Lúc đó ông Nguyễn Tấn Đời là một tổng giám đốc ngân
hàng rất mạnh, có nhiều người che chở và việc kiểm tra sổ sách của Tín Nghĩa
Ngân Hàng là một kỳ công – phải được tổ chức như một chiến dịch quân sự.
Qua việc thanh tra này ông Lê Tấn
Đời đã bị đưa ra tòa. Ông bị tuyên án và phải vào khám Chí Hòa. Như thế, Thống
Đốc Lê Quang Uyển đã làm đúng trách nhiệm của NHQG là thanh tra chặt chẽ hệ
thống ngân hàng thương mại dưới quyền ông. Qua việc này, ông đã chận đứng các
lạm dụng trong ngành tài chính.
Việc giúp các chuyên gia khối kinh
tế tài chính – gởi đi làm việc tại các bộ
Một khó khăn của VNCH trong những
năm 1970 là thiếu ngân sách và khó tuyển mộ chuyên viên vì lương thấp. Trong
kinh tế, muốn có thăng bằng ngân sách thì chính phủ sẽ bán một số công khố
phiếu ra cho công chúng. Với tiền công khố phiếu, chính phủ dùng bù đắp thâm
hụt ngân sách.
Ngân Hàng Quốc Gia có nhiệm vụ tham
gia vào các chính sách tiền tệ và có đóng góp qua việc mua một số công khố
phiếu của chính phủ. NHQG mua một số công khố phiếu và tiền lời của công khố
phiếu được bỏ vào một quỹ của Ngân Hàng Quốc Gia. Thống Đốc Uyển quyết định
dùng số tiền lời này, để trả lương cho nhân viên kinh tế tài chính – mà lúc đó
VNCH đang rất thiếu – và cần một số lời được chia cho nhân viên của Ngân Hàng
Quốc Gia. Qua việc này, ông thống đốc giúp bồi đắp vào chỗ hổng tài trợ chuyên
viên, mà trước đây cơ quan USAID tài trợ nhưng ngân khoản viện trợ lại ngày
càng giảm. Qua việc này, một số chuyên gia đã được gởi đi làm tại các bộ như
Tài Chính, Nha Thuế Vụ hay Bộ Kế Hoạch, nói chung mọi nơi cần chuyên gia.
Ông cũng có chương trình kéo các chuyên
viên tài chính ngân hàng trẻ gia nhập NHQG, gầy dựng nhân sự cho tương lai ngân
hàng. Một số người trẻ, có khả năng và có tay nghề được tuyển mộ vào NHQG làm
trong văn phòng thống đốc.
Ngoài việc dùng quỹ tiền lời công
khố phiếu, Thống Đốc Uyển còn sử dụng Quỹ Phát Triển (QPT) Kinh tế Quốc Gia mà
ông làm chủ tịch Hội Đồng Quản Trị (HĐQT) gởi các chuyên viên của QPT đi giúp
các bộ. Quỹ Phát Triển là một chi nhánh – thành phần của NHQG được vốn của Hoa
Kỳ (USAID) trợ giúp. Ngoài việc tái tài trợ các ngân hàng phát triển Việt Nam
(Ngân Hàng Phát Triển Kỹ Nghệ, Ngân Hàng Phát Triển Nông nghiệp, SOFIDIV…) Quỹ
Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia có một số chuyên viên trẻ được gởi đi trợ giúp các
Bộ Kế Hoạch, Bộ Tài Chính qua việc tham gia vào công tác xây dựng Kế Hoạch Phát
Triển Hậu Chiến, nhất là sau khi Hiệp Định Paris được ký kết.
Thống Đốc Lê Quang Uyển cũng cố vấn
cho Tổng Thống Thiệu chọn người trong khối kinh tế tài chính, trong đó có việc
giới thiệu ông Nguyễn Văn Hảo vào Quỹ Phát Triển và sau này làm phó thủ tướng
đặc trách về kinh tế tài chính.
Giữ 16 tấn vàng cho Việt Nam
Trong những ngày chót của VNCH, Hoa
Kỳ muốn VNCH đưa 16 tấn vàng gởi dự trữ tại Ngân Hàng Trung Ương tại New York
(một việc làm bình thường vì đa số các nước đều có trương mục với ngân hàng FED
New York). Sau khi bàn bạc, Thống Đốc Lê Quang Uyển quyết định gởi các thoi
vàng qua Thụy Sĩ, tại Ngân Hàng Banque International Ressettlement – BIR ở
Basle.
Theo kinh nghiệm thế giới, nhiều
chính phủ Âu Châu trước đây, khi bị Cộng Sản xâm chiếm họ đã gởi vàng dự trữ
tại đây để tránh chiến tranh và sau này giữ được tài sản quốc gia. Một kế hoạch
đã được lập lên để chở 16 tấn vàng sang Thụy Sĩ chứ không phải sang Hoa Kỳ.
NHQG đã cho mướn một chuyến may bay để chở số vàng này qua Thụy Sĩ.
Trong lúc hỗn loạn của những ngày
miền Nam sắp mất, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích và máy bay được mướn chở
vàng không thể đáp xuống Tân Sơn Nhất, vì vậy kế hoạch gởi vàng qua Thụy Sĩ
không thực hiện được.
Vào những ngày chót, một số nhân
viên ngân hàng cấp cao đều được cấp Walkie Talkie để dễ liên lạc với nhau nhằm
bảo vệ tài sản cho Việt Nam. Thống Đốc Lê Quang Uyển tử thủ trong NHQG và chỉ
mở cửa NHQG khi Cộng Sản mang nhiều xe tăng đến định bắn vào NHQG.
Cộng Sản lúc nào cũng phao tin đồn
là cựu TT Nguyễn Văn Thiệu đã mang 16 tấn vàng đi nước ngoài trong khi nhiều
người cũng kể công về việc giữ số vàng này. Vậy sự thật ra sao? Bài báo sau đây
của nhân chứng nói về kiểm tra vàng tại NHQG do báo Tuổi Trẻ đăng:
Bài viết của tác giả Huỳnh Bửu Sơn
trên tờ Tuổi Trẻ trích đoạn như sau:
“…Những ngày đầu Tháng Năm, 1975,
tôi vào trình diện tại Ngân Hàng Quốc Gia ở 17 Bến Chương Dương, thủ đô Sài Gòn
cùng các đồng nghiệp khác, chỉ thiếu vắng một vài người. Chúng tôi được lệnh
của Ban Quân quản Ngân hàng Quốc gia là chờ phân công tác. Trong khi chờ đợi,
mỗi ngày mọi người đều phải có mặt tại cơ quan.
Lần kiểm kê cuối cùng… Việc kiểm kê
kho tiền và vàng là việc chúng tôi làm thường xuyên hằng tháng, hằng năm nên
cảm thấy không có gì đặc biệt. Chỉ có một điều là tôi biết lần kiểm kê này chắc
chắn là lần kiểm kê cuối cùng đối với tôi, kho tiền và vàng sẽ được bàn giao
cho chính quyền mới. Tôi không lo âu gì cả vì biết chắc rằng số tiền và vàng
nằm trong kho sẽ khớp đúng với sổ sách.
Trong những ngày hỗn loạn, các hầm
bạc của Ngân Hàng Quốc Gia vẫn được chúng tôi quản lý một cách tuyệt đối an
toàn. Cần nói thêm là các hầm bạc được xây rất kiên cố với hai lớp tường dày,
mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm bằng thép có hai ổ khóa và mật mã riêng,
được thay đổi định kỳ, mỗi cửa nặng trên 1 tấn.
Đại diện Ban Quân Quản là một cán bộ
đứng tuổi, khoảng 50. Cùng tham gia với ông trong suốt quá trình kiểm kê là một
anh bộ đội còn rất trẻ, trắng trẻo, đẹp trai và rất thân thiện. Anh hay nắm tay
tôi khi trò chuyện. Sau này tôi mới biết tên anh là Hoàng Minh Duyệt – chỉ huy
phó đơn vị tiếp quản Ngân Hàng Quốc Gia.
Số vàng đúc lưu giữ tại kho của Ngân
Hàng Quốc Gia vào thời điểm đó gồm vàng thoi và các loại tiền vàng nguyên chất.
Có ba loại vàng thoi: vàng thoi mua của Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ (FED); vàng
thoi mua của một công ty đúc vàng ở Nam Phi – Công ty Montagu; và vàng thoi
được đúc tại Việt Nam, do tiệm vàng Kim Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch
thu từ những người buôn lậu qua biên giới, phần lớn từ Lào.
Tất cả những thoi vàng đều là vàng
nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi
vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai
lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu
thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ
thép cũng bị vênh đi.
Các đồng tiền vàng được giữ trong
những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại,
được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau… Ngoài giá
trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ,
gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ
đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong
một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán (computer) của ngân hàng theo dõi định kỳ
hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho. Kết
thúc, ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền và vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách
điện toán từng chi tiết nhỏ. Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ
nhõm. Việc bàn giao tài sản quốc gia cho chính quyền mới đã hoàn tất. Sau chiến
tranh, ít nhất đất nước cũng còn lại một chút gì, dù khiêm tốn, để bắt đầu xây
dựng lại. Về phía chúng tôi, điều này cũng chứng minh một cung cách quản lý
nghiêm túc của những người đã từng làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia…”
Tác giả Huỳnh Bửu Sơn cũng liệt kê
từng tủ và từng hầm kho tàng. Và cuối bài viết, ông ghi: “Tổng cộng: 1.234
thoi vàng.”
Qua việc bảo tồn tài sản quốc gia,
việc này cho thấy là các công chức của NHQG và người đứng đầu là Thống Đốc Lê
Quang Uyển đã làm việc một cách nghiêm túc – với tinh thần trách nhiệm của một
công chức. Đó là niềm hãnh diện cho VNCH, không bỏ chạy (tình thần trách nhiệm)
và rất trung thực. Thống Đốc Lê Quang Uyển là một tấm gương soi sáng cho thế hệ
trẻ – cho tinh thần trách nhiệm của công chức miền Nam.
Thống Đốc Lê Quang Uyển và tù cải
tạo
Ông Uyển, cũng như nhiều người khác,
đã phải đi cải tạo trên 3 năm trong Nam (1975-1979). Trái với ông phó thống đốc
Ngân Hàng Quốc Gia là ông Dõng, ông Uyển không trình diện liền khi Cộng Sản kêu
gọi thành phần nội các ra trình diện học tập (họ không biết là thống đốc Ngân
Hàng Quốc Gia có hàm bộ trưởng.) Ông Phó Thống Đốc Dõng đã ra trình diện và bị
chết trong trại tù Thanh Cẩm, tỉnh Thanh Hóa. (Tôi còn gặp bà Dõng tại Sài Gòn
sau khi bà bị trục xuất ra khỏi nhà tại NHQG, khi tôi đi cải tạo về vào năm
1979).
Ông Uyển là một sĩ quan VNCH cấp bậc
đại úy và đã ra trình diện khi Cộng Sản gọi các sĩ quan cấp đại úy trình diện.
Ông bị đi tù cải tạo 3 năm.
Ông Lê Quang Uyển đã đi Pháp cùng vợ
vì bà vợ, chị Geneviève LyLap (một huynh trưởng nữ hướng đạo hệ Scout et Guide
de France, bà là công dân Pháp và là nhân viên Tòa Đại Sứ Pháp tại Sài Gòn).
Năm 1981, ông Uyển tham gia vào ngân
hàng Banque Indosuez. Ông được gởi làm giám đốc chi nhánh tại Saudi Arabia và ở
đây đến 1990. Ông đứng đầu chi nhánh “Al BankAl Saudi Al Fransi” (Saudi French
Bank), ngân hàng duy nhất của Pháp tại Ả Rập Saoudi. Sau 1990, ông Lê Quang
Uyển được phái đi làm cho nhiều chi nhánh của ngân hàng Indosuez tại nhiều nước
khác nhau.
Ông Lê Quang Uyển đã về hưu tại
Chiang Mai, Thái Lan. Ông là hình ảnh một công chức VNCH có tư cách và có tinh
thần trách nhiệm rất cao. Trong dịp 49 ngày ông qua đời (ba má và gia đình ông
Lê Quang Uyển theo đạo Cao Đài), tôi viết vài hàng này để đề cao tinh thần
trách nhiệm của cựu Thống Đốc Lê Quang Uyển.
Với tư cách một chuyên viên trẻ đã
từng có thời gian làm việc với ông, tôi xin thành kính chia sẻ nỗi buồn với chị
Uyển trong sự mất mát này và cầu mong ông sớm được về miền Cực Lạc.
TS.
Đinh Xuân Quân
California, Chủ Nhật, 18 Tháng
Ba, 2018
(*) TS Đinh Xuân Quân là cựu nhân viên Quỹ Phát Triển trực
thuộc NHQG. Ông là cựu giáo sư Đại Học Luật Khoa, Ban Kinh Tế, Đại Học Saigon
(khóa 1974-1975). Hiện nay ông là chuyên gia, cố vấn kinh tế cho Liên Hiệp Quốc
(UNDP+World Bank) và USAID tại nhiều nước như Afghanistan, Iraq, Indonesia…