“Bè” là sự kết nối những con người không cùng trang lứa. Tập
họp của Bè có thể là bao gồm những người cùng chung một sở thích, cùng chung một
nhiệm vụ trong xã hội…Sự sai biệt về tuổi tác có thể biến thiên từ nhỏ đến lớn.
Trong văn học Việt Nam và văn học trên cả thế giới, những
người viết văn đã mô tả , kể lể, tường thuật…về tình bạn. Nhưng sau khi bị “Phỏng
Giái” (đảo ngược của cặp chữ Giải Phóng , thời điểm sau 30 /4/1975), những người
viết văn VN mới viết nhiều hơn về người “bạn tù” (bạn đồng tù thì đúng hơn) .
Một người bạn gái của người viết đậu dược sĩ từ VN trước 1975, lấy chồng là một bác sĩ. Cả gia đình di tản sang Hoa Kỳ vào những ngày cuối tháng 4/75, gia đình có 2 con : một sinh tại VN, một sinh tại Hoa Kỳ. Sau hơn 25 năm sống chung, khi 2 con đã tốt nghiệp Đại Học, thì ông chồng đơn phương nạp đơn xin ly dị (mà không lỗi về ai cả). Ông chồng bác sĩ không về VN cưới vợ trẻ mà lập gia đình (làn thứ hai) với một người đàn bà khác, nhan sắc thì không bằng cô dược sĩ, địa vị trong xã hội thấp kém hơn và nhất là “nghèo” hơn. Tuy vậy cặp vợ chồng này lại trông rất là có hạnh phúc và vui vẻ.
Cô dược sĩ lấy làm thắc
mắc đem chuyện hỏi người viết. Xin tóm lược vài điều mà người viết trả lời cô
dược sĩ trong tính cách “bằng hữu” như sau :
1/ Người viết xin cô dược sĩ từ bỏ ý nghĩ “tự cao – tự đại”
như là : một người đàn bà xấu hơn mình, địa vị thấp kém hơn mình và nghèo hơn
mình thì không có quyền được hưởng hạnh phúc như mình đã có.
2/Người đàn ông khi lấy vợ là tìm một người “bạn đời” chứ họ
không muốn và không thích “vợ” là boss của mình !! Cô dược sĩ của tôi là boss của
ông chồng chứ không phải là bạn đời , cho nên ông chồng xin ly dị rồi lấy một
người khác sống rất hạnh phúc vì ông đã tìm được “bạn đời”.
3/Những người tài giỏi thành công trên nhiều phương diện lại
không có nhu cầu cần sống chung nhờ vả đối tác của mình. Công thức 1 + 1 = 2
không hữu hiệu trong đời sống hôn nhân và gia đình, theo ý kiến riêng của người
viết, công thức 1/2 + ½ = 1 hữu hiệu hơn vì về mặt hình thức, ít ra người này cấn
có nhu cầu sống chung với người kia.
Cái khó khăn của công thức này là 2 cái một nửa có matching
được với nhau không ? (Matching giống như một đôi giày phải cùng một size và một
chiếc giày phiá trái matching với một chiếc giày bên phải . Có vậy mới được gọi
là đôi giày) . Năm 1974, một nhà xã hội học của Pháp đề nghị công thức : “phân
nửa số tuổi của người chồng + 7 = số tuổi của người vợ”, thí dụ cậu con trai 20
tuổi nên lấy vợ được 17 tuổi, nếu người đàn ông 30 tuổi thì lấy vợ cỡ 22 tuổi
là vừa vặn. Nếu người đàn ông 50 tuổi thì nên lấy vợ cỡ 32 tuổi, và nếu ông già
80 tuổi thì tái hôn với một bà cỡ 47 hay 50 tuổi thì quá là OK.
Nhưng ông Heffner (chủ nhân tạp chí và công ty Playboys) đã
phá vỡ công thức này khi ông 87 tuổi cưới cô vợ thứ 5th mới có 22 tuổi.
Để chúc mừng đôi trai tài gái sắc này, xướng ngôn viên Nguyễn Hữu Công trên
chương trình phát thanh Little Sài Gòn vùng Nam Cali đã xin phép các thính giả
nghe đài cho ông sửa lời ca của bản nhạc “
60 năm cuộc đời” do cố nhạc sĩ Y Vân sáng tác từ những năm đầu của thập
niên 1960 như sau :
….năm anh 20 , bà nội
em mới sinh ra đời……...
….ngày anh 40, má em
mới sinh ra đời…..
….ngày anh 60, em mới
vừa ăn thôi nôi…
Cũng may là ông Heffner không nghe không hiểu tiếng Việt chứ
không thì ông sẽ kiện anh Nguyễn Hữu Công “tới bến” về cái tội “xâm phạm đời
tư” cá nhân của ông, làm ông “mắc cở” không dám đi ra ngoài vì sợ bọn con nít
Việt Nam hát “nhạc chế” để ghẹo ông vòi tiền ăn bánh kẹo.
Tháng 6/1978, tôi và một vài người bạn vượt biên ngả Khe
Sanh – Lao Bảo, dự tính vượt biên giới Lào – Việt qua Savanakhet, rồi vượt sông
Mekong để qua Thái Lan. Chúng tôi bị bắt ngay tại bến xe Khe Sanh vì mình không
giống với người địa phương, da mặt trắng trẻo, hồng hào có da có thịt, quần áo
lành lặn tươm tất, chân đi giầy và đầu đội mũ trong khi dân địa phương không có
cái gì cả (không phải họ trần truồng, nhưng quần áo của họ thì rách rưới, chân
đi đất, chỉ có vài người mang dép chứ tuyệt nhiên không có ai mang giầy ). Một
tuần sau chúng tôi bị chuyển về Trung Tâm Thẩm Vấn của Ty Công An Thừa Thiên một
thời gian ngắn, rồi bị chuyển lên nhà lao Thừa Phủ.
Tháng 8/1978, cả nhóm vượt viên bị chuyển từ nhà lao Thừa Phủ
lên Trại Cải Tạo Bình Điền để lao động (khổ sai). Tại đây, tôi gặp rất nhiều sĩ
quan cấp úy người miền Nam trong Sư Đoàn TQLC và một số Liên Đoàn BĐQ, tất cả đều
bị bắt làm tù binh từ tháng 3/1975 (trước khi Dương Văn Minh đầu hàng) nên họ
muốn biết tình hình sinh hoạt tại Sài Gòn. Lúc đó Trại Bình Điền chỉ có 2 phân
trại 1 và 2, tù nhân phải đi xây dựng lán trại cho phân trại 3, 4 và 5.
Tôi nói với Thiếu Úy TQLC Nguyễn Mạnh Tường của TĐ 4 TQLC và
Thiếu Úy Nguyễn Văn Thịnh của Liên Đoàn 15 BĐQ là tôi “đánh hơi” sẽ có cuộc tàn
sát tập thể tại trại tù Bình Điền này, qua một số dấu hiệu khả nghi như sau :
1 )Các tù nhân chỉ xây dựng lán trại chớ không được đào hào
chiến đấu cho vệ binh. Tất cả các hào chiến đấu của vệ binh không phải là hào
kiểu chữ A hay kiểu chữ L, mà là kiểu hào có “cù lao ở giữa” để đặt súng liên
thanh và súng cộng đồng cỡ lớn.
2) Tất cả những hào chiến đấu đều trên cao điểm và ngó vào
các trại tù.
3) Từ Sài Gòn ra Huế nên tôi biết việc chiến tranh với Trung
Cộng là điều tất yếu sẽ xảy ra, Việt Cộng chuyển quân trang quân dụng cũng như
vũ khí nặng bằng đường xe lửa xuyên việt.
4) Người Hoa được khuyến cáo nên rời khỏi VN càng sớm càng tốt
(chính tôi nghe đài Bắc Kinh nói tiếng Việt kêu gọi ngày đêm).
6) Quân đội Trung Cộng không có tàu đổ bọ và Hải Quân rất yếu
kém nên luận điệu của Ban Giám Thị nói là đào hào để chống quân xâm lược Trung
Quốc là điều láo lếu. Quân Trung Cộng chỉ có bộ binh và pháo binh, cho nên khi
chọc thủng 2 phòng tuyến Cao Bằng - Lạng
Sơn và phòng tuyến Hà Giang – Lai Châu rồi tiến gần vào Hà Nội thì bọn VC sẽ
tàn sát bọn tù như bọn mình.
Tôi và anh Khiêm (dân Tây Ninh của sư đoàn 25 Bộ Binh) sẽ trốn
trại , Thiếu Úy Nguyễn Trọng Tường thắc mắc là chúng tôi không biết đường,
không chuẩn bị lương thực và nước uống thì làm sao về tới Sài Gòn được. Tôi giải
thích cho ông bạn của tôi là điểm chính của cuộc vượt trại này là sẽ bị bắn chết
để cả 2 chúng tôi sẽ được chôn cất riêng trên đồi, chứ không nằm trong hố chôn
tập thể trong trại. có gì đi nữa thì mai sau người nhà từ trong Nam ra dễ kiếm
thân xác được chôn riêng hơn là tìm trong hố chôn tập thể. Thiếu Úy Tường đồng
ý với lối lập luận này.
Vài ngày sau, chúng
tôi lên đường, nhưng bị bắt ngay trong 2 giờ loanh quanh trong rừng. Tôi bị bắn
trúng xớt lưng , viên đạn AK -47 xém chừng 2- 3 milimét là chạm tủy sống. Cả 2
chúng tôi bị nhốt cùm 2 chân trong nhà nghiêm giam, 2 tuần sau khi tôi bị bắt,
Thiếu Úy Tường bị đưa vào nhà nghiêm giam với cái mặt sưng vếu vì cái tội rải
truyền đơn viết tay “Đả Đảo Cộng Sản”.
Anh bạn Tường thổ lộ tâm sự là muốn làm chuyện động trời này
để bị VC “xử tử” về tội “phản động chống phá Cách Mạng”, nghĩa là cũng muốn được
chôn riêng trên đồi chứ không muốn chôn chung trong hố chôn tập thể.
Thời gian bị cùm khá lâu nên tôi được Tường kể cho nghe về
tiểu sử của Tường trong Tiểu Đoàn 4 TQLC như sau :
Năm 1967, khi chưa có kết quả kỳ thi Tú Tài 1, Tường rời nhà
dòng bỏ tu về nhà vì thân sinh qua đời, bà mẹ đang bị bệnh phải nằm nhà thương
Saint Paul Sài Gòn, Tường đút lót để làm lính kiểng của quân cụ ở trại Phan Thanh Giản đầu đường Trần Quốc Toản, gần
ngã sáu Hiền Vương - Lê Văn Duyệt. Vì là
chủng sinh học trong trường đào tạo tu sĩ nên sinh ngữ rất khá, Tường apply đi
làm Sở Mỹ ở căn cứ Long Bình. Vào bệnh viện Saint Paul thăm mẹ, Tường gặp nữ
bác sĩ T. săn sóc cho bà cụ. Tường đã mượn lon Thiếu Úy của chef trong đơn vị để
lấy le với bác sĩ T. Cô bác sĩ tin ngay vì “Thiếu Úy “ Tường có lambretta đời mới
chở cô đi ăn kem và khiêu vũ tại vũ trường vào những ngày cô rảnh rỗi.
Năm 1971, tất cả lục quân Hoa Kỳ rút về nước nên Tường bị
Lay-off, Tường trở về làm anh lính gác cổng của trại Phan Thanh Giản Một hôm khoảng 2 giờ chiều cô bác sĩ lái xe
Mini Cooper của hãng Austin – England đi trên đường Trần Quốc Tỏan để tới bệnh
viện Saint Paul làm việc. Vô tình cô bác sĩ ngó vào cổng trại thì thấy “Thiếu
Úy” Tường (lúc này là binh nhì nên không có lon Thiiếu Úy trên cổ áo) đang kéo
con ngựa có bánh xe để cho xe ra vào cổng
trại. Đi lố một chút, nhưng cô lui xe lại rồi quẹo vào cổng trại, thắng xe ngay
trước hàng rào, mở cửa xe bước xuống rồi tát cho Tường một cái tát nẩy lửa.
Xong cô bác sĩ leo lên xe lui lại rồi bẻ tay lái vọt khỏi cổng.
Ông Trung Úy chef ca trực thấy hết từ đầu đến cuối, ông chạy
ra hỏi han với giọng thông cảm : ” Bà giáng rồi hả?”. Tường nói mình cảm thấy
quá nhục nhã, nên ngay tối hôm ấy làm đơn xin đi học khóa 4/71 Thủ Đức. Sĩ quan
trưởng trại Phan Thanh Giản còn cẩn thận hỏi lại :”cậu có biết là sau khi tốt nghiệp
Thủ Đức , cậu không có quyền ưu tiên chọn về Quân Cụ không ?” . Tường trả lời
“Dạ biết”
Sau 12 tuần huấn nhục, Tường được gắn alpha, và được đi phép
đầu tiên. Cùng hàng trăm SVSQ bước xuống xe buýt quân đội đậu trước khu vực nhà
sách Khai Trí, Tường bắt gặp cô bác sĩ đang đứng trước nhà sách ngó mình chăm
chăm vừa ngạc nhiên như muốn hỏi : “ Ủa, mới mấy tháng trước là binh nhì gác cổng
mà sao bây giờ đã là SVSQ ?”.
Tường nói với tôi “mình quê quá, không dám chào nữa là, chứ
nói gì đến chuyện giải thích này nọ”. Thế rồi vội vàng lên xe Honda ôm vọt mất.
Tới Mùa Hè Đỏ Lửa, khóa 4/71 ra trường là ra nhận đơn vị luôn không được về
phép 10 ngày như thông lệ. Tường nhận đơn vị là Tiểu Đoàn 4 TQLC do Trung Tá Trần
Xuân Quang (biệt danh là Quang Bóp Cổ) làm Tiểu Đoàn Trưởng. Mãi tới khi Sư
Đoàn TQLC cắm cờ VNCH trên Cổ Thành Quảng Trị ngày 16 tháng 9 năm 1972, Tường mới
được đi phép 10 ngày về Sài Gòn thăm nhà.
Khi hết phép trở lại đơn vị, hậu cứ Sư Đoàn chỉ định Thiếu
Úy Nguyễn Trọng Tường chỉ huy tất cả các quân nhân hết phép trở lại đơn vị.
Tình cờ làm sao, cô bác sĩ T. lại cầm đầu phái đoàn CARITAS Sài gòn đem phẩm vật
cứu trợ ra Huế. Ngồi trên máy bay , cô biết chắc đây là ông Thiếu Úy thứ thiệt
do quân phục có cầu vai giống như sĩ quan Hải Quân của Binh Chủng TQLC, nhất là
các quân nhân xưng hô trình báo với Thiếu Úy thì không thể giả mạo được.
Thiếu Úy Nguyễn Trọng Tường say sưa nói với tôi “Kỷ niệm đẹp
của tôi với bác sĩ T. là cặp mắt vừa ngây thơ, vừa thắc mắc, vừa muốn tôi giải
thích mà lại không dám yêu cầu. Thôi cứ để cô bác sĩ nghĩ sao về mình cũng được”
.
Thiếu Úy Nguyễn Trọng Tường rời khỏi nhà kỷ luật vào cuối
năm 1981, rồi vài tháng sau anh bạn của tôi được thả về Sài Gòn. Bà Mẹ tổ chức
cho Tường vượt biên vào khoảng 1983 và Tường định cư ở Australia. Khi tôi về tới
Sài Gòn tháng 6/1984 thì không gặp được Nguyễn Trọng Tường. Tới năm 1990, Tường
có qua Nam Cali, chúng tôi có nói chuyện với nhau qua điện thoại của một người
bạn. Từ đó đến nay đã 28 năm không biết thêm tin tức gì khác.
Ngày 21 tháng 3 năm 2018 vừa qua, tôi đã tham dự lễ an táng
anh bạn Trần Văn Loan (qua đời ngày 12 tháng 3 năm 2018 thọ 71 tuổi - 1947 –
2018, sau vài năm bị bệnh gan trầm trong) được chôn cất tại nghĩa trang Oaks
Hill San José. Gọi là anh bạn vì anh lớn hơn tôi 3 tuổi, thi đậu Tú Tài và vào
học chứng chỉ Dự Bị Toán Lý Hóa (MPC) ở Đại Học Khoa Hoc Sài Gòn trước tôi 3
năm. Anh tình nguyện nhập khóa 23 Trường Võ Bị Quốc Gia Dalat năm 1966 và tốt
nghiệp vào tháng 12 năm 1970. Anh chọn binh chủng TQLC và đã tham dự các trận đánh
lớn ở vùng hỏa tuyến như trận Hạ Lào năm 1971, Mùa Hè Đỏ Lửa Quảng Trị 1972 ( đại
đội của anh đã bắn cháy chiến xa T 54 ngay tại cầu Đông Hà giúp cho các đơn vị
bạn kịp thoát về phía Nam và 2 Lữ Đoàn TQLC đã lập được tuyến phòng thủ vững chắc
tại sông Mỹ Chánh làm quân xâm lăng Bắc Việt bị chận đứng tại tuyến Mỹ Chánh
này).
Dĩ nhiên anh Trần Văn Loan có tham dự chiến dịch tái chiếm
Quảng Trị của Sư Đoàn TQLC : chiến dịch này do Trung Tướng Ngô Quang Trưởng
phát động dự trù bắt đầu từ 19-6-1972 đến 19-9-1972, kế hoạch này của Trung Tướng
Ngô Quang Trưởng hoạch định đã được Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận. Sư Đoàn TQLC đã cắm cờ VNCH trên Cổ Thành Quảng
Trị vào ngày 16 tháng 9 năm 1972, nghĩa là trước thời hạn quy định đúng 3 ngày.
Anh Trần Văn Loan bị
VC bắt làm tù binh tại cửa biển Thuận An vào ngày 25 tháng 3 năm 1975 khi tàu đổ
bộ của Hải Quân bị mắc cạn không thể
chuyên chở TQLC rút về Đà Nẵng được, lúc đó Đại Tá Nguyễn Thành Trí – Tư Lệnh
Phó của Sư Đoàn TQLC , đang ở ngoài khơi cửa biển Thuận An chỉ huy cuộc rút
quân từ Huế về Đà Nẵng. Đại Tá Nguyễn Thành Trí phải xin lệnh của Thiếu Tướng
Bùi Thế Lân – lúc đó đang ở Đà Nẵng. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân ra lệnh cho Đại Tá
Nguyễn Thành Trí bỏ lại tất cả 4 tiểu đoàn TQLC rút về Đà Nẵng, lý do thật giản
dị vì Hải Quân không thể áp sát vào bờ biển để bốc binh sĩ lên tàu được. Sau
này, anh Trần Văn Loan cho biết là anh ở tù chung với Thiếu Úy Hải Quân - thuyền trưởng chiếc tàu đổ bộ bị
mắc kẹt ở cửa biển Thuận An ngày 25 tháng 3 năm 1975 (lâu ngày quá tôi quên mất
tên của vị Thiếu Úy thuyền trưởng này). Chi tiết này được anh bạn học thời
trung học CVA của tôi là Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân –tốt nghiệp khóa 27 Trường
Võ Bị Quốc Gia , đứng cạnh ngay Đại Tá Nguyễn Thành Trí vào thời điểm đó.
Sau nhiều lần di chuyển qua các trại tù Khe Sanh, Cồn Tiên,
Ái Tử… năm 1977 các tù binh được chuyển giao lại cho Công An và chuyển tới Trại
Cải Tạo Bình Điền (nằm giữa Lăng Minh Mạng
và căn cứ Phú Xuân của Sư Đoán 1BB hướng về
thung lũng A Sao – A Lưới).
Anh Trần Văn Loan nhiều lần trốn trại nhưng không thoát ,
anh bị cùm 2 chân nhốt trong conex trong nhiều năm dài. Một bữa khi Trật Tự
tháo cùm để anh ra giếng tắm, anh Trần Văn Loan lững thững qua cổng ra vào của
trại bước ra ngoài. Lính canh bắn súng báo động, bọn vệ binh xúm vào bắt anh
trói gọn rồi giải lên văn phòng Giám Thị Phân Trại Trưởng. Đại Úy Nguyễn Văn Ái
– Giám Thị Phân Trại Trưởng Phân Trại 4 ra lệnh cho vệ binh cởi trói và ông ta
nói với anh Loan : “ Mày Đại Úy, Tao
cũng Đại Úy, mày biết thừa là cấp Đại Úy chỉ là tay sai chớ đâu có quyền quyết
định gì đâu. Tao chỉ có nhiệm vụ giữ mày thôi, quyền phóng thích nằm ở Bộ Nội Vụ
ngoài Hà Nội. Mày còn trẻ hãy giữ mạng sống để làm chuyện có ích khác. Tao coi
mày như em, có thể nói thẳng với mày ý nghĩ của tao vì tao sắp “phục viên” rồi,
chế độ này không coi tụi mày
ra gì đâu, nếu được thả về với gia đình thì phải tìm cách vượt biên ra nước
ngoài thì mới sống được”. Thấy
Đại Úy Ái chân tình, anh Loan hứa sẽ không vượt ngục nữa.
Do đó anh Loan được thả cùm, ra ngoài ở - không còn bị nhốt
trong nhà nghiêm giam và đi lao động như anh em tù khác. Nhờ vậy, dù ở phân trại
1 tôi đã gặp anh Loan ngoài ruộng sắn của phân trại 2 vào thời điểm tháng 6 năm
1982. Tháng 6 năm 1984, tôi được trả về Sài Gòn và không biết số phận của anh
ra sao. Tháng giêng năm 1988 tôi vượt biên sang Thái Lan, khi bước vào trại
Phanat Nikhom tôi được một bạn trẻ cũng ở tù tại phân trại 2 loan báo là anh
Loan đã ở trại Phanat Nikhom được 1
tháng rưỡi rồi. Thật là một cơ may hiếm hoi vì vào thời điểm đó, trong trại
Phanat Nikhom chỉ có 3 người ở tù chung
tại Trại Cải Tạo Bình Điền trên tổng số khoảng 18,000 thuyền nhân và bộ nhân
(vượt biên bằng đường bộ qua biên giới Thái – Miên ngả Siemreap – Battambang) tạm
trú trong trại tỵ nạn.
Tháng 4 năm 1988, anh Loan triệu tập tất cả các cựu quân
nhân QL/VNCH để tổ chức NGÀY QUỐC HẬN 30-4-1975 , anh đích thân soạn diễn văn để đọc tại buổi lễ
với nội dung lược sử ý nghĩa NGÀY QUỐC HẬN để cho Ban Lãnh Đạo của Trại Tỵ Nạn
(người Thái Lan) , Đại Diện Cao Ủy LHQ về Tỵ Nạn tại Thái Lan và đồng bào VN
trong trại hiểu rõ vấn đề (bản dịch ra Anh Ngữ do Giáo Sư Tôn Thất Cung- nguyên
thông dịch viên của cơ quan MACV tại Sài Gòn , phụ trách).
Tháng 8/1988, anh được chuyển qua trại Bataan – Philippines
để học đời sống tại Hoa Kỳ và nhập cư tại San José vào đầu năm 1989. Tôi gặp lại
anh tại trường Element School ROBERT KENNEDY trên đường Lucretia – San José
trong dịp kỷ niệm 30-4 tại San José. Hội trường của trường tiểu học nhỏ bé quá
không đủ sức chứa số người tham dự, nên những lần sau các buổi lễ đều được tổ
chức tại công viên St James. Kỷ niệm đáng nhớ của tôi là nhân kỳ Việt Cộng tổ
chức EXPO 1994, anh Loan làm trưởng ban tổ chức cuộc biểu tình chống đối bọn VC,
chúng tôi từ San José lên SF bằng nhiều
phương tiện cá nhân khác nhau nhưng anh Loan và Ủy Ban Bảo Vệ Chính Nghĩa Quốc
Gia Bắc Cali có thuê 2 xe bus để chở đồng bào lên SF biểu tình. Ngay tại hiện
trường, anh Loan cầm loa tay hô hào và điều động đồng bào, đi đi lại lại không
ngừng nghỉ để phòng hờ một số người quá khich vượt khỏi nơi qui định mà Cảnh
Sát SF quy định cho doàn biểu tình.
Hai vợ chồng người bạn (quen biết anh Loan và tôi trong trại
Phanat Nikhom) thấy anh Loan đã lớn tuổi mà chưa lập gia đình nên định giới thiệu
anh Loan với vài bà bạn của họ. Một người trả lời như sau : “ Thôi tôi biết ông
Loan rồi, qua Mỹ không lo làm ăn mà cứ tối ngày đi biểu tình chống Cộng không
à,như vậy làm sao có thì giờ và tiền bạc dẫn vợ con đi shopping…”. Tôi nói với
anh Loan là tấm gương biểu tình chống Cộng của anh làm mấy bà “kỹ sư” Việt Nam né tránh. Thật thà, anh nói lại
“thân phận tỵ nạn của mình làm sao đủ kích thước để với tới mây cô “kỹ sư” ở
Silicon Valley này”. Tôi giải thích : “Kỹ sư mà tôi nói với anh không phải là
engineer, mà là SƯ TÍNH KỸ”. Anh chỉ cười trừ, anh tâm sự : “trước 1975, tôi đi
lính TQLC là loại lính “sống hùng + sống mạnh nhưng khó sống lâu” nên các cô
cũng e ngại phải nghĩ đến tương lai có thể góa bụa. Cũng may là khi ở tù VC
mình chưa có gia đình, chứ nếu có thì Vợ đi đằng Vơ, Mình đi đắng Mình chứ ai mà
chờ được mình, vì biết bao giờ bọn VC mới thả mình ra.”
Anh cho tôi biết, anh trốn trại liên tục không phải vì muốn
trở lại Sài Gòn tìm gia đình mà là cứ bị ám ảnh về chuyện bọn Việt Cộng chôn sống
tập thể như hồi Mậu Thân 1968, VC đã chôn sống hơn 7,000 người tại Huế trong những hố chôn ở nhiều nơi khác nhau..
Khi trốn trại , sác xuất bị bắn chết lên tới 99% nhưng anh Trần Văn Loan không
sợ vì nếu bị bắn chết, mình sẽ được chôn riêng trên đồi, 10 năm - 20 năm sau, thân nhân của mình ra Huế tìm
mình thì sẽ dễ kiếm thấy hơn là tìm trong những hố chôn tập thể những 700 - 800
người tại mỗi phân trại của Bình Điền. Tôi hoàn đồng ý với anh vì tôi cũng có
cùng suy nghĩ như anh hồi tôi trốn trại ở phân trại 1 vào tháng 2/1979 !
Tuổi già là con tàu đắm, từ 2012 anh Loan đã yếu lắm rồi, tiểu
đường, cholesterone cao, áp huyết cao, thận bị suy mà còn bị thêm chứng “đau
gan trầm trọng”. Tuy vậy anh Loan vẫn cố gắng nhờ bạn bè hay đàn em trong Võ Bị
chở ra 70 West Hedding (tiền đình của Santa Clara County) để dự lễ chào cờ đầu
năm, tham dự NGÀY QUỐC HẬN 30-4, hay kỷ
niệm Ngày Quân Lực 19-6. Có lần tôi gặp anh thấy anh tươi tỉnh hồng hào và mập
mạp, tôi khen bây giờ anh “đẹp lão” ra phết, anh ghé tai tôi nói nhỏ “ hồng hào
gì ông ơi, mặt đỏ vì áp huyết đang lên cao , còn mập mạp thì đúng là phồn vinh
giả tạo vì mình đang bị thận yếu, nước cứ đọng lại bên trong,làm da bị phù lên
đó thôi…”
Đám tang của anh đặc biệt không có thân nhân đeo khăn tang
(chỉ có 2 vợ chồng người chị ruột của anh Loan từ Philadelphia sang San José tiễn
đưa em trai xuống lòng đất). Số người đến dự lễ an táng anh Trần Văn Loan đều
là bạn bè thân hữu , đông nhất có thể kể
là đại gia đình của Thủy Quân Lục Chiến, đại gia đình các Cựu Sinh Viên
Trường Võ Bị Quốc Gia Dalat, đại gia đình các cựu quân nhân quân binh chủng
khác trong Liên Hội Cựu Quân Nhân Bắc Cali, các thân hữu của anh Loan trong Ủy
Ban Bảo Vệ Chính Nghĩa Quốc Gia Bắc Cali, một số quý vị đại diện cho các đảng
phái chính trị sinh hoạt tại Bắc Cali…Đám tang của anh Trần Văn Loan cũng không
có bất cứ nghi thức tôn giáo nào , đặc biệt có quân nhạc thổi kèn clarinette để
gửi lời chào Tiễn Biệt với người quá cố do chính anh Vịnh thực hiện ( Anh Vịnh
là bạn đồng khoá 23 của Trường VBQG Dalat – Anh Vịnh thuộc Quân Nhạc thứ thiệt trước khi
gia nhập Trường Võ Bị)
Khi qua đời ở tuổi 71, tôi phỏng đoán là anh Trần Văn Loan
có 2 thống khoái ( = có cảm giác thích
thú, thỏa mãn đến cực độ) :
1/ Thống khoái thứ nhất : anh không còn bị ám ảnh đến chuyện
bị chôn sống tập thể, anh cũng không sợ bị di dời hay “nhà nước cần lấy đất
nghĩa trang để phục vụ cho quyền lợi của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản”.
2/ Thống khoái thứ hai : anh biết chắc là khi về “cõi âm”,
anh không phải đi “họp tổ” để “học tập chính trị”. Nằm xung quanh ngôi mộ của
anh là những người Mễ, Mỹ đen, người Hoa, người Việt…họ rất “dễ chiịu” (“nice”) với anh khi lúc sống cũng
như khi xuống cõi âm, khác với bọn VC lúc nào cũng mang tính kỳ thị, luôn đòi
xét duyệt lý lịch và miệng thì cứ xoen xét “đấu tranh giai cấp là động lực thúc
đẩy xã hội tiến bộ”.
Tháng 8/1988, khi vừa tới Philippnes, anh Loan có gửi thư
cho tôi ,trong đó anh thuộc nằm lòng 2 câu thơ của Đặng Dung :
….Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
….Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm
mài bóng nguyệt đã bao rày.
Nay tôi xin giở lại cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim
để chép lại nguyên tác bài thơ Thuật Hoài bằng chữ Hán Nôm của danh tướng Đặng
Dung đời Hậu Trần, cũng như bài thơ được chuyển qua chữ quốc ngữ của sử gia Trần
Trọng Kim để chúng ta cảm thông với anh Trần Văn Loan về nỗi u hoài của anh.
THUẬT HOÀI của Đặng
Dung
Thế sự du du nại lão
hà
Vô cùng thiên địa nhập
hàm ca,
Thời lai đồ điếu thành
công dị,
Sự khứ anh hùng ẩm hận
đa.
Tri chủ hữu hoài phú địa
trục,
Tẩy binh vô lộ vãn
thiên hà.
Quốc thù vị phục đầu
tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đái
nguyệt ma !
Bản dịch chữ
nôm của sử gia Trần Trọng Kim như sau :
Việc đời bối rối tuổi già
vay,
Trời đất vô cùng một cuộc
say,
Bần tiện gặp thời lên
cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm
càng cay.
Vai nghiêng trái đất mong
phò chúa,
Giáp gột sóng trời khó vạch
mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết
bao rày.
San José ngày 04 tháng 4 năm 2018
Trần Trung Chính