Sunday 27 May 2018

Ngày giỗ tưởng niệm nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh 24-6-2018

Lời Mời...

Liên Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian cùng Minh Đức Hoài Trinh Foundation đồng tổ chức ngày giỗ tưởng niệm một năm ngày vãng sinh của nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh tại Hội Trường Việt Nam Tương Tế,7621 Westminster Blvd., Westminster, CA 92683. 

Vào Chủ Nhật 24 tháng 6, 2018, từ 1 PM-4PM.
Trân trọng kính mời. Vào cửa tự do.

LN NVNT & TTG

Nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh của ‘Kiếp Nào Có Yêu Nhau’ qua đời, Đỗ Dzũng/Người Việt: https://www.nguoi-viet.com/littl…/nu-si-minh-duc-hoai-trinh/
Ra mắt Sám Hối của Minh Đức Hoài Trinh:
http://www.ninh-hoa.com/VietHai-NhungNhaVanNu-FrancoiseSaga…
------------------------------------------------------------------------------------
Cho một kiếp mơ được yêu nhau
Tác giả hai bài thơ đã cùng âm nhạc của Phạm Duy trở thành bất hủ trong lòng người Việt, nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh, đã ra đi vào ngày 9/6/2017 tại miền Nam California. Một cái tên lớn của văn hoá Việt Nam đã hoá mây về trời trong những ngày ở quê nhà đầy mưa và mây xám.

Kiếp nào có yêu nhau và Đừng bỏ em một mình, là đôi tác phẩm trong hàng loạt các sáng tác của bà như truyện ngắn, truyện dài, thi tập… mà danh mục có đến 17 ấn bản, từ năm 1960 đến 1990.

Tài liệu về bà, chủ yếu được trích từ sách “Văn nghiệp & cuộc đời Minh Đức Hoài Trinh” do phu quân của bà là Nguyễn Huy Quang chép lại (sách đề tác giả là Nguyễn Quang). Hiện sách gần như tuyệt bản. Trong đó nói rõ tiểu sử của bà như sau:

“Minh Đức Hoài Trinh tên thật là Võ Thị Hoài Trinh, bà thường lấy các bút hiệu là Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh, Bằng Cử. Bà sinh ngày 15 tháng 10 năm 1930 tại Huế, sống ở Pháp từ năm 1953 đến 1964. Sau đó bà đến định cư tại quận Cam, Hoa Kỳ từ năm 1982. Tên tuổi của Minh Đức Hoài Trinh không ai trong giới văn học không biết. Bà sinh tại Huế, con quan Tổng Đốc Võ Chuẩn, Ông Nội bà là Võ Liêm, Thượng Thư Bộ Lễ của triều đình. Năm 1945 Bà tham gia phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp, sau đó Bà biết sự lợi dụng của phong trào nên bà bỏ về Huế tiếp tục học.

Năm 1964 bà đi du học tại Pháp về ngành báo chí và Hán văn tại trường ngôn ngữ Đông Phương La Sorbonne, Paris đến năm 1967 bà ra trường và làm phóng viên cho đài truyền hình Pháp ORTF, lúc đó bà đi làm phóng sự nhiều nơi sôi động nhất như: Algerie và chiến trường Việt Nam. . . Năm 1972 bà được cử theo dõi và tường thuật cuộc hòa đàm Paris. 1973 Bà sang Trung Đông theo dõi cuộc chiến Do Thái, một thời gian sau bà trở về Việt Nam giảng dạy khoa báo chí tại Viện Đại Học Vạn Hạnh năm 1974-1975.

Sau biến cố 1975 bà trở lại Paris cho xuất bản tạp chí “Hồn Việt Nam” và trở lại cộng tác với đài phát thanh ORTF với chương trình Việt ngữ để tranh đấu cho những nhà cầm bút, những văn nghệ sĩ Việt Nam bị cộng sản cầm tù. Bà đứng ra thành lập Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và vận động để được công nhân hội viên Hội Văn Bút Quốc Tế tại Rio de Janeiro, Ba Tây vào năm 1979″…
Về câu chuyện văn bút quốc tế, có rất nhiều chi tiết đáng ngưỡng mộ tâm sức của bà.

Sau năm 1975, rất nhiều hội đoàn chính danh liên kết với quốc tế của miền Nam Việt Nam như Hướng đạo sinh, Ngân hàng, báo chí… đều bị đứt đoạn. Hội nhóm văn chương tự do của miền Nam sau thời điểm đó đều tan tác, mỗi người một hướng.

Theo quy định của Văn bút Quốc tế, muốn tái lập, thì tổ chức nhân danh quốc gia đó phải có ít nhất là 20 thành viên. Từ một nền văn hoá có đến hàng ngàn danh sĩ của miền Nam, việc liên lạc và tập hợp 20 người vào năm 1977 đến 1979 đã trở nên khó khăn vô cùng, nhất là khi cuộc sống của người Việt di tản còn vất vả và ly tán.

Năm 1978, nữ thi sĩ và là nhà báo Minh Đức Hoài Trinh một mình tham dự Đại Hội Văn Bút Quốc Tế kỳ 43 tổ chức ở Stockholm, Thụy Điển, và đơn độc một tiếng nói Việt Nam ở đó, bà vận động các nhà văn và các bút nhóm quốc tế quen biết ủng hộ cho việc thành lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (Vietnamese Abroad Pen Centre) chính danh là thành viên của Pen International, với lý do nối kết lại hoạt động của giới trí thức tự do Việt Nam sau chiến tranh. Đây là việc mà ai cũng thấy là vô hy vọng vì sự chống đối mạnh mẽ của phe thân cộng, lúc đó đang nổi lên trong Pen International. Nhưng kết quả bỏ phiếu thì thật bất ngờ: 23 phiếu thuận – 23 phiếu chống. Rất nhiều nhà văn trong hội đồng đã cảm động trước tâm nguyện của bà nên đã bỏ phiếu đồng ý. Tiếc là kết quả không như ý.

Năm 1979, tại Đại Hội Đồng Văn Bút Quốc Tế kỳ 44 ở Rio de Janeiro, Brazil, cuộc vận động của nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh thành công. Và Văn Bút Việt Nam Hải ngoại tồn tại đến ngày hôm nay, vẫn chính danh là nhánh văn bút quốc tế thuộc Pen International.

Mục đích và tâm lực của nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh là muốn xây dựng một tiếng nói truyền thông có tầm quốc tế cho giới trí thức người Việt đang phải ly tán, nhất là vào lúc khi muốn cất tiếng thì lại quá lạc loài. Tầm nhìn của một phụ nữ như bà, vào thời gian ấy, quả thật đáng ngưỡng mộ.

Từ năm 1982, Minh Đức Hoài Trinh định cư ở Hoa Kỳ, sau đó ở gần nơi cư trú của nhạc sĩ Phạm Duy. Nơi Midway City, mà ông thường diễn dịch một cách thơ mộng là Thị trấn giữa đàng.

Nói về cơ duyên của sự kết hợp thi ca và âm nhạc của Kiếp nào có yêu nhau và Đừng bỏ em một mình, nhạc sĩ Phạm Duy có ghi lại trong hồi ký Vang vọng một thời: “Tôi bấy giờ đang là quân nhân… bỗng gặp lại Minh Đức Hoài Trinh lúc đó được mười bảy tuổi từ thành phố Huế thơ mộng chạy ra với kháng chiến. Nàng còn đem theo đôi gót chân đỏ như son và đôi mắt sáng như đèn pha ô tô. Từ tướng Tư lệnh Nguyễn Sơn cho tới các văn nghệ sĩ, già hay trẻ, độc thân hay đã có vợ con… ai cũng đều mê mẩn cô bé này. Phạm Ngọc Thạch từ Trung ương đi bộ xuống vùng trung du để vào Nam bộ, khi ghé qua Thanh Hóa, cũng phải tới Trường Văn hóa để xem mặt Hoài Trinh. Hồi đó, Minh Đức Hoài Trinh đã được Đặng Thái Mai coi như là con nuôi và hết lòng nâng đỡ.

Năm 1954, tôi gặp Minh Đức Hoài Trinh lần thứ ba khi tôi tới Paris ở khoảng hai năm. Nàng đã rời Việt Nam, đang sống với một người em trai trong một căn phòng nhỏ hẹp. Ba lần gặp nhau là rất hy hữu, tôi bèn giao lưu với nàng và soạn được hai bài ca bất hủ”…

Là người sống cùng thời đại với nữ văn sĩ Pháp Francoise Sagan, và cũng là người theo Tây học nhưng tư tưởng bàng bạc theo thuyết cõi tạm của Phật giáo, ngôn ngữ của bà luôn u uẩn nhưng dữ dội và đắm đuối đến ngộp thở, đọc lại vẫn bàng hoàng:

“Đừng bỏ em một mình
Trời đất đang làm kinh
Rừng xa quằn quại gió
Thu buốt vết hồ tinh”

Hay

“Kiếp nào có yêu nhau
Nhớ tìm khi chưa nở
Hoa xanh tận nghìn sau
Tình xanh không lo sợ”

Hoặc trong bài “Tình chúng mình sẽ được vẽ lên tranh” có đoạn:

“Anh còn sống là mình còn xa cách
Vì cuộc đời hay ghét kẻ yêu nhau
Vì hạnh phúc phải xây trên nhiều thử thách
Xã hội điên cuồng, nhân loại ngợp thương đau”

Tạm biệt bà, một danh nhân của nền văn hoá đầy sức sống mãnh liệt của miền Nam Việt Nam tự do. Thêm một người nữa đã khuất, và thêm những núi đồi hùng vĩ lại mọc lên mà hậu sinh sẽ cứ phải ngước nhìn trong trầm mặc. Những ngọn núi nhắc rằng đỉnh cao của kiếp người là để sống và mơ được yêu thương nhau, dẫu muôn thương đau.

Phụ lục: Các tác phẩm của Minh Đức Hoà Trinh đã xuất bản gồm có:
Lang Thang (1960), Thư Sinh (1962), Bơ Vơ (1964), Hắn (1964), Mơ (1964), Thiên Nga (1965), Hai Gốc Cây (1966), Sám Hối (1967), Tử Địa (1973), Trà Thất (1974), Bài Thơ Cho Ai (1974), Dòng Mưa Trích Lịch (Thanh Long Bruxelles, 1976), Bài Thơ Cho Quê Hương (Nguyễn Quang Paris 1976), This Side The Other Side (Occidental Press USA 1980), Bên Ni Bên Tê (truyện dài, Nguyễn Quang USA, 1985), Niệm Thư 1 (tái bản 1987), Biển Nghiệp (Nguyễn Quang USA, 1990).
(theo Tuấn Khanh's Blog).
-------------------------------------------------------------------------------------
Intro chapeau: Em còn nhớ không em?
Khi mùa xuân về tôi thích nghe bài hát Em Còn Nhớ Mùa Xuân của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, bài hát có những câu như:

"Nơi ấy bây giờ còn có mùa xuân
Có dáng nghiêng nghiêng nụ cười thật gần...."

Tôi có người anh văn nghệ hay anh văn học kết nghĩa, ông rời Việt Nam sang Pháp du hoc năm 1950. Năm 1980 ông di cư sang Mỹ và hiện sinh sống tại miền Nam California. Trải qua gần 70 năm xa xứ, ông vẫn yêu thích bộ môn văn chương, chia chung sờ thích như người bạn đời nay đã quá vãng của ông. Hôm nhóm chúng tôi họp mặt tại campus đại học California Long Beach, ông phát biểu trong nghẹn ngào khi nhắc đến bà. Tuần vừa qua vợ chồng tôi đi ăn tối với ông, trong dịp trò chuyện ông tâm sự có những hôm ông cứ ngỡ bà còn sinh tiền, đi đâu ông lật đật chạy xe về nhà gấp để lo cho bà. Đấy là thói quen cố hữu qua bao năm chung sống. Nhạc sĩ Justin Timberlake chia sẻ kinh nghiệm trong hôn nhân qua câu nói sau, khá gần gũi với ông anh nuôi của tôi: "Tình yêu đích thực đối với tôi là khi bà vợ là ý nghĩ đầu tiên thoáng qua đầu bạn khi bạn thức dậy và suy nghĩ cuối cùng đi xuyên qua đầu bạn trước khi đi ngủ." (True love, to me, is when she's the first thought that goes through your head when you wake up and the last thought that goes through your head before you go to sleep). Phải chăng ông anh văn học của tôi có đồng ý tưởng với Justin Timberlake chứ ? Lo cho vợ full time như vậy.

Chiều nay tôi nhận bài tùy bút do ông viết. Đây là một bài ngắn sẽ in trong một tác phẩm mới của ông kể về sinh hoạt bà đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam cũng như bà đã lo toan tất bật giúp đỡ người đồng hương tị nạn Việt Nam đến Pháp năm xưa.

Nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh của ‘Kiếp Nào Có Yêu Nhau’ qua đời:
https://www.nguoi-viet.com/littl…/nu-si-minh-duc-hoai-trinh/

Việt Hải Los Angeles

Dựa theo bài viết có đoạn kết luận với câu: "Em còn nhớ không em?", tương tự như bài hát Em Còn Nhớ Mùa Xuân của Ngô Thụy Miên "Em có bao giờ còn nhớ mùa xuân ?", tôi cảm tác đoản thơ sau, kính tặng người anh nuôi... vốn yêu quý văn học.
VHLA, Nov. 9 th, 2017.

Un premier bisou au printemps
Chérie,
Suis-je en train de chasser ton âme dans un rêve?
Leurres de printemps dans le ciel lumineux.
Avons-nous déjà rappelé la saison oubliée?
Un premier baiser lèvres aux lèvres, comme c'est doux!
(par VHLA)
Nụ Hôn Mùa Xuân
Em hỡi em ơi ở chốn nao?
Mùa xuân vừa đến nắng trên cao.
Tưởng mùa năm cũ vào quên lãng ?
Kỷ niệm đầu nụ hôn ngọt ngào!
(Việt Hải Los Angeles)
---------------------------------------------------------------------------------------------------
Em Còn Nhớ Mùa Xuân, Ngô Thụy Miên, Sĩ Phú:
https://www.youtube.com/watch?v=HU5zHiGIuMs
Viết cho người bạn đời:
Khi yêu nhau
lúc nào cũng là mùa xuân

Em,

Em còn nhớ không em?

Đầu mùa xuân trong những thập niên sáu mươi, điện thoại reo, khi nhấc lên nghe giọng nói của một người phụ nữ bên kia đầu dây nói tiếng Việt. Chuyện lạ là cộng đồng người Việt ở Pháp lúc bấy giờ bắt đầu nảy nở nhưng vẩn chưa có bao nhiêu, lạ hơn nữa là cách nói chuyện có vẻ xã giao nhưng không kém phần trang trọng; cô ngỏ ý muốn mời để cô phỏng vấn trong chương trình Việt Ngữ cô phụ trách trên đài phát thanh Pháp Office de la Radio Télévision Francaise (ORTF), như cô đã mời rất nhiều sinh viên Việt Nam đã thành tài, sấp ra tường hay những người đã thành công ở Pháp. Nghe ớn quá nên tôi lễ phép từ chối vì không biết mình có đủ từ ngữ cho cuộc phỏng vấn hay không, hơn nữa mỉnh có biết gì đâu để trả lời những gi cô sấp hỏi. Cô có vẽ thất vọng vì đến bây giờ chưa ai từ chối lời mời của cô! Trước khi chia tay tôi gặng hỏi: 

- “Làm sau cô biết số điện thoại của tôi để gọi.” 

- “Tôi có phỏng vấn rất nhiều người trong chương trình này, trong dịp đó mấy tuần trước đây tôi có phỏng vấn Bác sĩ Phát, ông bảo có người anh đang là việc cho nhà xuất bản nổi tiếng ở Paris nên ông cho tôi cơ hội để gọi ông” Cô trả lời.

Ngẩn ngơ, bất ngờ khiến cho tôi trở nên tọc mạch nên xin hẹn gặp cô. 

- “Mà gặp ở đâu và bao giờ hè?”

- “Tám giờ sáng ngày chủ nhật tại quán café “Les Deux Margots”. Trên đại lộ Saint Germain, Saint Germain des Près.

Lẽ dĩ nhiên là phải ở quán Café “Les Deux Margots” là nơi tề tựu thường xuyên các văn nghệ sĩ nổi tiếng, các họa sĩ đã thành danh hay các đại văn hào như Jean Paul Sartre và Simone de Beauvoire v. v. . .

Ở ngoại ô Paris, phải mất ít lắm nửa tiếng đồng hồ lái xe thành ra phải dậy sớm và đến sớm hơn giờ hẹn vì sự tế nhị không muốn người nữ đến trước chờ.

Đầu mùa xuân, lá non xanh đã đôm đầy cành trên hàng cây dài theo đại lộ Saint Gernain, nắng ấm nên chọn chổ ngồi bên ngoài để có dịp ngắm ông đi qua bà đi lại cũng như để cho các ông đi qua bà đi lại có dịp nhìn mình. Chuyện lạ là sáng chủ nhật dân Paris dậy rất trễ vì tối thứ bảy là họ thường vui chơi đến gần sáng nhưng ở đây chưa tám giờ mà quán “Les Deux Margots” đã đông đầy người. 

Ngồi không bao lâu thì thấy từ đằng xa dáng vóc người phụ nữ Á đông mạnh dạng tiến bước, y phục đơn giản, gọn gàng nhưng rất thanh lịch và tự nhiên, không phấn son, dáng điệu dễ thương rất mignonne, không có cái gì để gọi là sắc đẹp giả tạo, vì từ trong con người có một cái gì tỏa ra với một mãnh lực thu hút một cách lạ thương. Tay cầm cái cặp thay gì cái bóp sách tay như bao nhiêu người phụ nữ khác. Hai người chưa bao giờ gặp nhau nhưng khi cô đến gần, tôi đứng lên thì cô vui mừng chào hỏi, xong tự giới thiệu như có sự thâm tâm tương đắc làm cho chúng tôi có cảm tưởng như đã biết nhau từ lâu. Tôi lén liếc nhìn đồng hồ thì đúng tám giờ, đúng giờ hẹn là một điểm đáng nể và tự nghĩ cô là người làm việc nghiêm chỉnh.

Đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, đoán cô cùng lứa tuổi nên tôi gọi bằng chị và chỉ biết chị là nhân viên của đài phát thanh mà thôi, ngoài ra không biết chi về quá trình hay đời sống của chị cả. Trong khi trao đổi những lời xã giao người hầu bàn mà người ta thường gọi “garcon” đến hỏi chúng tôi muốn dùng chi buồi sáng, Tôi xoay qua hỏi “Chị dùng chi?” - “Cà phê sữa và một phần bánh bébé croissants. Bébé Croissant ở đây ngon lắm”. Cô nói tiếp làm tôi tự nghĩ “Cô này có vẻ sành điệu quá và tự an ủi, mình cũng ở Paris khá lâu nhưng làm sao biết hết những bí mật của Thủ đô ánh sáng này. Tôi xoay lại người garcon: “Cho chúng tôi 2 cappuccini (cà phê sữa) và hai phần bébé croissants”. (Bébé croissants là loai bánh mì “sừng trâu”, chỉ lớn bằng ngón tay cái mà thôi). Sau đó chúng tôi vào đề ngay về việc phỏng vấn trên đài. Tôi cảm thấy thoải mái hơn sau khi một vài vấn để được giải tỏa và sung sướng chấp nhận cuộc phỏng vấn. Trong lúc uống cà phê và ăn croissants - rất đặc biệc và có ngon thật” - Cô lấy các dữ kiện cần thiết để làm thẻ vào đài phát thanh. Chúng tôi từ giả sau khi ăn xong và hẹn cô sẽ cho biết ngày giờ cho cuộc phỏng vấn. Hai ngày sau, điện thoại reo vang, cô cho biết ngày giờ và địa điểm. Để tránh sự vất vả phải đi Métro đến đài nên tôi đề nghị đến rước cô ở đường Chantier, Paris V. Một lần nữa rất đúng giờ và lần này cô mặc áo dài, lại là một con người khác; dịu dàng dễ thương của người Á Đông.

Trước khi đến phòng thu thanh, chúng tôi phải đi qua nhiều văn phòng, ai cũng vui vẻ chào đón cô, thậm chí các bạn đồng nghiệp còn trêu ghẹo một cách thân mật như “Ô lala quel beaux couple!” ( Chao ôi thật là đẹp đôi!). Họ nói nhỏ với nhau nhưng cố tình nói đủ lớn để cho chúng tôi nghe. Những lời trêu ghẹo có thể là vô thưởng vô phạt nhưng có biết đâu nó có tác dụng tâm lý không chờ đợi; có thể xâm nhập vào trong thâm tâm của hai người chăng?

Cuộc nói chuyện trên đài diễn tiến một cách tốt đẹp là do người biết phỏng vấn cho nên cuộc nói chuyện trở nên sống động, nửa tiếng đồng hồ qua rất mau. Được cô bảo là thành công và cho tôi ngày giờ đế đón nghe. Tôi đề nghị mời cô dùng cơm trưa nhưng bị ừ chối vì cô phải ở lại làm việc tiếp trên đài. Hai ngày sau nghe lại bài phỏng vấn trong chương trình Việt ngữ, tôi cảm thấy xấu hổ vì trong câu chuyện lắm khi tìm không ra chữ nên phải dùng tiếng Pháp xen vào, mặc dầu mình hết sức cố gắng chỉ dùng tiếng Việt, cũng may là đối với Cộng đồng người Việt ở Pháp họ tha thứ và chấp nhận dể dàng hơn. Chúng tôi từ giả một cách bình thường tại đài radio sau cuộc phỏng vấn, nghĩ rằng mình sẽ gặp lại nhau trong nay mai, không ngờ sau một vài tuần hinh ảnh của cô gái xinh xinh đó cứ mãi áp ù và quấy rầy trong đầu. Điện thoại mãi hầu mong gặp lại cô nhưng không ai trả lời đến độ tôi phải gọi nơi cô làm việc thì mới biết đài truyền hình Pháp đã gởi cô đi công tác ở phương xa! Từ đó chúng tôi không còn liên lạc với nhau cho đến năm 1972 gần sáu năm sau! Như một phép lạ, điện thoại reo, với giọng quá quen thuộc mà tôi mãi chờ đợi từ lâu, bên kia đầu dây, rất vui mừng nhưng lại hỏi một câu không đúng chổ, vô cùng vô duyên, thốt lên một cách tự nhiên mà không nghĩ đó là những lời trách móc đối với người bên kia đầu dây: 

- “Ủa chị còn nhớ tôi sao?” 

Các cô các bà phần đông rất nhậy cảm, hiểu ngay lời trách và cũng hiểu ắt phài có lý do tình cảm gì đó mới trách mình như thế. 

- Anh không phải là người thứ nhất mà hầu như tất cả các bạn tôi đều trách tôi như thế. Vì chuyến đi quá đột ngột nên không thông báo cho ai được cả.

- Rồi bây giờ? Tôi hỏi.

- Rồi bây giờ tôi sẽ ở lại Paris một thời gian nhưng bận rôn lắm.

Con người này quá bí mật, Tôi nghĩ thầm với sự tế nhị nên không hỏi cô đã đi đâu và làm gì trong mấy năm qua, bây giờ lại xuất hiện mà còn cho biết cô rất bận rộn trong lúc tình hình chánh trị cũng khá xôn xao ở Paris. Tôi cảm thấy hơi táo bạo nhưng không sao kìm hãm được câu hỏi:

- Bao giờ mình có thể găp lại nhau?

- Một ngày gần đây.

Câu trả lời của cô làm tôi càng thêm tọc mạch nhưng rất vui vì coi như một lời hứa nên kiên nhẩn chờ mã đến mấy tuần sau ngày 27 tháng giêng năm 1973 là ngày Hiệp Định Paris được ký kết. Điện thoại reo, kỳ này tôi được mời tham dự một buồi họp gồm có anh hội trưởng cùng một số đông các anh em của Tổng Hội Sinh Viên tại Paris và một vài nhân vật trong Cộng đồng người Việt ở Thủ đô, cộng thêm hai nhân vật của Hoàng gia Lào làm cho buổi họp càng thêm trang trọng. Trong một gian phòng rộng lớn, đông chật người. Chủ đề buổi họp là “Làm thế nào tái thiết quê hương sau Hiệp Định Paris” mà chính cô là người chủ xướng, nghĩ rằng sau Hiệp Định Paris thì sẽ có hòa bình! Buổi họp vô cùng sôi nổi, bắt đầu từ 6 giờ chiều, với một chủ để to lớn như thế này, cứ bàn mãi chuyện này sang chuyện kia, câu hỏi này đến câu hỏi khác v. v. . . và không bao giờ kết thúc được nhưng phải tạm ngưng vì khi nhìn lại là gần một giớ sáng ai ai cũng phải ra về để lấy chuyến Métro cuối cùng là 1 giờ khuya. Như một cơn gió lốc chỉ có mấy phút, giang phòng rộng lớn đông nghẹt trở nên trống rỗng, chỉ còn lại ông chủ gia và hai đứa chúng tôi vì chờ đưa cô về, nhưng không; ngày làm việc của cô chưa chấm dứt, cô còn phải đi gặp những người bạn của cô ở ngoại ô Paris, họ đang chờ. Bước ra bên ngoài để chứng kiến thành phố Paris phủ lên một lớp tuyết trắng gần hai tất và tuyết vẩn còn rơi, đã một giờ sáng mà vẫn hân hoan đưa cô đi gặp các bạn ở ngoại ô Paris. Trước khi đến nơi, còn phải đi bộ qua một quãng đường dài, cô cập lấy tay tôi một cách tự nhiên, tôi cảm thấy rất hạnh phúc, trước bối cảnh mờ mờ ảo ảo của công viên phủ một lớp tuyết trắng, dưới ánh trăng vô cùng lãng mạn. Khi thở hơi nước phì ra như khói, không biết cô đang nghĩ gì trong đầu, hai người chỉ bước đi trong im lặng, trong bầu không khí giá băng. Đến nơi, đèn trong nhà vẫn còn sáng các người bạn của cô vẫn đang chờ. Tôi trao cô cho các bạn vui mừng chào đón cô như sứ mạng hoàn được tất (mission accomplie) nhưng khi cô xoay qua phía bên tôi có lẽ để tõ lời cám ơn thì các bạn của cô tế nhị khép cửa lại để cho chúng tôi có một vài giây phút riêng tư với nhau, không chờ đợi cô vừa nói “Cám ơn anh” vừa đặt đôi môi lạnh buốt trên má mình. Chuyện hôn trên má đối với người Âu là chuyện bình thường nhưng sao tôi cứ mãi nhớ!

Cá nhân tôi không biết chi về nhân vật vô cùng bí ẩn này làm tôi càng thêm tò mò, tìm hiểu về sự xuất hiện của cô rồi biến đi một thời gian rồi lại tái xuất hiện một lần nữa, vì sau khi đưa cô đến nhà những người bạn của cô, giữa đêm ở ngoại ô Paris, cô lại bặt vô âm tín, biến đi đến cả năm sau! Điện thoại mãi mà không ai trả lời. Trong lúc thời cuộc ở quê nhả càng ngày càng nóng bỏng, bỗng nhiên được thơ cô gởi về từ Indonesia, ngắn gọn chỉ có mấy chữ “Em sẽ về...” như trong bài hát “Em không đi nữa, em sẽ về, em sẽ về ôm anh, em sẽ về ôm lại quê hương mình…“ Ngạc nhiên nhưng sung sướng vì cô xưng “Em” trong thơ.

Một thời gian không lâu sau biến cố 30 thang tư 1975, điện thoại reo với những lời tha thiếu kêu cầu cứu: “Em nhờ anh giúp em một tay” Cách xưng hô “Anh Em” đến một cách tự nhiên vào lúc nào cũng không biết. Thì ra cô và một vài người bạn khác lo giúp đồng bào tỵ nạn áo ạt đến ở các trung tâm dành riêng cho người tỵ nạn mà các tổ chức thiện nguyện cũng như các cơ quan chánh quyền bị bất ngờ tràng ngập. Ai lo được gì thì lo, tùy theo khả năng của mình, một nhóm lo xin quần áo cũ để phân phát cho những người mới tới, mặc dù đã là tháng 5 trời ấm nhưng vẩn cảm thấy lạnh đối với những người mới tới từ xứ mặt trời, nhóm khác lo việc thư từ tìm liên lạc các thân nhân gần xa cầu cứu hay cho biết họ đã đến bờ tự do an toàn hay giúp làm thủ tục định cư v. v... Trong mấy tuần lễ liên tiếp chúng tôi sát cách bên nhau trong việc làm giúp đỡ đồng hương, ngày nào cũng đến tối mới xong việc. Một hôm trên đường vế khi đi ngang qua công viên Tuileries chúng tôi dừng xe lại để tìm một chút thời gian thư giãn, không ngờ là nơi chúng tôi trao đổi nụ hôn đầu tiên và từ đó chúng không bao giờ xa nhau nữa. Sau một thời gian sinh hoạt chung chúng tôi nhận ra đã tìm ở nhau người đồng chí hướng và tư nay chúng tôi nắm tay nhau cho một cuộc hành trình mới cho nến cuối cuộc đời. Ở bên nhau từ ngày trao đổi nụ hôn đầu tiên cho đến ngày nay chúng tôi thường đùa với nhau, thường đi ngược thời gian trong những lúc uống trà mỗi buổi sáng. Có không biết bao nhiêu chuyện kể cho nhau nghe nhưng chuyện tôi muốn biết là cô đã thầm yêu tôi từ bao giờ và tại sao. Cô đồng ý với điều kiện là tôi cũng phải cho cô biết phần bên tôi.

- Khi gặp anh lần đầu tiên, đứng trước con người cao lớn làm em chú ý.

- Ha! Ha! C’est un coup de foudre = Ha Ha tình yêu sét đánh!

- Không không em chỉ để ý thôi, trong công việc của em, em tiếp xúc rất nhiều nhân vật đặc biệt, khác nhau.

Khi kể tâm tình cho nhau nghe thường có những trận cười trêu ghẹo. Cô kể tiếp với vẻ nghiêm nghị.

- Anh còn nhớ không? Buồi họp có Tổng Hội Sinh Viên và nhiều hội đoàn khác. Cử chỉ trượng phu của anh là người duy nhất nhận đưa em đến nhà bạn ở ngoại ô Paris lúc một hai giờ sáng, trên đường bao phủ đầy tuyết rất nguy hiểm, làm em cảm động và sau cùng khi sinh hoạt bên cạnh anh, em nhận ra là em đã thầm yêu anh, yêu con người chân thật, cùng đồng chí hướng mà em có thể trao gởi cuộc đời của em.

- Thôi thôi, to lớn quá, quan trọng quá anh không dám nhận đâu, còn phần của anh thì rất đơn giản: Anh đã lộn mèo yêu em (Head over heels in love) khi em đặc đôi môi lạnh buốt trên má anh, trong đêm khuya, băng giá và anh phải đợi mấy năm sau mới được em hồi đáp tại công viên Tuileries!

Chúng tôi nhớ lại là khi chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên là lúc đầu xuân mãi cho đến suốt mấy năm sau mới nhận ra chúng tôi đã thầm yêu nhau ở cuối mùa xuân. Nay tuổi đã cao, quí báu từ giây phút được ở bên nhau, không ngần ngại nói lên anh yêu em hay em yêu anh, em nhớ anh hay anh nhớ em khi xa vắng. Chúng tôi nghĩ rằng khi hai người tha thiết yêu thì lúc nào cũng là mùa xuân. 

Em còn nhớ không em?
(L'amant de Paris, dédié à celui que j'aime, Nguyễn Quang).
---------------------------------------------------------------------------------------------------------