Saturday, 20 April 2019

Mặt trận Xuân Lộc: Chiến thắng cuối cùng của một quân đội anh hùng bị bội phản


Phóng Ä á»“ Kế Hoạch Ä iá» u Quân Mặt Trận Xuân Lá»™c (Trần Ä á»— Cẩm) (Tại mặt trận Ngã ba Dầu Giây, chính xác là Chi Ä‘oàn 2/5/TK của Ä áº¡i úy VÅ© Ä Ã¬nh LÆ°u)

1

Mặt trận Xuân Lộc: Chiến thắng cuối cùng của một quân đội anh hùng bị bội phản


Thiếu tướng Lê Minh Đảo tại mặt trận Xuân Lộc 42 năm trước.

Ngày 20/03, Định Quán là một trong 4 quận của tỉnh Long Khánh, dọc theo Quốc lộ 20, đường đi Đà Lạt, bị Cộng quân tràn ngập. Ngày 25/03/1975 Bộ chính trị Cộng sản Bắc Việt (CSBV) quyết định đốt giai đoạn tổng tấn công, tập trung lực lượng đánh chiếm Sài Gòn trước mùa mưa.

Sau khi quân đoàn 1 và 2 di tản, CSBV từ miền Trung theo Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20 thọc xuống Sài Gòn. Thị xã Xuân Lộc, cách Sài Gòn khoảng 80 cây số, là vòng đai bảo vệ phi trường Biên Hòa và là cửa ngõ của thủ đô Sài Gòn. Từ đầu tháng 4-1975, Sư đoàn 18 BB, tiền thân là sư đoàn 10, được thành lập năm 1967 và các đơn vị Thiết giáp, Biệt động quân, Pháo binh đã rải quân trấn đóng trên một phòng tuyến dài 20 km. CSBV mở đầu chiến dịch Hồ chí Minh bằng cuộc tấn công Xuân Lộc từ ngày 09 tháng 4. Trận chiến đẫm máu kéo dài 12 ngày, kết thúc vào ngày 21/04, một chiến thắng cuối cùng của Quân lực VNCH sau hơn 20 năm chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam.

Tướng Lê Minh Đảo- Tư lệnh sư đoàn 18- trước khi lâm trận đã phát biểu trước báo chí bấy giờ: “Đánh một trận cho thế giới biết tiếng!”

Đối phương, tướng Cộng sản cũng phải nhìn nhận Xuân Lộc là phòng tuyến thép của QLVNCH:

Lê Đức Thọ: “Kết cục là anh em cũng không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra”.

Văn Tiến Dũng: “Kế hoạch tấn công Xuân Lộc chưa tính hết được sự phát triển phức tạp của tình hình, chưa đánh giá hết tính chất ngoan cố của địch… Trận chiến ác liệt và đẫm máu từ những ngày đầu tiên. Các sư 6, 7, 341 của ta phải tiến công trong thành phố nhiều lần nhưng gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của trung đoàn 43 địch quân. Các đơn vị pháo của ta đã xử dụng nhiều hơn cơ số đạn dự trù. Số lớn tăng và xe bọc thép của ta bị hạ…” (Đại thắng Mùa Xuân).
Trần Văn Trà: “…vào cuối ngày 10 trở đi, tình hình trở nên căng thẳng. Địch phản công điên cuồng…” (Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm).

Tướng X. Smith, Trưởng phòng Tùy viên Quân sự (DAO), tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ, cảm phục và ca ngợi trận Xuân Lộc:

“Chiến trường Long Khánh chứng tỏ quyết tâm bảo vệ đất nước của quân đội VNCH và họ đã anh dũng chiến đấu chống lại địch quân đông gấp nhiều lần”
Nhân dịp Cựu thiếu tướng Lê Minh Đảo đến Toronto tham dự đêm gây quỹ do Hội Cựu Quân nhân QLVNCH Ontario tổ chức hôm 01/04, Thời Báo và VIETV đã phỏng vấn ông về trận đánh để đời nói trên.

*Ông có thể cho biết tương quan lực lượng hai bên trong trận Xuân Lộc?

Cựu thiếu tướng Lê Minh Đảo: “Mặt trận Xuân Lộc ác liệt ngay vào ngày đầu tiên 9 tháng 4 năm 1975 và kéo dài cho tới khi sư đoàn 18 rút ra khỏi trận địa vào ngày 21 tháng 4. Cộng sản Bắc Việt đã tung vào mặt trận này một quân đoàn gồm 3 sư đoàn là sư đoàn 341, sư đoàn 7, sư đoàn 6 và một sư đoàn pháo 130 ly, 122 ly và phòng không, một trung đoàn chiến xa và các đơn vị đặc công.
Do bị thiệt hại nặng, Cộng sản tăng cường thêm trung đoàn biệt lập 95C cùng với sư đoàn 325. Lực lượng này do Tướng Hoàng Cầm chỉ huy, chính ủy là tướng Hoàng Thế Thiện, nhưng sau 5 ngày, quân số bị tổn thất nặng, họ đưa Trần Văn Trà xuống điều nghiên và sau đó Trần Văn Trà chỉ huy luôn các đơn vị này vào giai đoạn hai.

Về lực lượng VNCH, trong 5 ngày đầu tiên chỉ có sư đoàn 18 bộ binh trừ do có một trung đoàn tăng phái cho sư đoàn 25. Tiểu đoàn 82 Biệt động quân từ Lâm Đồng rút về tạm ghé Long Khánh để dưỡng quân và chờ về Sài Gòn. Chúng tôi đã trang bị tiếp tế cho tiểu đoàn này đầy đủ để sẵn sàng ứng chiến. Khi Cộng sản tấn công vào đêm 8/4 tiểu đoàn này kẹt lại và lực lượng này được đặt dưới quyền chỉ huy của tôi cộng với lực lượng địa phương quân, nghĩa quân thuộc tiểu khu Long Khánh. Về không yểm, có sư đoàn 3 không quân trú đóng ở Biên Hòa.

*Diễn tiến trận Xuân Lộc?

Cựu thiếu tướng Lê Minh Đảo: Chiến trường Long Khánh gồm 3 mặt trận chính: Mặt trận ngã ba Dầu Giây do Trung đoàn 52 và một thiết đoàn chiến xa trấn giữ. Mặt trận núi Chứa Chan, Gia Rai do Liên đoàn 7 Biệt động quân và một đơn vị của Trung đoàn 43 Bộ binh phòng thủ. Thị xã Xuân Lộc do thành phần còn lại của Trung đoàn 43 Bộ binh và các tiểu đoàn Địa phương quân bảo vệ. Bộ tư lệnh hành quân chính của chúng tôi đặt tại quận đường Xuân Lộc, ngã ba Tân Phong-Long Giao. Ngoài ra, còn hai bộ chỉ huy lưu động đóng ở các vùng lân cận.
Cộng quân tấn công theo chiến thuật tiền pháo hậu xung. Họ bắn khoảng 2.000 quả vào 5 giờ 30 phút rạng sáng ngày 9/4. Đến 8 giờ sáng họ ồ ạt tấn công theo hai mũi có chiến xa yểm trợ, nhưng bị chúng tôi đẩy lui ra ngoài.

Ngày 10/4/75, họ cũng tiếp tục pháo vào Xuân Lộc, tỉnh lỵ Long Khánh từ 2.000 đến 3.000 quả đạn. Thành phố tan hoang, thường dân thiệt mạng rất nhiều nhưng đơn vị chúng tôi tổn thất rất ít vì tôi đã tổ chức trận địa trước và tôi biết pháo nó sẽ rót vào trong thành phố trong khi đó chúng tôi đóng quân ở bên ngoài chờ họ. Lần tấn công này họ huy động 2 sư đoàn 6, 7 và các trung đoàn thiết xa, tấn công khắp các mặt trận Đông, Tây, Nam, Bắc thành phố Xuân Lộc, từ tòa thị chính Long Khánh đến sân bay, nơi nào họ cũng sử dụng quân số cấp trung đoàn. Cuộc chiến kéo dài trong 2 ngày, và cả hai phía giành từng ngôi nhà, từng điểm phòng ngự. Ngày thứ ba, họ tiếp tục tấn công ác liệt như vậy. Tất cả là 3 ngày, mỗi ngày gần 3 trung đoàn, quân số tương đương một sư đoàn.

Sau ba ngày tấn công, Cộng sản vẫn không chọc thủng được phòng tuyến. Trong ba ngày đó, thương vong của họ ước lượng khoảng một sư đoàn rưỡi cho nên tới ngày thứ tư, thứ năm lực lượng Cộng sản yếu dần, chỉ tấn công qua loa nhưng cường độ pháo vẫn như trước, liên tục dội lên các đơn vị phòng thủ.
Sau 5 ngày chiến đấu, Trung tướng Toàn, Tư lệnh quân đoàn 3, Quân đoàn 3 nhận thấy tầm quan trọng của mặt trận Xuân Lộc nên mới tăng cường cho tôi Lữ đoàn I Nhảy dù với bốn tiểu đoàn: 1, 2, 8, 9. Tôi đưa một tiểu đoàn dù giữ sân bay Long Khánh, tăng cường thêm lực lượng phòng thủ của Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng Long Khánh.

Ba tiểu đoàn Dù còn lại đánh từ ngoài đánh vô sau lưng địch, bọc phía trong và ở ngoài đánh vào cũng như một ổ bánh mì sandwich. Nếu chúng tôi không rút quân, tôi sẽ bắt được cả một tiểu đoàn Bắc quân bị quân Dù bao vây vì họ bị triệt đường tiếp tế.

Trong trận Xuân Lộc, có những lúc chúng tôi một chống ba, có nơi một chống tới năm và có nơi như ở đồi Móng ngựa, chúng tôi chỉ có hai đại đội của tiểu đoàn 3 trung đoàn 52 nhưng phải chống nguyên cả một trung đoàn Cộng quân tăng cường chia làm ba hướng tấn công, coi như 1 chống 10.

Trận đồi Móng ngựa, tôi đã tổ chức hai tuần lễ trước rồi, chúng tôi tựa vào giao thông hào mà phòng thủ. Tôi gài họ vào trong đó để họ lọt vào trận địa pháo của tôi. Tôi chấm tọa độ hỏa tập ở nhiều khu vực chọn trước vì biết họ tới đó sẽ bị cầm chân. Trong này tôi đánh ra cầm chân họ, vô không được tất nhiên họ phải nằm ở đó. Khi họ nằm ở đó, tôi cho pháo binh bắn vào tiêu diệt. Pháo binh tôi đã đem tất cả ra ngoài và chúng tôi bắn vào trong thành phố yểm trợ các đơn vị nên họ bị thiệt hại rất lớn.

Tại ngã ba Dầu Giây, Cộng sản Bắc Việt đã đồng loạt tấn công chiến đoàn 52 Bộ binh từ ngày 12/4/75 bằng biển người, xe tăng và pháo binh. Lần lượt các tiền đồn, tuyến phòng thủ của trung đoàn 52 từ Kiệm Tân về tới ấp Phan Bội Châu trên quốc lộ 20 bị tràn ngập. Cuộc chiến trở nên ác liệt vào chiều ngày 15/4/75 ngay tại xã Dầu Giây, giao điểm hai quốc lộ 1-20, giữa chiến đoàn 52 (gồm trung đoàn 52, lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các lực lượng Địa phương quân Kiệm Tân, Long Khánh; khoảng 2,000 người) và binh đoàn 4 Cộng sản Bắc Việt (trong đó có sư đoàn 341 tổng trừ bị của Hà Nội từ Thanh Hóa vào), do Trần Văn Trà chỉ huy.

Trong trận chiến nướng quân khủng khiếp này của Bắc Việt, 1 người lính VNCH đã phải chọi với 10 bộ đội Bắc Việt có xe tăng và pháo binh yểm trợ. Chiến đoàn 52, hết đạn dược, cuối cùng phải tan hàng vào đêm 15/4/75, sau 4 ngày đêm cầm cự. Chín giờ đêm ngày 15/04, hầm chỉ huy của chiến đoàn 52 bị sập do trúng pháo, đại tá Ngô Kỳ Dũng, chiến đoàn trưởng cho rút quân về Biên Hòa.
Được tin chiến đoàn 52 tan hàng, tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh quân đoàn 3 sau khi trình Bộ Tổng tham mưu đã ra lịnh cho không quân thả 2 trái bom “Daisy Cutter” xuống ngã ba Dầu Giây trong đêm 15/4/75. 10,000 quân Bắc Việt với chiến xa T54, đại pháo đang di chuyển trên quốc lộ 20 vừa tới ngã ba Dầu Giây bị trúng bom “Daisy Cutter” thiệt hại nặng.

Ngày 16/04/1975, tình hình bắt đầu biến chuyển khi mặt trận Phan Rang bể tuyến. Quân đoàn 2 Hương Giang của CSBV theo quốc lộ 1 xuyên qua Phan Rang xuống Phan Thiết để về Sài Gòn. Quân đoàn này đi vô Bình Tuy ngang qua Xuyên Mộc về Bà Rịa để từ Bà Rịa tấn công Biên Hòa, vì họ không thể xuyên qua ngõ Xuân Lộc nên họ đi hướng đó, đồng thời Trần Văn Trà thay đổi kế hoạch, tấn công phi trường Biên Hòa vì họ biết sư đoàn 3 không quân trú đóng tại đây yểm trợ cho chúng tôi.

Trước tình hình này, quân đoàn lo ngại tuyến phòng thủ chúng tôi nằm phía ở trên Xuân Lộc, trong khi cộng sản đã lọt được vào phía dưới, đi vòng ngõ tắt về Biên Hòa nên trung tướng Toàn thay đổi chiến thuật, đưa sư đoàn 18 bộ binh về giữ quốc lộ 1 từ Trảng Bom về Biên Hòa. Mặt trận này do chuẩn tướng Khôi, tư lệnh lữ đoàn 3 thiết giáp trấn giữ. Tướng Toàn ra lệnh cho tôi rút càng sớm càng tốt.

Ngày 20 tháng Tư năm 1975, lúc 9 giờ sáng, Tướng Nguyễn Văn Toàn, có Đại tá Hoàng Đình Thọ, Trưởng phòng 3 Quân đoàn tháp tùng vào Xuân Lộc. Tướng Toàn ra lệnh rút toàn bộ lực lượng tham chiến ra khỏi Xuân Lộc trong nội ngày hôm đó do Xuân Lộc không còn giá trị chiến lược.

Trước khi Cộng quân mở trận đánh Xuân Lộc, rút kinh nghiệm của cuộc di tản chiến thuật của quân đoàn 2, tôi đã đưa bệnh xá sư đoàn, tất cả gia đình binh sĩ về căn cứ Long Bình để quân nhân rảnh tay đối phó với địch quân nên chúng tôi có thể di chuyển dễ dàng, binh sĩ không vướng bận “thê nhi”.

Lộ trình triệt thoái là liên tỉnh lộ 22, đi từ Long Giao xuống ranh giới của quận Đức Thạnh ở Bình Giã đi về Bà Rịa, con đường đó dài khoảng 30 cây số.

Giờ xuất phát là 7 giờ tối để tạo bất ngờ cho địch quân. Một đơn vị khi đang chạm súng mạnh và hàng ngày như thế này mà phải rút quân là chuyện khó vô vàn. Đánh thì dễ, còn rút dễ hỗn loạn nhưng lệnh trên buộc chúng tôi phải rút.
Trước khi rút quân, tôi ra lệnh lữ đoàn dù và một tiểu đoàn sư đoàn 18 ở trên Núi Thị nã pháo vào các vị trí của họ và mở cuộc tấn công để làm cho họ tưởng rằng chúng tôi bắt đầu phản công để họ bận lo chống đỡ. Lúc đó, họ không ngờ chúng tôi đang chuẩn bị lui binh.

Tôi cho trung đoàn 48 đi đầu, có một đơn vị trọng pháo lớn tại căn cứ Long Giao yểm trợ. Sau đó là lực lượng cơ giới do đại tá Hứa Yến Lến Tham mưu trưởng hành quân dẫn đi, đem hết tất cả cơ giới nặng, cả xe, cả xác chết của binh sĩ mình trong ngày hôm đó không tải thương được, bỏ lên xe chở về hết tất cả. Kế đó là lực lượng tiểu khu. Xong rồi mới tới lực lượng của tôi là trung đoàn 43 do đại tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy. Tôi và ông Hiếu cùng đi bộ để theo dõi cuộc rút quân. Lực lượng sau cùng là Lữ đoàn 1 Dù và tiểu đoàn 2/43 của sư đoàn 18. Cuộc rút quân này tương đối an toàn. Chúng tôi đã đem tất cả toàn bộ đơn vị ra khỏi Bình Giã vào ngày hôm sau lúc 9 giờ sáng.

Riêng tiểu đoàn Dù 9 giờ tối, mới tới quốc lộ. Tại đây, tất cả giáo dân của xóm đạo Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo Hòa đã tập trung sẵn hai bên vệ đường để theo chân lính di tản.

Do rút trễ, Cộng quân phát giác quân Dù lui binh, họ bám đuôi đánh vào đại đội pháo binh của Dù. 4 giờ sáng ngày 21/04, tại ấp Suối Cá, gần ranh giới Long Khánh – Phước Tuy, tiểu đoàn 3 Dù đã bị 2 tiểu đoàn CSBV phục kích gây thương vong. Sau khi đến nơi, tôi bay ngược trở lại với anh em Dù. Đến 12 giờ trưa, anh em Dù cũng rút ra được hết tất cả.

Ngoài những thiệt hại kể trên, cuộc rút quân trên liên tỉnh lộ 2 coi như đạt kết quả vượt mức mong đợi. Sư đoàn 18 Bộ binh được chỉ định về phòng thủ tuyến phía Đông thủ đô Sài gòn từ tổng kho Long Bình đến kho đạn thành Tuy Hạ và Lữ đoàn 1 Dù có trách nhiệm bảo vệ quốc lộ 15 từ Long Thành về Bà Rịa.

Sau 12 ngày đêm chiến đấu kiên cường dù phải chống trả với một quân số nhiều lần, các lực lượng phòng thủ Xuân Lộc đã gây tổn thất nặng cho CSBV, buộc họ phải đưa các quân đoàn của họ đi vòng để tiến về Sàigòn.

Chín ngày sau đó, ngày 30 tháng 4 năm 1975, hàng tướng Dương Văn Minh ra lệnh buông súng, Sài Gòn thất thủ.

*Với tư cách là một cựu tướng lãnh, thiếu tướng có thể cho biết nhận định của cá nhân ông về cuộc di tản của quân đoàn 1 và 2. Có phải đây là nguyên nhân khiến miền Nam bị sụp đổ?

Cựu thiếu tướng Lê Minh Đảo: Cuộc di tản hai quân đoàn này chỉ là ngọn, gốc là Ban Mê Thuột. Tôi không có mặt ở đó nên không dám phê phán về hai cuộc rút quân này. Cố Tổng thống Thiệu và các tướng lãnh vùng có nỗi khổ và khó khăn của riêng họ. Tuy nhiên theo ý kiến cá nhân tôi, tướng phải đi theo quân khi lui binh và cuộc rút quân phải được thực hiện trước khi bị tấn công. Gia đình quân nhân, lương bổng không đủ sống, phải ở trong các trại gia binh. Người lính chiến đấu để bảo vệ gia đình nên khi rút quân, gia đình đi theo khiến cho cuộc rút quân trở nên khó khăn. Tôi nghĩ rằng, mất Ban Mê Thuột không có nghĩa là Pleiku, Kontum sẽ mất.

Nếu đã mất Ban Mê Thuột cứ để đó, ở đâu giữ đó, không cần phản công lấy lại Ban Mê Thuột. Trong 6 tháng sau đó, có thể sẽ có giải pháp thay đổi vận nước. Quân đoàn 1 và 2 rút quân khiến tinh thần quân nhân các cấp hoang mang, dẫn đến sụp đổ dây chuyền. Quân đoàn 2 mất dẫn đến tình trạng quân đoàn 1 bị cô lập, buộc quân đoàn 1 phải rút theo. Thực ra, chúng ta chỉ có thể kéo dài cuộc chiến đến năm 1976. Việt Nam chỉ là điểm nóng trong chiến tranh lạnh, nhưng mình không có thể và không được quyết định vận mệnh của mình. Mình tiếp tục chiến đấu vì đất nước này là của mình. Người lính VNCH đã làm quá sức của họ và họ không hề than van.

Mỹ vì quyền lợi của họ cũng như thế chiến lược của họ, họ bội ước với VNCH, bỏ rơi VNCH, đem Việt Nam dâng cho cộng sản Tàu để dễ liên minh với Tàu Cộng. Mỹ đã thắng Nga trong cuộc chiến tranh lạnh trong khi đó chúng ta bị bức tử.
*Thiếu tướng có nghĩ rằng mọi nỗ lực và gian khổ của quân nhân để giữ vững phòng tuyến Long Khánh, xương máu của biết bao nhiêu chiến sĩ hy sinh trong trận này, cuối cùng cũng chỉ là “dã tràng xe cát”, nước lã ra sông…?

Cựu thiếu tướng Lê Minh Đảo: Là người lính, chúng ta chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, vì danh dự và trách nhiệm của một quân nhân. Tôi phải làm tròn trách nhiệm đã được cấp chỉ huy giao phó. Nếu được làm lại, tôi cũng sẽ không thay đổi quyết định, sẽ ở lại chiến đấu như đã làm vào tháng 4 năm 1975. Sự hy sinh của chúng tôi không uổng phí vì nhờ 12 ngày đêm đó, hàng trăm ngàn người có thể thoát khỏi Việt Nam vào những ngày cuối cùng của tháng Tư đen và từ đó hình thành nên Cộng đồng người Việt hải ngoại hiện nay.

*Thiếu tướng có bao giờ oán trách cấp trên đã bỏ ông ra đi vào giờ phút cuối cùng của cuộc chiến?

Cựu thiếu tướng Lê Minh Đảo: Người lính kham khổ, nghèo, thua thiệt, hy sinh mạng sống nhưng có bao giờ nghe họ oán trách cấp chỉ huy? Tôi cũng vậy. Tôi làm tròn nhiệm vụ của tôi. Những người nào làm sai, họ chịu trách nhiệm với lịch sử, với lương tâm của họ.

Thế hệ chúng tôi hồi tôi mới qua đây tôi thấy anh em buồn lắm. Anh em có vẻ còn mặc cảm là người thua cuộc. Tôi thường nói với anh em đừng mặc cảm. Các anh em đã làm hết bổn phận của các anh em rồi. Hoàn cảnh cũng như bạn đồng minh không cho chúng ta có cơ hội thắng, nhưng các anh em đã làm đầy đủ trách nhiệm của một quân nhân.

*Vào thời điểm đó, Thiếu tướng có đủ điều kiện để cá nhân ông và gia đình ra đi, nhưng ông quyết định ở lại cùng với vợ và 9 người con và trả giá chiến thắng bằng 17 năm tù Cộng sản. Ông có ân hận về quyết định này?

Cựu thiếu tướng Lê Minh Đảo: Tôi vẫn nghĩ rằng tôi đã quyết định đúng. Lúc ở trong tù tôi buồn lắm khi nghe con tôi phải đi bán guốc để sống còn. Năm 1979, khi các con tôi vượt biên thoát được đến bến bờ Tự do, tôi vô cùng nhẹ nhõm. Là người chỉ huy, tôi kêu gọi anh em quân nhân bám chiến tuyến đến khi có lệnh rút quân. Gia đình của họ cũng ở sát cạnh họ. Làm sao tôi và gia đình tôi có thể bỏ đi được. Như vậy là không công bằng, không xứng đáng là cấp chỉ huy. Dù chịu 17 năm tù nhưng lương tâm tôi yên ổn, và các con tôi có thể tự hào về người cha của chúng.

Buổi chiều ngày 29/04/1975, Tướng Đảo đã triệu tập một cuộc họp tại Bộ Tư lệnh sư đoàn 18. Ông đã nghẹn ngào nói với các chiến hữu :“Tôi sẽ ở lại chiến đấu với các anh em. Vợ con tôi vẫn ở lại Sàigòn, không đi đâu cả. Tôi có trực thăng, nhưng tôi sẽ không bỏ anh em để bay ra Hạm đội”.

Ngày 29/04/1975, Sài Gòn hấp hối. Ngày 30/04/1975, Sài Gòn trút hơi thở cuối cùng. Cùng ngày, cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo tìm đường về vùng 4 Chiến thuật để tiếp tục chiến đấu nhưng khi đến Cần Thơ ông hay tin Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân đoàn 4 và Tướng Lê Văn Hưng đã tuẫn tiết, ông quay trở về Sài Gòn và bị đày đọa 17 năm trong lao tù Cộng sản từ ngày 09/05/1975 đến ngày 05/05/1992. Năm 1993, tướng Lê Minh Đảo định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Ông là một trong 4 tướng lãnh VNCH bị Hà Nội giam cầm lâu nhất. Ba tướng lãnh khác là Cựu thiếu tướng Trần Bá Di, Cựu chuẩn tướng Lê Văn Thân (1932-2005) và cựu thiếu tướng Đỗ Kế Giai (1929-2016).


Cựu Tư lệnh sư đoàn 18 tại tòa soạn Thời Báo





1

See the source image



source: thoibao

Trận Xuân Lộc – Chiến thắng cuối cùng
Posted by BIENXUA on APRIL 18, 2017
vnch tranxuanloc

Trọng Đạt

Đầu tháng 4 năm 1975, QK1 và QK2 đã lọt vào tay cộng sản (CS).

Hai phòng tuyến chính của VNCH phía Đông Bắc Sài Gòn bấy giờ là Phan Rang và Xuân Lộc thuộc Long Khánh. Từ 25-3-1975 Bộ chính trị CSBV quyết định đốt giai đoạn cuộc tổng tấn công, tập trung các lực lượng binh khí kỹ thuật đánh chiếm Sài Gòn trước mùa mưa.

Xuân Lộc cách Sài Gòn khoảng 80 cây số, cửa ngõ của Thủ đô, phòng tuyến Xuân Lộc rất quan trọng vì nó là vị trí yết hầu, các đơn vị lớn của BV từ miền Trung nếu chiếm được Xuân Lộc sẽ đổ xuống Sài Gòn. Xuân Lộc được coi như vòng đai bảo vệ phi trường Biên Hòa và Thủ Đô. Từ đầu tháng 4-1975 Sư đoàn 18 BB, các đơn vị Thiết giáp, Biệt động quân, Pháo binh tăng cường đã được đưa lên trấn đóng trên một tuyến dài 20 km. BV mở đầu chiến dịch Hồ chí Minh bằng cuộc tấn công Xuân Lộc từ ngày 9-4, trận chiến đẫm máu kéo dài 11 ngày, đây là một chiến thắng cuối cùng của QĐVNCH trước ngày đất nước lọt vào tay CS.

Bài này chúng tôi dựa theo sách của Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương, có tham khảo thêm tài liệu phía CS và các bài viết của Hồ Đinh, Phan Nhật Nam… cũng như của các nhân  chứng, ký giả chiến trường …

Chiến tuyến Xuân Lộc được thiết lập dọc theo Quốc lộ 1 dài độ hơn 10 km về phía Tây và 8 km về phía Đông. Chiến đoàn 52 (gồm Trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 + các đơn vị tăng phái) và Thiết đoàn xe tăng giữ mặt Tây tại ngã ba Dầu Giây trên đường đi Đà Lạt, Trung đoàn 48 (Sư đoàn 18 BB) và Liên đoàn 7 BĐQ phòng thủ mặt Đông từ núi Chứa Chan,  Giá Rai đến Xuân lộc.

Thị xã Xuân Lộc do Trung đoàn 43 (Sư đoàn 18 BB) và các Tiểu đoàn ĐPQ Long Khánh bảo vệ. Các lực lượng tăng phái gồm Trung đoàn 8 (SĐ-5), Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ, Liên đoàn 7 BĐQ, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, Lữ Đoàn 1 Dù, Sư đoàn 4 Không quân từ Cần Thơ yểm trợ… Tướng Lê Minh Đảo Tư lệnh Sư đoàn đóng tại Tân Phong phía Nam Xuân Lộc 3 cây số.

CSBV đưa vào mặt trận Sư đoàn 6 (2300 người), Sư đoàn 7 (4100 người), Sư đoàn 341, Sư đoàn 1 (3400 người), Sư đoàn 325 (5000 người), Trung đoàn 95B (1200 người), tổng cộng khoảng 17,000 người. Tư Lệnh Thiếu Tướng Hoàng Cầm, Chính uỷ Thiếu Tướng Hoàng Thế Hiệp.

https://i2.wp.com/vnafmamn.com/untoldpage/xuanloc_battle27.jpg

Biết trước BV sẽ tấn công Xuân Lộc Long Khánh, Tướng Đảo đã chuẩn bị trận địa chờ địch, ông khuyến khích dân chúng di tản, cho di chuyển các trại gia binh, bệnh viện, thương binh cùng các cơ sở chuyên môn về hậu cứ, ông cũng cho sửa sang các phòng tuyến, đào giao thông hào chuẩn bị chiến đấu. Theo Hồ Đinh, truyền tin của ta tại chiến trường rất lành nghề, đã bắt và giải mã được tần số CS, biết trước lệnh tấn công của địch nên đã tránh được nhiều tổn thất cho phía VNCH.

Năm giờ sáng 9-4 Cộng quân pháo kích thị xã Xuân Lộc trong 2 tiếng đồng hồ, khoảng 300 quả đại bác giết hại vô số  thường dân, tại nhà thờ thị xã dân chúng đang hành lễ bị trúng đạn pháo kích, nhiều người chết. Pháo vừa ngưng tức thì bộ binh, xe tăng CS ào ạt tiến vào, quân trú phòng chống trả mãnh liệt, hơn 10 xe tăng địch bị bắn hạ sau 6 tiếng đồng hồ giao tranh. Hai Tiểu đoàn đặc công bị thiệt hại nặng, hơn 100 tên bỏ xác tại trận, BV rút lui giữa ban ngày bị máy bay, pháo binh ta truy kích dữ dội. Địa phương quân Long Khánh phòng thủ mặt Bắc chiến đấu dũng cảm.

Trưa hôm ấy địch chém vè, sáng hôm sau 10-4 Sư đoàn 6, Sư đoàn 7 CS tấn công tuyến phòng thủ Long Khánh, hai Trung đoàn CS giao tranh ác liệt với chiến đoàn 52, một số tiền đồn tại các cao điển trên Quốc lộ 20 bị mất, tuyến phòng thủ của Chiến đoàn nay thu ngắn lại còn chừng 10 km.  Trên phòng tuyến chính từ 10-4 những trận đánh cấp Trung đoàn đã diễn ra tại phía Bắc, phía Đông và Đông Nam Long Khánh.

Sau trận đánh mở đầu thất bại, hôm sau 10-4  BV đem 2  Sư  đoàn 6, 7  cùng với xe tăng đại bác tiến đánh toà Hành chánh và Tiểu khu, sân bay thị xã và Tây Bắc Long Khánh, hai bên giành nhau từng căn nhà. Trưa 10-4 Cộng quân di chuyển trên tỉnh lộ từ Định Quán xuống bị máy bay trinh sát của VNCH phát hiện, không quân liền được gọi tới oanh kích gây nhiều thiệt hại nặng cho địch, hàng chục xe tăng, hằng trăm tên VC bị tiêu diệt.  Hai Trung đoàn địch từ hướng bắc Long Khánh ồ ạt tấn công vị trí phòng thủ của BĐQ và Trung đoàn 48 BB nhưng bị thảm bại, hàng trăm tên bỏ xác tại trận.

Đêm 11-4 Tiểu đoàn 2 của Chiến đoàn do Đại úy Út chỉ huy đã phục kích tiêu diệt một đoàn xe CSBV gần Suối Tre. Một Tiểu đoàn CS đang di chuyển trên đường từ đồn điền Bình Lộc về Xuân Lộc trên một đoàn xe 30 chiếc đầy bộ đội, đạn dược lương thực, quân dụng… đoàn xe bị lọt ổ phục kích của Tiểu đoàn 2/52. Hàng ngũ quân CSBV bị rối loạn vì hoàn toàn bất ngờ, địch bị bắn hạ ngay trên xe cũng như nhẩy xuống đất, cả Tiểu đoàn bị chận đánh tơi bời, hằng trăm tên bỏ xác tại trận, nhiều vũ khí bị tịch thu.

Sang ngày thứ tư 12-4 mặt trận Long Khánh được tăng cường Lữ đoàn Dù và một Tiểu đoàn pháo, cuộc đổ quân bằng trực thăng vận vĩ đại đã được Sư đoàn 3 và 4 Không quân thực hiện đúng thời gian qui định. Lữ đoàn Dù đã giao tranh dữ dội với Cộng quân để yểm trợ cho các lực lượng trú phòng. Hai Tiểu đoàn BV  đã đột nhập thị xã chiếm được một số cơ sở hành chánh quân sự, ĐPQ và Trung đoàn 43 đã dũng cảm đẩy lui địch, nhờ sự chiến đấu anh dũng của các đơn vị trú phòng Xuân Lộc vẫn còn đứng vững.

Tỉnh trưởng Long Khánh Đại tá Phạm Văn Phúc, sĩ quan BĐQ mới nhậm chức từ cuối tháng 3-1975, kiên quyết giữ vững vị trí chiến đấu bảo vệ Long Khánh, ông đã cho lệnh bắn bỏ những kẻ đào ngũ khiến cho tinh thần binh sĩ được nâng cao, ai nấy chiến đấu dũng cảm cho tới khi Bộ chỉ huy Tiểu khu phải rời về phía Nam Xuân Lộc.

Tướng Smith đã tường trình về Mỹ, ông đã ghi nhận Không quân VNCH đã chứng tỏ ý chí kiên cường gây thiệt hại nhiều cho đối phương. Trận giao tranh nhằm kiểm soát Xuân Lộc, CS quyết tâm tiêu diệt các đơn vị phòng thủ VNCH để lấy cửa ngõ vào Biên Hoà và Sài Gòn bằng bất cứ giá nào.

Sáng ngày 13-4 QĐVNCH vẫn giữ vững vị trí, nhờ sự yểm trợ chính xác của Không quân, lực lượng phòng thủ đã gây thiệt hại nặng nề cho BV. Phòng tuyến Tây Xuân Lộc, kể từ tối 13-4 co lại chỉ còn khoảng 6 cây số dọc theo Quốc Lộ 20.

https://i0.wp.com/vnafmamn.com/untoldpage/xuanloc_battle28.jpg

Sáng ngày 14-4, 15-4 Chiến đoàn 52 (khoảng 2,000 người gồm Trung đoàn 52 (SĐ-18), Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ, ĐPQ Kiệm Tân, Long Khánh) đã bị thiệt hại và mệt mỏi vì giao tranh liên tục với Cộng quân. Tại Ngã ba Dầu Giây trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt, BV tung thêm nhiều Sư đoàn có xe tăng yểm trợ cùng với pháo binh để chọc thủng phòng tuyến của ta tại ngã ba Dầu Giây của Chiến đoàn 52. Trong trận đánh cuối cùng này các chiến sĩ ta phải đương đầu với một lực lượng địch đông gấp 10 lần cùng với sự yểm trợ dữ dội của pháo binh và xe tăng T-54.

Trận chiến rất ác liệt tàn khốc ngay từ lúc mới giao tranh, những đợt xung phong biển người của Cộng quân đã tràn ngập các vị trí chiến đấu của VNCH, địch chọc thủng phòng tuyến và chia cắt các lực lượng ta, 4 xe tăng M-48 của VNCH bị trúng pháo kích, trời tối nên máy bay cũng không yểm trợ được. Chiến đoàn 52 đã bị BV đánh tan đêm 15-4, chỉ có hai đại đội khoảng 200 người chạy thoát về hướng Long Bình, khoảng 1500 người thuộc Chiến đoàn 52  BB bị thiệt hại, đánh tan tác trong 6 ngày cuối cùng tại mặt trận Dầu Giây. Phòng tuyến của Chiến đoàn tại ngã ba Dầu Giây Long Khánh tan vỡ đêm 15-4-1975, Pháo binh, Thiết giáp tại đây bị tiêu hủy hết.

Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân khu 3 xin Bộ TTM cho ném bom Daisy Cutter (Hồi 1975 người ta gọi nhầm là CBU) để ngăn sức tiến của Cộng quân. Hôm sau 16-4 vào lúc 11 giờ sáng hai trái bom khổng lồ đã được thả xuống vị trí đóng quân của BV, một đoàn xe dài đầy những xe tăng đại bác trên quốc lộ 20 từ Định Quán trở xuống. Theo lời Tướng Toàn có vào khoảng 2 Sư đoàn, 10 ngàn cán binh CS bị tiêu diệt, hằng trăm thiết giáp, đại bác bị phá huỷ, BV bị chận đứng tại Dầu Giây.

Ngày 20-4 Tướng Toàn bay vào Long Khánh gặp Tướng Đảo bàn kế hoạch rút quân bỏ Xuân Lộc. Sau này tại Hải ngoại, Tướng Toàn đã trả lời Phạm Huấn trong một cuộc phỏng vấn về chiến trường Long Khánh.

Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn cho biết sau khi phòng tuyến của Chiến đoàn 52 bị CS tràn ngập đêm 15-4, ông đã xin lệnh Bộ TTM cho ném bom Daisy Cutter vì địch tập trung rất đông đảo trong vùng này, BTTM đã chấp thuận đề nghị và cho thi hành ngay hôm sau.

“Hỏi: Trung Tướng có được báo cáo về kết quả sau khi những trái bom này được thả?

Đáp: Vâng, khoảng hai sư đoàn Cộng sản bị loại khỏi vòng chiến (hơn 10 ngàn quân) và rất nhiều chiến xa T-54, đại pháo của Bắc Việt bị hủy diệt khi đang di chuyển trên Quốc lộ 20, từ Định Quán xuống ngã ba Dầu Giây. Tôi đã đề nghị thả 5 bom ‘Daisy Cutter’ nữa xuống nhiều vùng tập trung quân khác của Cộng Sản Bắc Việt trên chiến trường Quân Đoàn III sau khi biết chắc rằng những pháo đài bay B- 52 của Mỹ không còn trở lại ViệtNam, và để quân ta có thể bung ra phản công, tiêu diệt địch, nhưng chỉ có 2 quả được thả xuống phía Bắc Dầy Giây mà thôi.

Hỏi: Lý do?

Đáp: Tôi được thông báo cho biết loại bom ‘Daisy Cutter’ tùy thuộc vào đầu nổ, và các chuyên viên của Mỹ. Mình có bom, nhưng không có đầu nổ và chuyên viên xử dụng cũng như không!

(Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước trang 164.)

Về điểm này Tướng Trần Văn Nhật, cựu Tư lệnh Sư đoàn 2 có viết trong cuốn hồi ký của ông:

“Cũng chính Tướng Toàn là Tư Lệnh chiến trường đã chấp thuận cho xử dụng 2 trong số 6 trái bom (vì chỉ còn có 2 đầu đạn) Daisy Cutter nặng 15 ngàn cân Anh, do phi cơ C-130 thả xuống yểm trợ cho mặt trận Xuân Lộc. Loại bom này có sức tàn phá khủng khiếp hơn cả B-52. Nổ 200 thước trên đầu ngọn cây nên được dùng để phá những khu rừng rậm làm bãi đáp cho trực thăng tiếp tế, tản thương. Đáng lý ra chúng ta có đến 27 trái bom loại này theo quyết định của Đại Tướng F.Weyand trong chuyến viếng thăm Việt Nam tháng 2/75 cùng với ông Phụ tá bộ trưởng Quốc phòng Eric Von Marbod. Ông đề nghị cấp tốc gửi qua Việt Nam vào giữa tháng 4/75 một số Daisy Cutter cùng một số chuyên viên kỹ thuật vì theo ông nghĩ vị trí của Cộng Quân càng ngày càng xuất đầu lộ diện, nên cần phải xử dụng loại bom tàn phá này rất thích hợp mà Không quân Việt Nam có thể thả bằng phi cơ bay chậm C-130 và tác dụng của nó còn khủng khiếp hơn B52. Rất tiếc chỉ có 6 trái đến được Việt Nam vào cuối tháng 4/75 và không hiểu sao chỉ có hai ngòi nổ”

(Cuộc Chiến Dang Dở trang 248.)

Bom BLU.82 Daisy Cutter

Bom CBU.58, CBU.71

Cũng theo ông có một sự ngộ nhận loại bom này với CBU-55 (Cluster Bomb Unit) nặng 500 cân Anh thường được thả bằng máy bay A-37 hay A-1, hay OV 10 (quan sát) loại bom này rớt xuống đất sẽ tung ra nhiều trái bom bi nhỏ hơn trái banh tennis màu da cam,  có thể lọt xuống hầm cá nhân, địa đạo, khi nổ nó sẽ tiêu thụ hết dưỡng khí trong khu vực từ 60 đến 20 thước , làm cho các sinh vật chết ngạt trong 24 giờ.

Theo tác giả Nguyễn Đức Phương, năm quả bom Daisy Cutter khác đã được đề nghị xử dụng tại Quân khu 3 nhưng vì Hà Nội đã cực lực tố cáo Mỹ đã ném loại bom này trước dư luận thế giới nên Mỹ không tiếp tục cung cấp ngòi nổ cho những quả còn lại. Cũng có giả thuyết cho rằng người Mỹ chỉ cho ném hai quả để ngăn chận bớt đà tiến quân quá nhanh của BV ngõ hầu di tản kịp thời. Có người cho rằng họ chỉ cho ném hai quả để thử nghiệm vũ khí, ý kiến trên và hai giả thuyết sau đều có vẻ đúng.

Về lý do rút bỏ Long Khánh Phạm Huấn đã phỏng vấn Tướng Toàn như sau.

Hỏi: Thưa Trung Tướng, ai đã ra lệnh rút bỏ Long Khánh  ngày 20-4-1975, Trung Tướng hay Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh?

Đáp: Tôi quyết định ra lệnh rút bỏ Long Khánh, sau khi bay lên Xuân Lộc, thảo luận với Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh .

Hỏi: Lý do đưa đến quyết định rút bỏ Long Khánh của Trung Tướng? Tôi có được tiếp xúc, phỏng vấn các cấp chỉ huy Tiểu Đoàn Trưởng, Đại Đội Trưởng, Lữ Đoàn I Nhẩy Dù , họ nói sáng ngày 20-4, Lữ Đoàn Dù và Lực  Lượng Thiết Giáp giao tranh giữa ban ngày và thắng lớn, tiêu diệt gần 2 Trung Đoàn Việt Cộng, thì được lệnh rút?

Đáp: Tôi quyết định rút Long Khánh vì biết rằng phòng tuyến này không thể giữ được nữa, ở lại thêm ít ngày, Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Lữ Đoàn I Nhẩy Dù sẽ bị đánh tan, bị thiệt quân vô ích. Lực Lượng địch dù bị thiệt hại rất nặng, nhưng vẫn còn 4 Sư Đoàn quân chính qui Cộng Sản Bắc Việt. Sau khi  thả 2 quả bom “Daisy Cutter”, tôi đã ra lệnh tăng cường cho mặt trận Long Khánh thêm một Thiết Đoàn Chiến xa nữa, nhưng 4 ngày sau, Thiết Đoàn Chiến xa này vẫn chưa thoát đi được khỏi khúc Ngã ba Dầu Giây. Trong khi đó Cộng quân đã chuẩn bị xong chiến dịch 2 tiến về Sài Gòn, với 5 Sư Đoàn Cộng Sản Bắc Việt ở mặt trận phía Đông sẽ tấn công thẳng vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên Hoà, và các căn cứ quân sự như Trường Thiết Giáp, Trường Bộ Binh Long Thành. Ba Sư Đoàn Cộng Sản Bắc Việt khác ở mặt trận Tây Bắc Sài Gòn sẽ tấn chiếm Tây Ninh. Do đó, tôi quyết định rút bỏ Long Khánh, lui quân về lập phòng tuyến mới phòng thủ Biên Hoà.

(Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước trang 164, 165.)

Cũng theo lời Tướng Toàn cuộc lui binh đã diễn ra tốt đẹp, chỉ có một đại đội của của Sư đoàn 18 và một pháo đội Dù bị thiệt hại.

Quyết định bỏ Xuân Lộc là một quyết định đúng, lúc khởi đầu cuộc  chiến Xuân Lộc là cửa ngõ Đông Bắc  để vào sài Gòn, đúng như  tầm quan trọng mà BV đã nhận định, Sư đoàn 18 đã cầm chân được cả một Quân đoàn BV và gây thiệt hại nặng cho đối phương. Nhưng tại Xuân Lộc nay ta không còn trừ bị để đưa vào mặt trận, vả lại tuyến phòng thủ Phan Rang đã bị Quân đoàn 2 CS phá vỡ, họ đang theo Quốc Lộ 1 tiến về Sài Gòn, vị trí của Xuân Lộc không còn quan trọng như trước.

Sư đoàn 18 BB và các lực lượng tăng phái, ĐPQ đã rút lui về về phía Nam theo liên tỉnh lộ 2 nối liền Long khánh và Phước Tuy rất có trật tự, an toàn, ít thiệt hại. Rút kinh nghiêm ở sự thất bại của cuộc triệt thoái Cao nguyên, gia đình binh sĩ đã được di tản từ trước trận đánh nên đã không xẩy ra tình trạng náo loạn như tại miền Trung tháng 3-1975. Trung đoàn 48 rút lui trước về đến Long Giao đặt pháo tại đây để yểm trợ tổng quát cho cuộc lui binh, tiếp theo là các đơn vị yểm trợ như công binh, truyền tin, quân y… Bộ chỉ huy Tiểu khu Long Khánh, Trung đoàn 43, Lữ đoàn Dù đi sau cùng bị thiệt hại nặng.

Theo Hồ Đinh kế hoạch lui binh có tổ chức và các cấp đều sát cánh với nhau.

“Tóm lại cuộc lui quân coi như thành công, nhờ có tổ chức, kế hoạch và trên hết, chính Tướng Đảo cũng như tất cả các đơn vị trưởng từ Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc, Đại Tá Đỉnh, Lữ đoàn trưởng Dù..đều đi bộ và tác  chiến như lính. Thử hỏi sao không đạt được chiến thắng?”

(Sư Đoàn 18 Bộ Binh Và Những Ngày Tử Chiến Tại Xuân Lộc.)

https://i1.wp.com/vnafmamn.com/untoldpage/xuanloc_18th5.jpg

Sư đoàn 18 BB bị thiệt hại khoảng 30% quân số, Chiến đoàn 52 bị thiệt hại tới 60%, ĐPQ, nghĩa quân bị thiệt hại nhiều nhất, hơn 5,000 quân CS bị tử thương cùng 37 chiến xa bị bắn cháy, chưa kể hai Sư đoàn đã bị bom Daisy Cutter tiêu diệt.

Nói về tinh thần chiến đấu của Sư đoàn 18 BB tại Long Khánh tháng 4-1975  Ông Dawson, trưởng nhóm phóng viên hãng thông tấn UPI viết:

“…Trận đánh kéo dài một ngày nữa, rồi lại một ngày nữa, và cứ thế. TướngĐảo và binh sĩ của ông đã đánh một trận đánh mà ít người dám nghĩ rằng họ có thể làm được. CS tung vào Xuân Lộc một sư đoàn nữa. Sư đoàn 18 vẫn tiếp tục chống cự. Ngày 10 tháng 4. Cộng quân lại đánh vào giữa thị xã và lại bị đẩy lui. Ngày 12, quân CSBV vẫn không tiến thêm được chút nào. Hai trung đoàn của quân đội nam Việt Nam không những đã giữ vững được vị trí mà còn phản công dữ dội hơn… Thêm 2000 đạn nữa rót vào Xuân Lộc, xé nát mọi vật. Sư đoàn 18 vẫn đứng vững. Tướng đảo ở lại bên các binh sĩ của ông và tiếp tục chiến đấu”

Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, trang 790.

Thượng tuần tháng 4-1975, Đài phát thanh và truyền hình tại Sài Gòn ca ngợi chiến thắng Long An (Thủ Thừa) “Chiến thắng Long An và Long Khánh là những nhát búa đập lên đầu bọn chủ bại”, mục đích nâng cao tinh thần quân dân. Lê Đức Thọ cũng phải công nhận thất bại tại trận Thủ Thừa, Long An và Xuân Lộc, Long Khánh:

“Sau hai lần B2 xin quân thì tôi vào chiến trường gặp lúc hội nghị miền vừa kết thúc. Tôi được nghe anh em báo cáo lại là đã bàn về việc đánh Xuân Lộc. Lúc ấy tôi cũng được biết  trước đó, theo chủ trương của Miền, anh em đã đánh Thủ Thừa, đường số 4, nhưng bị thiệt hại nặng nề, không giải quyết được chiến trường? Ngoài ra, còn có bọn địch ngoan cố chống cự như trận đánh vào Đồng Dù (Củ Chi), Nước Trong (Trường Thủ Đức, Trường Thiết Giáp) là các trận đánh ác liệt tại miền Đông, thương vong của ta không phải  ít. Do đó tôi mới có ý toan bàn với các đồng chí ngưng đánh Xuân Lộc lại. Nhưng nghe anh Dũng nói, tôi cũng nghĩ có thể mình mới vào chưa rõ hết tình hình; cứ để các đồng chí đánh vậy. Kết cục là anh em ta không đánh được Xưân Lộc, bị thương vong nặng phải rút ra”.
(CTVNTT, trang 791, 792)

Darcourt, sử gia người Pháp nhận xét.

“Trong hai ngày pháo binh CSBV tác xạ hơn 8000 trái đạn vào các vị trí của sư đoàn 18. Liên lạc vô tuyến với Bộ Chỉ Huy của Tướng Đảo bị gián đoạn rồi lại được tái lập. Quân của ông bám sát trận địa, chiến đấu cực kỳ dũng mãnh và nhất định không lùi, mặc cho những trận mưa lửa cứ trút lên đầu họ”.
(CTVNTT, trang 791)

Các nhà báo, nhà quân sự ngoại quốc nói về mặt trận này:

“Với ba sư đoàn 7, 341 và 16, Văn Tiến Dũng tin tưởng sẽ chiếm được Xuân Lộc một cách dễ dàng. Ông đã lầm, sư đoàn 18 chưa bao giờ được xem là một sư đoàn thiện chiến của miền Nam VN. Trái lại, có lần sư đoàn này còn được xem là sư đoàn tệ nhất. Thế mà trong những ngày cuối cùng của chiến tranh VN, sư đoàn này đã chiến đấu một cách dũng cảm. Không những họ đã giữ vững được trận địa mà lại còn phản công mỗi ngày”(D,Warner, người Úc)
(CTVNTT, trang 790, 791.)

Tướng Smith, trưởng phòng DAO Mỹ tại Sài Gòn đã phúc trình cho TMT lục quân:

“Chúng tôi đã tạo được một chiến thắng. Tại chiến trường Long Khánh, rõ ràng QĐVNCH đã chứng tỏ sự quyết tâm và anh dũng chống lại địch quân đông hơn gấp nhiều lần. Mặc dù chiến trường chỉ mới qua giai đoạn một, chúng tôi có thể nói không ngần ngại rằng QĐVNCH đã thắng vòng đầu”
(CTVNTT, trang 791)

Văn Tiến Dũng, người chỉ huy chiến dịch Hồ chí Minh đã phải công nhận tinh thần chiến đấu của QĐVNCH tại mặt trận Long Khánh trong hồi ký của y như sau:

“Các sư đoàn 7, sư đoàn 6 và sư đoàn 341 của ta đã phải tổ chức tiến công nhiều lần vào thị xã, đánh đi đánh lại diệt từng mục tiêu và phải nhiều lần đẩy lùi các cuộc tập kích của địch. Trung đoàn 43 địch bị tổn thất nặng. Pháo binh chiến dịch và pháo binh đi cùng các sư đoàn của ta đã phải dùng thêm cơ số đạn. Xe tăng, xe bọc thép của ta một số bị hỏng, một số phải trở về vị trí xuất phát tiến công để bổ sung xăng dầu, đạn dược.

Kế hoạch tiến công Xuân Lộc của Quân đoàn 4 lúc đầu chưa tính hết được sự phát triển phức tạp của tình hình, chưa đánh giá hết tính chất ngoan cố của địch. Tính chất giằng co ác liệt qua trận đánh này không phải trong phạm vi của Xuân Lộc-Long Khánh nữa rồi…
(Đại Thắng Mùa Xuân trang 174.)

Sau khi QK-1 và QK-2 bị thảm bại trên đường triệt thoái, những lực lượng còn lại tại QK-3 ai nấy đều xúc động tủi nhục cho danh dự quân đội và quyết tâm phản công lại CSBV tới cùng. Tại Long Khánh từ ông Tướng Tư lệnh cho tới người lính, từ bộ binh chính qui cho tới Địa phương quân, nghĩa quân, ai nấy đều chiến đấu rất kỷ luật can trường. Theo Phạm Huấn, Đại Tá Phạm Văn Phúc Tỉnh trưởng Long Khánh đã tử trận cùng hằng nghìn chiến sĩ khác, nhưng theo Hồ Đinh, ông Phúc đã bị VC bắt sống tại trận.

Chiến thắng Xuân Lộc, Long Khánh được coi như chiến thắng cuối cùng của miền Nam trước ngày mất nước, mặc dù có gây được tiếng vang và lấy lại được uy thế cho QĐVNCH nhưng cũng không cứu vãn nổi tình thế đã quá bi đát.

Bom Daisy Cutter vào khoảng tháng 4-1975 thường được dân Sài Gòn gọi nhầm là bom CBU. Chiều 21-4-1975 chúng tôi được nghe một ông bạn làm dân biểu, có chức vụ lớn tại Hạ viện cho biết:

“Mặt trận cuối cùng sẽ là mặt trận Biên Hòa, CSBV sẽ mất 10 sư đoàn, mình đã chuẩn bị bom CBU đầy đủ cả rồi chỉ chờ chúng đến.”

Ông ấy cũng cho biết tin này do một ông Tướng nói lại. Có thể do “xịa” tung ra để ru ngủ đồng bào ngõ hầu họ dễ bề cuốn gói ra đi êm thắm.

Theo lời Tướng Toàn như đã nêu trên, người Mỹ chỉ cho ngòi nổ để ném hai quả bom Daisy Cutter, họ nắm đằng chuôi từ đầu chí cuối tất cả mọi chuyện và không bao giờ đếm xỉa tới xương máu của cả hai miền Nam Bắc. Sinh mạng của nhân dân ta chẳng qua cũng chỉ là vật thí nghiệm cho một cuộc chiến tranh phản bội.

Trước khi cuộc lui binh khỏi Xuân Lộc bắt đầu, ngày 18-4 Uỷ ban Quốc phòng Thượng viện Hoa Kỳ biểu quyết bác bỏ đề nghị viện trợ khẩn cấp cho VNCH của Tổng thống Ford, họ chỉ cho tiền cứu trợ di tản. Bản tin được loan đi mau chóng, ai nấy đều thở dài thất vọng thấy rõ tấn tuồng hề chính trị đã đến lúc hạ màn, tinh thần chiến đấu của binh sĩ đột nhiên xuống thấp khi được biết sự thật đã quá phũ phàng tàn nhẫn: Án Tử hình đã được tuyên bố trên đồi Capitol.

Mấy hôm sau cuộc lui binh, ngày 23-4-1975 tại Đại học Tulane, New Orléans, Tổng thống Ford tuyên bố “Đối với Hoa Kỳ chiến tranh VN đã kết thúc” ….

Sư đoàn 18 BB, ĐPQ Long Khánh cùng các đơn vị tăng phái đã liều thân sống chết chống trả cuộc tấn công vũ bão của BV, đã chận đứng cuộc tiến quân của địch tại Dầu Giây, Xuân Lộc hơn một tuần lễ. Nhưng tất cả mọi nỗ lực và hy sinh gian khổ của binh lính  để giữ vững phòng tuyến, xương máu của biết bao nhiêu chiến sĩ cuối cùng cũng chỉ là “dã tràng xe cát”, nước lã ra sông…

“Khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, buông súng, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo dừng quân trên xa lộ Biên Hòa, nhìn vào hướng Trường Bộ Binh Thủ Đức, Long Thành Bà Rịa, và xa kia Xuân Lộc, Long Khánh, gần hơn Trung Liệt Đài của Nghĩa Trang Quân Đội, Long Bình. Ông thấy thấp thoáng bức tượng Tiếc Thương tạc hình Người Lính Chờ Đợi in hình trong không gian mờ khói đạn. Người lính cuối cuộc chiến chợt thoáng nhớ những lời thơ ngắn:

‘Vì anh là lính áo rằn
Ra đi nào biết mấy trăng mới về…’

Những câu thơ của em ông, Trung tá Lê Hằng Minh, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến ‘Trâu Điên’, người lính đã ra đi từ một ngày Hè năm 1966 nơi chiến trường Trị-Thiên… …rất nhiều người lính đã ra đi, không trở về từ những vùng đất không hề biết. Hôm nay sáng 30 tháng Tư năm 1975, rất nhiều người lính không còn chốn trở về…”

(Phan Nhật Nam, Những Người Lính Chiến Trường Xưa)

Trọng Đạt