Saturday 20 April 2019

BÀI 69: CÁC TỔNG THỐNG MỸ VÀ VIỆT NAM (Phần I)

Diễn Đàn Trái Chiều

SATURDAY, APRIL 20, 2019
 Tháng Tư Đen đương nhiên là một tháng u buồn, ảm đạm, chúng ta ngồi thương cho số phận đất nước. Nhưng đó là thái độ tiêu cực vô bổ. Điều cần làm là tỉnh táo nhìn lại lịch sử để biết cho rõ chuyện gì đã xẩy ra, chia sẻ với con cháu như những bài học biết đâu sẽ giúp chúng sau này.
Diễn Đàn Trái Chiều sẽ viết hai bài về các tổng thống Mỹ có liên quan đến vấn đề VN, xét lại vai trò và trách nhiệm của họ đưa đến số phận đen tối của đất nước ta. Hai bài này sẽ xét quan hệ Mỹ-Việt qua 2 giai đoạn: với Quốc Gia VN và với VNCH, cho tới năm 1975.
       Cuộc chiến VN cần phải có cả vạn trang sách để tìm hiểu và thảo luận.
Trong khuôn khổ diễn đàn này, chỉ có thể tóm lược một cách đơn sơ nhất trong vài ngàn chữ thôi. Với những vị quen thuộc với Việt sử, bài này không có gì mới lạ, DĐTC chỉ là nhắc lại vài điểm chính cho những bạn trẻ ở Mỹ học lịch sử chiến tranh VN qua sách sử cấp tiến Mỹ, cũng như cho giới trẻ ở VN từ hồi nào đến giờ chỉ biết lịch sử cận đại VN qua cái diễn giải một chiều lố bịch của VC, kiểu súng lục bắn rớt B-52!
Bài này cũng không bàn về vai trò và trách nhiệm của người Việt, chính quyền cũng như dân chúng.
Trước khi đi xa hơn, có vài điều phải coi như tiền đề để thảo luận.

1.   Quyền hạn của tổng thống Mỹ cực lớn, nhất là trong chính sách quốc phòng và đối ngoại, do đó chính sách của Mỹ đối với VN tùy thuộc gần như hoàn toàn vào cá nhân các tổng thống, có thể thay đổi hoàn toàn từ ông này đến ông khác. Tuy nhiên, quyền hạn của họ cũng bị giới hạn bởi quốc hội và nhất là dư luận quần chúng và nhu cầu bầu bán cho cá nhân họ cũng như cho đảng của họ. Tất cả những giả thuyết về thế lực ngầm quốc tế nào đó, theo ý kiến cá nhân, chỉ là chuyện vớ vẩn, không có căn bản và không đáng tin, tuy ai muốn tin vẫn có quyền tin.
2.   Tất cả các tổng thống Mỹ đều lấy quyết định dựa trên mục tiêu tối hậu là quyền lợi của nước Mỹ và dân Mỹ, tuy ‘quyền lợi’ có thể khác nhau từ vị tổng thống này đến vị khác. Điểm mấu chốt cho chúng ta là xin đừng bao giờ nghĩ họ phải hành động vì quyền lợi của nước VN và dân VN. Đừng bao giờ trách cứ họ đã phản bội hay bán đứng VN, cũng như đừng bao giờ thắc mắc họ đã đặc biệt thương hay ghét dân Việt.
3.   Tất cả các tổng thống Mỹ đều là con người, không ai là thần thánh hay ác qủy, tuyệt đối tốt hay xấu, tuyệt đối hoàn hảo hay rác rến. Họ cũng bị chi phối bởi những hỷ nộ ái ố, tự ái, thể diện, tham vọng, thói hư tật xấu, hay ngược lại bởi tính vị tha, nhân đạo cá nhân. Họ cũng đã phạm những sai lầm, sơ xuất như bất cứ người nào khác.

TỔNG THỐNG MỸ VÀ QUỐC GIA VIỆT NAM
Quốc Gia Việt Nam trên nguyên tắc ‘ra đời’ khi thực dân Pháp chính thức trao trả độc lập năm 1949 dưới sự lãnh đạo của Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, khi đó không chính thức gọi là vua hay hoàng đế. Chính thức cáo chung tại miền bắc năm 1954 khi Việt Minh (VM) tiếp thu Bắc Việt, và miền nam năm 1955 khi Bảo Đại bị truất phế và VNCH ra đời. Đây là thời đại của các tổng thống Truman và Eisenhower.

1.     TT Truman. Dân Chủ 1945-1953
TT Harry Truman kế nhiệm TT Roosevelt qua đời vì bệnh tháng 4/1945.
TT Roosevelt là người chống việc thực dân đô hộ các thuộc địa. Ông chủ trương ép các đồng minh Âu Châu phải trao trả độc lập cho các thuộc địa sau khi triệt hạ được trục phát-xít Đức-Ý-Nhật. Trong vấn đề Đông Dương, ông đề nghị ba nước Việt-Miên-Lào phải được đặt dưới một chế độ đặc biệt, gọi là ‘trusteeship’ dưới quyền cai quản của một ‘ủy ban quốc tế’ gồm có Pháp, Tàu, Nga, và đại diện ba nước, trong một thời gian chuyển tiếp có thể kéo dài vài chục năm từ thuộc địa qua độc lập trọn vẹn. Coi như thời gian ba nước thuộc địa cần có để ‘tập tự trị’.
TT Truman chấp chánh trong giai đoạn mới, khi Thế Chiến Thứ Hai sắp chấm dứt tuy vẫn còn đánh lớn tại Á Châu. Nhưng ông lại phải trực diện với một vấn đề gai góc hơn, đó là sự lớn mạnh của tân đế quốc đỏ Liên Xô. Vừa giải quyết xong cuộc chiến với Nhật, thì ông đã phải đối phó với sự lớn mạnh của Hồng Quân của Mao, đưa đến đại thắng của Tàu cộng năm 1949 với sự giúp đỡ tối đa của Liên Xô. Ngay sau đó thì bàn tay lông lá của Liên Xô bò qua bán đảo Triều Tiên, dựng lên và nuôi lớn bắc Triều Tiên với tham vọng thôn tính luôn nam Triều Tiên, đưa đến cuộc chiến nam-bắc Triều Tiên.
Trước mối đe dọa của CS quốc tế, TT Truman lo sợ mất Âu Châu, nên chú tâm củng cố việc phòng thủ Âu Châu, một mặt viện trợ kinh tế tối đa để tái thiết Tây Âu qua chương trình mang tên tướng Marshall, mặt khác tìm cách thành lập một liên minh quân sự chống Liên Xô, sau này ra đời với cái tên Liên Minh Bắc Đại Tây Dương, NATO.
Trong khối Tây Âu, nhân vật với cái tôi vĩ đại nhất lịch sử nhân loại, cái tôi cá nhân cũng như cái tôi quốc gia, chính là De Gaulle của Pháp. Tướng De Gaulle khi đó chưa là tổng thống, nhưng vì là người lãnh đạo chính quyền lưu vong Pháp dưới thời Hitler chiếm nước Pháp, ông có tiếng nói rất lớn. Điều kiện của De Gaulle để Pháp tham gia một liên minh quân sự chống Nga tại Âu Châu là Pháp phải được giữ Đông Dương, dù cho ba nước Đông Dương sẽ được độc lập trên nguyên tắc, nhưng trên thực tế vẫn phải lệ thuộc Pháp trong cái khối gọi là Liên Hiệp Pháp, và cả ông vua của 3 nước đều là bù nhìn bình phong. Tướng De Gaulle nhất quyết không nhả các thuộc địa Đông Dương cũng như Phi Châu.
Mặt khác, TT Truman hiển nhiên cũng nhìn thấy nguy cơ làn sóng đỏ Trung Cộng tràn xuống VN và Đông Nam Á, nên cũng thấy cần Pháp trở lại Đông Dương để chặn.
Vì cần Pháp, TT Truman bỏ kế hoạch trusteeship của TT Roosevelt, gián tiếp chấp nhận và giúp Pháp trở lại chiếm vị thế tại Đông Dương. Đây có lẽ là quyết định có hệ quả quan trọng nhất cho số phận đất nước ta. Nếu như De Gaulle không yêu sách và nếu như TT Truman thi hành sách lược của TT Roosevelt, thì lịch sử đã đi về một hướng khác, có lẽ sẽ không có hai cuộc chiến tranh VN kéo dài 30 năm.
Quân đội Pháp dưới quyền tướng Leclerc rầm rộ trở lại Đông Dương với sự hậu thuẫn của Mỹ và tiếp sức của quân đội Anh có trách nhiệm giải giới quân Nhật trong Nam, và quân đội của Tầu khi đó dưới quyền Tưởng Giới Thạch lo giải giới quân Nhật tại miền Bắc. Tướng Leclerc trục xuất VM ra khỏi Hà Nội và tất cả các tỉnh lớn.
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất ra đời tháng Chạp 1946. Chính quyền ‘độc lập’ của Quốc Gia VN với Bảo Đại mất chính nghiã. VM lớn mạnh trong rừng núi Bắc Việt.
Cuộc chiến ra đời trong tinh thần ái quốc chống thực dân Pháp mau mắn chuyển hướng thành cuộc chiến quốc cộng vài năm sau, khi Trung Cộng công khai giúp đỡ VM và VM bắt đầu thi hành các chính sách cộng sản như cải cách điền địa theo mô thức Tàu cộng trong những vùng chiếm được, trong khi Mỹ công khai giúp Pháp và chính quyền Bảo Đại từng bước tìm độc lập thật sự, nhưng từng bước quá nhỏ và quá chậm. Người Việt ái quốc bị kẹt trong thế phải lựa chọn: một là đi theo cộng sản VM chống Pháp đến cùng, hai là chấp nhận Bảo Đại như một bước tiến đến độc lập hoàn toàn không lệ thuộc thực dân cũng chẳng bị nhuộm đỏ. Rất nhiều người yêu nước thật sự, đi theo VM nhưng sau ít lâu, không chấp nhận CS, ‘về thành’ như các ông Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu và Phạm Duy. Nhiều người khác đi theo Việt Quốc hay Việt Cách, cho đến khi các tổ chức này bị VM tiêu diệt, đành phải về với Bảo Đại.
Cuối trào Truman cũng là giai đoạn cam go nhất khi VM với viện trợ quân sự ào ạt của Mao sau khi đã chiếm được cả lục địa Tầu, đã đủ lớn mạnh để tung ra những trận đánh biển người, nướng lính theo sách lược của Mao trong khi Pháp thẳng tay diệt dưới quyền tướng De Lattre de Tassigny. Cuộc chiến leo thang, thanh niên Việt cả hai bên chết hàng vạn, nhưng vẫn bất phân tháng bại.
Kết luận đơn giản nhất, TT Truman có ‘tội’ vì đã giúp Pháp trở lại VN, đẻ ra cuộc chiến tranh Đông Dương thứ nhất. Cũng phải nói ngay nếu TT Truman không giúp Pháp trở lại, thì cả nước VN đã bị cộng sản hóa ngay sau cái gọi là Cách Mạng Tháng 8/45 khi VM chiếm chính quyền trong khoảng trống sau khi Nhật đầu hàng. Các đảng phái quốc gia khi đó đơn độc, hiển nhiên không đủ khả năng chống đỡ VM với TC và Liên Xô đứng sau lưng.

2.     TT Eisenhower. Cộng Hòa 1953 -1960
Cựu tư lệnh lực lượng đồng minh đánh tan Hitler, tướng Dwight Eisenhower đắc cử tổng thống Mỹ, nhậm chức đầu năm 1953.
Ông tiếp nhận một tình trạng dở dở ương ương tại Đông Dương. Ông giúp Pháp một cách bất đắc dĩ vì là đồng minh chính trị nhưng trong thâm tâm không ưa Pháp và muốn giúp VN được độc lập thật sự và mau chóng.
Bất ngờ, ông bị đặt trước chuyện đã rồi khi Pháp quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, đóng chốt tại con đường tử huyệt của VM qua Lào, để câu VM đến đánh, ngõ hầu Pháp có cơ hội dùng hỏa lực mạnh hơn để tiêu diệt hết. VM chấp nhận thách đố, mang quân đến bao vây ĐBP với ý định ngược, tiêu diệt quân Pháp một lần cho trọn.
Pháp đã đánh giá VM sai lầm hoàn toàn, bị đe dọa tiêu diệt thật. Cầu cứu TT Eisenhower mang bom nguyên tử chiến lược –nhỏ- tiêu diệt hầu như toàn bộ lực lượng VM đang tập trung quanh ĐBP. TT Eisenhower tham khảo với Anh Quốc, lo ngại việc tham gia quá lớn của Mỹ sẽ mang tai tiếng cho Mỹ, sẽ bị gắn liền với việc bảo vệ thực dân Pháp duy trì thuộc địa. Ông quyết định chỉ tham gia mạnh nếu có một liên minh quốc tế trong đó có Anh, Úc, Tân Tây Lan và vài quốc gia Á Châu như Phi Luật Tân, Thái, Mã Lai. Liên minh không thành vì Anh Quốc lo ngại sẽ xẩy ra đại chiến thế giới thứ ba hay ít nhất đại chiến Á Châu và TC sẽ đánh Ấn Độ, Mã Lai, Tân Gia Ba, là những tử huyệt của Anh. Anh khi đó đã trả độc lập lại cho Ấn Độ và Mã Lai, nên cũng không thấy lý do gì phải giúp Pháp duy trì thuộc địa Đông Dương.
Không có sự tham gia của Anh, TT Eisenhower từ chối can thiệp mạnh hơn, tuy có tăng cường phi vụ thả bom chung quanh ĐBP cho có, nhưng không đủ để cứu Pháp.
TT Eisenhower có thể đã tính đường khác. Chấp nhận cho Pháp thua để Mỹ vào thay thế đánh VM mà không bị mang tiếng là đồng minh của thực dân, đưa cuộc chiến đi thêm một bước nữa vào cuộc chiến tư bản - cộng sản quốc tế, không còn mang cái áo chiến tranh dành độc lập của một thuộc địa nữa.
Pháp thất trận ĐBP, qua Hòa Ước Geneve, tháo chạy, trao một nửa nước cho VM, phần miền nam còn lại, bán cái qua cho Mỹ.
TT Eisenhower mang con bài của mình về nước, thủ tướng Ngô Đình Diệm chấp chánh với hậu thuẫn mạnh mẽ của cả TT Eisenhower lẫn đảng đối lập DC qua các thượng nghị sĩ Mike Mansfield và John Kennedy, cũng như yểm trợ tích cực của khối công giáo của Hồng Y Francis Spellman.
Thủ tướng Diệm quan niệm VN cần phải lột xác, xóa bỏ tận gốc mọi dấu vết của chế độ thuộc địa mới có hy vọng thành công trong cuộc chiến sống còn chống CS. Bắt đầu bằng cách truất phế quốc trưởng bù nhìn Bảo Đại chỉ lo ăn chơi tại Hồng Kông và Nice, trục xuất tất cả quan chức Pháp, xóa bỏ mọi dấu vết của chế độ thuộc địa, và tiêu diệt tận gốc tất cả băng đảng, giáo phái tay sai của Pháp như Bình Xuyên, và cả các quan lại trong các đảng gọi là ‘quốc gia’. Ông mau mắn chứng minh cho dân Việt và cả thế giới thấy ông là người yêu nước chân chính, có khả năng và được hậu thuẫn mạnh của những người Việt quốc gia không chấp nhận Pháp nhưng cũng chống CS.
TT Eisenhower và cả đảng DC tích cực hậu thuẫn thủ tướng rồi tổng thống Diệm, từ kinh tế đến quân sự và cả chính trị, xã hội. Đưa đến thời cực thịnh của miền Nam, dưới chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. VN trở thành mô thức phát triển mẫu mực cho một nước chậm tiến mới thoát khỏi đô hộ, vừa phải ổn định chính trị, vừa phải lo định cư một triệu người bắc di cư, vừa lo chống đỡ đe dọa CS xâm lăng. Một gương sáng mà thủ tướng Lý Quang Diệu của Tân Gia Ba khi đó còn phải ước mơ.
Nhìn chung, TT Eisenhower là người có ‘tội’ là đã bỏ qua cơ hội tiêu diệt VM tại ĐBP, nhưng sau đó lại là người có công lớn đã củng cố miền Nam dưới Đệ Nhất Cộng Hòa.

TỔNG THỐNG MỸ VÀ VIỆT NAM CỘNG HÒA
Quốc Gia Việt Nam cáo chung năm 1955 khi thủ tướng Ngô Đình Diệm truất phế Bảo Đại, thành lập chế độ Cộng Hòa, chấp chánh như tổng thống đầu tiên của VN. VNCH tồn tại 20 năm, tới 1975 khi CSVN chiếm trọn miền Nam.

3.     TT Kennedy. Dân Chủ 1961 – 1963
(Đoạn này trích dẫn từ bài #18: TT Kennedy Và VN đã đăng trên DĐTC tháng 4/2018:
Năm 1960, TNS John Kennedy đắc cử tổng thống. Ông tin tưởng một thể chế trung lập Lào với sự chấp nhận của Liên Xô sẽ bảo đảm Lào thành trái độn ngăn cản con đường ‘nam tiến’ của CSBV. TT Kennedy vận động Nga để rồi cuối cùng đẻ ra được hiệp định trung lập hóa Lào năm 1962. Một thể chế trung lập quái đản, trao vào tay Pathet Lào, con đẻ của CSBV, một nửa đông-nam của lãnh thổ Lào, giáp giới với CSBV, VNCH, và Căm Pu Chia, tức là để nguyên hành lang này cho CSBV chuyển quân vào Nam VN qua cái sau này gọi là ‘đường mòn HCM’.
Đây là sai lầm chiến lược vĩ đại mang theo hậu quả cực kỳ tai hại cho miền Nam VN của tân tổng thống trẻ không bao nhiêu kinh nghiệm. TT Eisenhower đã đúng hoàn toàn khi tiên đoán CSBV sẽ không bao giờ tôn trọng trung lập của Lào bất kể thái độ của Liên Xô, và sẽ chiếm Căm Pu Chia và VNCH qua ngã Lào không sớm thì muộn.
Nhiệm kỳ của TT Kennedy cũng trùng hợp với sự ra đời chính thức và lớn mạnh của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN như công cụ của CSBV.
Năm 1963 là cái mốc đổi đời của VNCH. Cuộc chiến leo thang mạnh khi CSBV bắt đầu chuyển quân ào ạt vào miền Nam trong khi TT Diệm gặp khó khăn chính trị lớn khi biến cố Phật giáo miền Trung nổ ra, rồi sau đó bị lật đổ.Năm này cũng là năm truyền thông Mỹ đổ bộ vào miền Nam và tin tức chiến sự VN cũng như những khó khăn chính trị của TT Diệm bắt đầu tràn ngập mặt báo và TV Mỹ. Hàng đoàn ký giả Mỹ thay vì chỉ làm nhiệm vụ thông tin trung thực thì đều đã biến thành chuyên gia sách động cho việc Mỹ chấm dứt can thiệp vào cuộc chiến, triệt để bôi bác miền Nam, tiếp tay cho bộ máy tuyên truyền của CSVN trong dư luận Mỹ.
Năm 63 cũng là năm TT Kennedy rất sợ tin xấu vì ông chuẩn bị tái tranh cử trong năm 64. TT Kennedy nhìn thấy rõ hai lựa chọn của ông: một là phủi tay, chấm dứt mọi can thiệp, và hai là can thiệp mạnh hơn. Nhất chín nhì bù, không có giải pháp lằng nhằng ở giữa.
Giải pháp rút lui ngay khó làm được vì Mỹ vẫn còn bị chi phối bởi thuyết domino, lo sợ sẽ mất hết cả Đông Nam Á nếu bỏ Nam VN, chưa kể TT Kennedy vẫn bị ám ảnh bởi hình ảnh một tổng thống yếu đuối bị Khrushchev coi thường, thất bại hai lần ở Cuba (trong vụ đổ bộ tại Vịnh Con Heo, và vụ tháo gỡ hỏa tiễn nguyên tử của Liên Xô tại Cuba), cũng như viễn tượng phải tranh cử chống ông diều hâu Nixon trong kỳ bầu cử tới. Ngược lại, can thiệp mạnh chỉ có thể thực hiện được nếu loại bỏ được anh em ông Diệm-Nhu vì TT Diệm không chấp nhận can thiệp sâu hơn của Mỹ.
Ở đây không phải chỉ là việc TT Diệm bác bỏ ý kiến đổ bộ lính Mỹ vào VN, mà còn là việc ông chống lại ý định của Mỹ muốn gia tăng kiểm soát cuộc chiến quân sự cũng như kiểm soát chính trị và kinh tế. Người Mỹ muốn nắm quyền quyết định quân sự, nắm luôn hầu bao viện trợ quân sự và kinh tế, đồng thời ép TT Diệm thi hành những cải tổ chính trị theo ý của họ. Những yêu sách quá lớn mà TT Diệm cương quyết không nhượng bộ.
Về phiá VNCH thì một số tướng lãnh đã rục rịch tính chuyện lật đổ TT Diệm vì họ cho rằng ông này đã thất bại, mất hậu thuẫn dân, khiến VC ngày càng lớn mạnh, đe dọa sự tồn vong của cả miền Nam. Nhưng các tướng cũng chỉ có thể đảo chánh nếu nhận được bảo đảm Mỹ sẽ không can thiệp cản trở đảo chánh, hay nếu đảo chánh thành công, sẽ tiếp tục hậu thuẫn cuộc chiến chống CSBV. Chứ nếu đảo chánh xong, Mỹ rút đi không yểm trợ cho cuộc chiến thì nguy nặng vì VNCH sẽ không thể nào đương đầu được với CSBV vẫn nhận được viện trợ quân sự hùng hậu từ khối Liên Xô và TC.
Sau nhiều lưỡng lự và tranh luận nội bộ, chính quyền Kennedy lựa con đường can thiệp mạnh, chuyển qua giai đoạn tích cực áp lực các tướng lật đổ TT Diệm.
Cuộc đảo chánh năm 63, bất kể nguyên nhân và diễn biến, là một biến cố ‘đổi đời’, làm suy yếu nền tảng chính trị và quân sự của chính quyền VNCH, nhất là các tướng cả 3 năm sau vẫn bận  rộn ‘chỉnh lý’ nhau, thay đổi các tư lệnh quân sự và chỉ huy địa phương như chong chóng.
Nhìn vào những sự kiện lịch sử trên, ta thấy rõ ta thua không phải năm 75, mà đã thua từ năm 63 với những khó khăn chính trị bị TTDC Mỹ khai thác tiếp tay cho VC, và khi TT Diệm bị lật đổ, hay xa hơn, thua từ năm 62 khi TT Kennedy phạm sai lầm chiến lược vĩ đại, ký hiệp ước ngớ ngẩn ‘trung lập hóa’ Lào.
TT Diệm trong 6 năm đầu là một vĩ nhân có công lớn khi đã thành công xây dựng nên một VNCH tương đối thịnh vượng và hùng mạnh từ đống tro tàn do thực dân Pháp để lại, nhưng ông cũng đã phạm nhiều sai lầm lớn trong năm sau đó, khi gặp khó khăn chính trị nội bộ. Càng gặp khó khăn, TT Diệm càng tự cô lập, càng dựa vào gia đình, và càng trở nên độc đoán, đưa đến việc mất lòng dân rất nhiều, cuối cùng đi đến đảo chánh. Việc dân miền Nam nói chung khi đó bất mãn chế độ, ào ạt biểu tình chống TT Diệm trong vụ Phật giáo để rồi vui mừng xuống đường hoan hô Cách Mạng 1/11/1963 là những dữ kiện lịch sử, không thể phủ nhận, viết lại được.
Nếu TT Eisenhower có công lớn giúp TT Diệm gây dựng nên một VNCH tương đối thịnh vượng và hùng mạnh, thì TT Kennedy chính là người đã lấy 2 quyết định cực tai hại là mở hành lang ‘đường mòn HCM’ bên Lào cho CSBV xâm nhập và giúp lật đổ TT Diệm mở toang cửa cho TT Johnson can dự mạnh, khiến cuộc chiến của miền Nam mất hết chính nghiã, cuối cùng đưa đến việc mất cả miền Nam VN vào tay CSBV. Hơn tất cả các tổng thống khác, TT Kennedy đã là người chịu trách nhiệm lớn nhất trong việc mất miền Nam VN vào tay CSBV.
(Còn tiếp kỳ sau với vai trò quan trọng hơn của các TT Johnson, Nixon và Ford)

APRIL 20 – 2019

BÁO CÁO CỦA CÔNG TỐ MUELLER
Cuối cùng thì báo cáo của công tố Mueller đã được công khai hóa nguyên văn, tuy với khá nhiều đoạn ‘bôi đen’. Nói tóm lại, vẫn chỉ là con voi đẻ ra con chuột nhắt, chẳng có tin mật bất ngờ nào. Sau khi DC và TTDC khua chiêng trống rầm rộ, báo cáo của công tố Mueller vẫn chẳng thay đổi một ly ông cụ nào tóm lược của bộ trưởng Tư Pháp Barr trước đây: TT Trump vẫn vô tội! Bất kể mọi biện bạch, phân tách, bới móc, chê bai, chỉ trích,…
Phe CH hoan hỷ ca hát “Game over!” Trò chơi chấm dứt!
Công tâm mà nói, đảng DC và TTDC nợ TT Trump một lời xin lỗi. Nhưng thay vì xin lỗi, họ tiếp tục lo kiếm rác và càu nhàu, nhưng càng càu nhàu thì dân Mỹ càng nhìn thấy rõ ý đồ phe đảng muốn bứng TT Trump không hơn không kém, bất chấp kết quả bầu cử năm 2016.
Dưới đây là một ít điểm chính mới, cần lưu ý.
-     Tổng cộng có hơn 850 đoạn bị bôi đen trong toàn bộ báo cáo dầy khoảng 450 trang, được xếp thuộc 4 loại: 1) thảo luận của đại bồi thẩm đoán [liên quan đến việc truy tố một vài cá nhân], 2) tin tức mà nếu phổ biến sẽ di hại đến các hoạt động an ninh tình báo của Mỹ ở ngoài nước [hu hết liên quan đến việc thông đồng với Nga], 3) chi tiết về các cuộc điều tra đang được tiến hành [liên quan đến một vài cá nhân còn đang bị điều tra], và 4) tin tức có thể gây hại cho tên tuổi những người đã được thẩm vấn nhưng không có tội gì. Tất cả đều là những lý do chính đáng theo đúng luật lệ hiện hành. Ông Barr đã đề nghị nếu quốc hội muốn, ông sẽ báo cáo chi tiết hơn về các đoạn bôi đen trong một phiên họp kín với các lãnh đạo quốc hội. Tuy nhiên phe DC muốn bi thảm hoá vấn đề đã bác bỏ đề nghị hợp lý này, và đòi đưa công tố Mueller ra điều trần trước quốc hội, một mưu toan thô thiển để các chính khách DC, nhất là những vị đã ghi danh ứng cử tổng thống có dịp múa mép trước ống kính TV.
-     Kết luận chung của NBC (chẳng ai có thể nói NBC ‘thân thiện’ với TT Trump): bản tóm lược của bộ trưởng Tư Pháp Barr đưa ra hôm trước khá chính xác. Báo Washington Post (chưa bao giờ nổi tiếng là thân thiện với TT Trump) nhận định những đoạn bôi đen có vẻ chỉ là những chi tiết không quan trọng. Những gáo nước lạnh lên đầu bà Pelosi là người nhất định không tin tóm lược của ông Barr mà đòi coi báo cáo thật. Ngược lại, New York Times phán “không tin ông Barr, phải công khai hóa tất cả những đoạn bôi đen”, dĩ nhiên chỉ là ý đồ muốn bắt chẹt vì NYT hiểu rõ những bôi đen không thể công khai hóa được theo luật cũng như đã có sự đồng ý của ông Mueller và cả ủy ban của ông với hơn một tá luật sư DC.
-     Báo cáo của ông Mueller cho biết TT Trump lúc đầu phản ứng rất gay gắt chống cuộc điều tra của ông Mueller, cho rằng cái ghế tổng thống của ông thật sự đã bị đe dọa. Theo ông Mueller, lúc đầu, TT Trump đã có ý định sa thải ông Mueller, nhưng ý định này đã không thành vì sự phản đối của chính các luật sư và phụ tá/cố vấn của TT Trump. Tổng thống hay vua hay tù trưởng muốn làm cả triệu chuyện, nhưng bị các cố vấn và phụ tá thuyết phục không nên làm, là chuyện đã có từ thời tù trưởng các bộ lạc cách đây cả chục ngàn năm, có gì kinh hoàng? Dù vậy, TTDC nhất loạt phán đây chính là lý do để đàn hặc TT Trump cho dù câu chuyện chỉ là ý định không thực hiện. Chỉ trong một ngày, CNN và MSNBC đã nói đến ‘đàn hặc’ hơn 300 lần, cố tình gây áp lực lên bà Pelosi là người không muốn đàn hặc vì biết rõ không đủ yếu tố cũng chẳng đủ hậu thuẫn. Chuyện này chẳng có gì mới lạ: ngay từ đầu TT Trump đã công khai công kích ông Mueller và liên tiếp đe dọa sa thải ông ta, nhưng đã không làm vì nhiều cố vấn và phụ tá khuyến cáo không nên làm. Bây giờ, lấy lý do TT Trump ‘có ý định’ sa thải Mueller để đàn hặc thì đúng là khối DC đang chết đuối, cố tìm phao. Làm sao có thể đàn hặc truất phế tổng thống dựa trên một ý muốn đã không được thực hiện? Bà ca sĩ Madonna muốn đặt bom Tòa Bạch Ốc nhưng không làm, như vậy có nên bắt bà đi tù không?
-     Báo cáo của ông Mueller xác nhận đã tuyệt đối không có bất cứ quan hệ nào giữa bất cứ nhân viên hay phụ tá nào của ban vận động tranh cử của ông Trump với các người Nga được gửi qua Mỹ để thâm nhập và phá cuộc bầu cử tổng thống. Cái tội lớn nhất mà DC và TTDC chụp lên đầu ông Trump trong hơn hai năm qua đã được ông Mueller xác nhận là chuyện bá láp.
-     Việc thông đồng với Nga coi như chấm dứt, bây giờ phe đối lập và TTDC chiả mũi dùi vào việc cản trở công lý trong vụ cách chức giám đốc FBI. Kết luận của ông Mueller, đúng như tóm lược của ông Barr hôm trước, là đã không có bất cứ bằng chứng nào về việc TT Trump cố ý cản trở công lý hay vi phạm bất cứ luật nào. Tuy nhiên ông Mueller không thể xác định TT Trump hoàn toàn ‘vô tội’ vì theo định nghiã của luật Mỹ, cần phải có yếu tố ‘ý định’ cản trở công lý, là điều mà ông Mueller không thể phán quyết một cách khách quan được vì hoàn toàn là chuyện nhận định chủ quan. Luật sư Wisenberg, trước đây đã phụ tá cho công tố Ken Starr trong vụ đàn hặc TT Clinton, đã cho biết ông đã đọc rất kỹ đoạn báo cáo liên quan đến ‘cản trở công lý’ và ông thấy chẳng có một yếu tố nào có thể dùng làm căn bản pháp lý để đàn hặc TT Trump hết.
-     TTDC đồng thanh ca bài “công tố Mueller có đầy đủ bằng chứng để truy tố TT Trump về cản trở công lý nhưng ông đã không làm” rồi nói bóng gió là vì Trump là tổng thống nên ông Mueller nhát gan không dám đụng. Bỏ qua cái thô bỉ của phe DC và TTDC là trước đây ca tụng ông Mueller lên chín từng mây, còn đòi ra luật bảo vệ ông ta, bây giờ thấy báo cáo bất lợi cho mình, trở mặt đá ông Mueller ngay.
Nói chung, báo cáo của công tố Mueller đã bạch hóa toàn bộ câu chuyện thông đồng với Nga cũng như xác nhận việc cách chức giám đốc FBI đã hoàn toàn hợp lệ và hợp pháp. Tóm lại TT Trump chẳng có tội gì hết, bất kể những cố gắng tối đa của đám luật sư của ông Mueller để moi ra tội hay chế tạo ra tội (muốn biết những chi tiết này, tìm đọc 
Cho đến khi bản tin này được viết, một ngày sau họp báo của ông Barr, các chính khách DC chưa ai lên tiếng vì đang chờ các phụ tá đọc báo cáo. Ta có thể tin chắc đảng DC và TTDC trong những ngày tới sẽ truy đọc từng con dấu phẩy trong báo cáo để kiếm rác, có thể dùng để đánh TT Trump.
Chưa gì thì ta đã có thể hé nhìn thấy chiều hướng tấn công mới. Cả hai báo WaPo  và NYT đều phán báo cáo của công tố Mueller đưa ra một hình ảnh thật tệ hại về chính quyền Trump và những rối rắm nội bộ của ông. Có gì lạ? Ngay từ khi ông Trump chưa tuyên thệ nhậm chức, TTDC đã mô tả chính quyền Trump như tệ hại nhất 50.000năm lịch sử của nhân loại rồi, cần gì phải đợi tới báo cáo của ông Mueller?
Muốn biết sự thật, hỏi ông Noam Chomsky. Ông này là triết gia thiên tả cực đoan nhất và chống Trump tàn bạo hơn ai hết. Ông tuyên bố vụ DC quá chú tâm tố Trump thông đồng với Nga và báo cáo của ông Mueller đã là món quà lớn nhất phe cấp tiến có thể tặng cho TT Trump, bảo đảm ông sẽ tái đắc cử năm tới thôi.
Một điều ít ai để ý: báo cáo của công tố Mueller là một ‘phán quyết’ tệ hại nhất cho chính quyền Obama. Ông Mueller viết ra đủ chi tiết về Nga can dự vào chính trị Mỹ, ít nhất từ năm 2014. Chính quyền Obama biết rõ vì đã được báo cáo đầy đủ từ FBI và bộ An Ninh Lãnh Thổ. Ông Mueller cho biết bộ An Ninh muốn phản công chống Nga, nhưng bà Susan Rice, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia ra lệnh cấm không được làm gì hết. Lý do là khi đó TT Obama đang vuốt ve Putin để xin Putin giúp cản Iran. Tin này do nhà báo bảo thủ Scott Jennings viết trên… CNN (chẳng mấy khi CNN có bài viết không thân thiện với Obama!).

CÂU CHUYỆN GIẤY KHAI THUẾ
Các ứng viên tổng thống DC đã liên tục công bố giấy khai thuế của họ từ trên dưới một chục năm qua, để chuẩn bị mang đề tài thuế ra tấn công TT Trump. Có nhiều chuyện đáng ghi nhận.
Thứ nhất, phe DC dựa trên một luật ít người biết, ban hành năm 1920 (cách đây 99 năm!) nhưng chưa bao giờ áp dụng, theo đó quốc hội có quyền đòi sở thuế IRS nộp giấy thuế của bất cứ một công dân nào, kể cả tổng thống, nếu có nhu cầu lập pháp, tức là nếu cần thiết để ra một luật nào đó. Trong trường hợp này, có triển vọng IRS và TT Trump sẽ bác bỏ yêu cầu của quốc hội vì chẳng có nhu cầu ra luật gì, mà chỉ là đi bới rác để tìm cớ đánh tổng thống, không phải là lý do chính đáng để IRS phải tuân hành.
Thứ nhì, công bố giấy khai thuế là tự nguyện, chẳng có luật nào bắt buộc. Việc phe DC đòi TT Trump công khai hóa giấy khai thuế chỉ là một chiêu võ mới để đánh TT Trump không hơn không kém, sau khi chiêu ‘thông đồng’ với Nga đã thất bại ê chề. Mai mốt nếu TT Trump công khai giấy khai thuế mà phe DC chẳng moi được cọng rác nào giống như trường hợp điều tra của ông Mueller thì sao? Lại kiếm rác chỗ khác?
Thứ ba, tất cả các ứng cử viên công bố giấy khai thuế đều là ‘công chức’, chẳng có giao dịch doanh thương nào, chẳng có tiết mục rắc rối nào, việc công bố giấy khai thuế chẳng có gì đáng thắc mắc. Dĩ nhiên là trong tư cách chính trị gia, họ đã không nhiều thì ít, có thể đã nhận được tiền hối lộ, đút lót, thông thường là gián tiếp, một cách rất kín đáo, nhưng dĩ nhiên không kém, chẳng dại gì khai ra. Muốn bằng chứng? Cho đến nay, tất cả các ứng cử viên công bố giấy thuế đều là… triệu phú hết, cho dù lương dân biểu, nghị sĩ chỉ là hơn một trăm ngàn, để dành, nhịn ăn nhịn uống cả một chục năm mới có được … một triệu.
Một số các vị này, cũng giống như trường hợp các TT Clinton, Obama và bà Hillary, giải thích họ kiếm bạc triệu nhờ viết sách. Nhưng lợi tức này là loại không ai kiểm soát được. Một ‘nhà xuất bản’ có thể ‘ứng trước’ cả vài triệu cho dù sách chưa viết, ai biết được đó có phải là tiền hối mại của một hay nhiều đại gia hay không? Rồi sách ra, ai biết được bán bao nhiêu, cho ai? Nếu có một đại công ty nào đó, bỏ tiền ra mua 100.000 cuốn chẳng hạn, thì đó có phải là tiền hối lộ gián tiếp và tuyệt đối ‘hợp pháp’ không? Cũng kiểu như trả mấy trăm ngàn cho một bài diễn văn 45 phút thôi.
TT Trump trong khi đó rất khó công bố trọn vẹn giấy khai thuế của ông và nhất là của các đại tập đoàn kinh doanh của ông. Tất cả những người đã làm kinh doanh đều biết cạnh tranh trong thương trường là chuyện sinh tử. Ngay cả ông chủ tiệm tạp phô nhỏ cũng muốn biết cái tiệm chạp phô bên kia đường mua hàng ở đâu với giá nào, bán cho ai với giá nào, và tất cả những tin này đều là bí mật kinh doanh. Ông doanh gia Trump với những giao dịch quốc tế lớn gấp cả triệu lần ông chủ tạp phô qua khoảng 500 công ty con lớn nhỏ, sẽ khó có thể công khai hóa tất cả những giao dịch của đại tập đoàn Trump Organization, sẽ là mỏ vàng vô giá cho các tổ chức kinh doanh cạnh tranh với ông, và cạnh tranh với các đối tác kinh doanh của ông luôn.  
Thứ tư, những giấy thuế các ứng cử viên tổng thống công khai hóa đều cho thấy họ đều là triệu phú hết như đã nói qua ở phần trên. Tất cả đều là triệu phú suốt ngày đấm ngực có lòng thương dân sâu hơn Thái Bình Dương, nhưng theo một nghiên cứu của báo Washington Post, số tiền các vị này cho vì mục đích từ thiện nhỏ hơn các hột cát Thái Bình Dương chứ không sâu tới đáy biển đâu.
Những người vô địch keo kiệt là
1)    Ông Beto: có lợi tức 370.000, cho từ thiện 1.100 (0,3%)
2)    Bà Kamala: có 1,9 triệu, cho 27.000 (1,4%)
3)    Bà Klobuchar: có 338.000, cho 6.600 (1,9%)
4)    Bà Gillibrand: có 215.000, cho 3.750 (1,7%)
Mấy vị còn lại cho khoảng từ 2% tới 5% lợi tức. Nhưng vô địch là cụ thượng nghị sĩ Joe Biden, cho tổng cộng 3.700 đô trong 10 năm tại Thượng Viện, hay là 370 đô một năm, hay là 0,02%.
Bên CH là đảng của ‘những tay da trắng bóc lột dân đến tận xương tủy’, cựu ứng cử viên tổng thống, Mitt Romney cho 4 triệu trong lợi tức 14 triệu, hay 29%.
Và ‘tay Trump vô đạo, tàn ác nhất’, trong hơn hai năm nay đã hiến tặng lại tất cả số lương hàng năm 400.000 hay 100%!
Báo phe ta Washington Post tìm cách bào chữa cho đám ứng cử viên DC, cho rằng 400.000 đô TT Trump cho từ thiện chỉ là lương chứ không phải tổng số lợi tức không ai biết bao nhiêu của ông. Ô-kê, vậy thì các ứng viên DC cứ tặng hết lương của mình đi, như bà Kamala cứ tặng cho từ thiện 170.000 tiền lương của bà đi, vẫn còn hơn 1,7 triệu xài chơi mà.

CẬP NHẬT TRANH CỬ TỔNG THỐNG
Cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc tiếp tục sống động cho dù còn cả một năm rưỡi nữa mới tới bầu cử.
Về phiá DC, một ứng viên mới đang được TTDC thổi lên mây: ông Pete Buttigieg, thị trưởng thành phố nhí South Bend, tiểu bang Indiana, một cựu sĩ quan tình báo hải quân, ứng cử viên trẻ nhất, mới có 37 tuổi. Ngôi sao mới của DC được hậu thuẫn của... 4,5% cử tri DC. Tức là trong 200 cử tri DC, có tới 9 người ủng hộ. Ngôi sao sáng giá của DC mà chỉ có vậy thôi sao? Khiếp quá! Ông Buttigieg là dân đồng tính công khai, có ‘chồng’ tên là Chasten Glezman, ‘cưới nhau’ năm 2018.

Ông Buttigieg (bên trái) và... ‘chồng’

Về phiá CH, tin bất ngờ là đã có một ông nhẩy ra tranh cử chống đương kim TT Trump, một chuyện khá hiếm. Ông này là Bill Weld, cựu thống đốc tiểu bang cấp tiến nhất Mỹ, Massachusetts. Ông này tuy mang danh là CH, nhưng thuộc loại tắc kè thay màu đổi sắc như thay áo dạo phố. Năm 2008, ông ủng hộ Obama chống ông đồng chí đồng đảng McCain của CH. Năm 2016, ông ra tranh cử phó tổng thống trong liên danh đảng Libertarian cùng ông Gary Johnson, được tổng cộng 4,5 triệu phiếu trên 150 triệu phiếu cử tri đi bầu và đúng 0 phiếu cử tri đoàn. 
Ông Weld ủng hộ phá thai, hôn nhân đồng tính, hô hào mở cửa biên giới đón di dân,… Tất cả theo đúng sách vở cấp tiến DC. Ai muốn bắt cá ông Weld sẽ hạ được TT Trump, xin tùy tiện.
Cựu PTT Biden dường như đã ‘bị thương’ vì những tố giác ‘hít tóc’. Thăm dò mới nhất của cơ quan Emerson cho thấy tỷ lệ hậu thuẫn của ông đang từ 27% đã rớt xuống 24%, mất 3 điểm. Trong khi hậu thuẫn của cụ xã nghĩa Sanders đã tăng vọt từ 17% lên tới 29%. Cụ Sanders là người già nhất trong đám ứng cử viên DC, nhưng oái ăm thay, khối cử tri của ông lại là khối trẻ nhất, hầu hết là cỡ dưới 30 tuổi. Như DĐTC đã bàn, tất cả chỉ là đám sinh viên thanh niên u mê không biết gì về lịch sử, theo mô thức Ocasio-Cortez, vẫn còn mơ màng về thế giới đại đồng vô sản, công bằng trước chén bo bo.
Có tin ông Biden sẽ chính thức tuyên bố ra tranh cử Thứ Tư 24/4 này.
Sau khi tin cụ xã nghiã Sanders vọt lên hàng đầu, thượng nghị sĩ Rick Scott của Florida đã có câu nhận định xác đáng nhất: “nếu quý vị thích Sanders như vậy, sao không dọn qua Venezuela sống cho biết?”
Dưới đây là bảng thăm dò mới nhất về các ứng cử viên tổng thống bên đảng DC theo trang mạng Politico:


QUỐC HỘI NGÁP
Tháng Tư này đánh dấu 100 ngày làm việc đầu tiên của Hạ Viện dưới sự kiểm soát của đảng DC, cĩng như 100 ngày đầu của Thượng Viện dưới sự kiểm soát của CH. Hạ Viện đã thông qua được 188 dự luật, nhưng giữa Hạ Viện và Thượng Viện, chỉ có đúng 12 dự luật được cả hai viện thông qua thành luật. Tất cả đều là luật vớ vẩn, đọc mà mắc cười: một luật tăng lương cho một số bác sĩ của bộ Cựu Chiến Binh, một luật đổi tên một trung tâm thú y, một luật sửa đội quy của một hội nông gia.
Hai đảng dĩ nhiên xỉa tay đổ thừa cho nhau. Bà chủ tịch Hạ Viện tố Thượng Viện bất hợp tác, bác bỏ cả trăm dự luật Hạ Viện đã biểu quyết, trong khi ông McDonnell, lãnh tụ khối đa số CH tại Thượng Viện tố ngược Hạ Viện đưa qua toàn những dự luật vô lý không thể nào chấp nhận được.
Chuyện này chẳng có gì lạ. Diễn Đàn này đã tiên liệu trước từ lâu rồi. Quốc hội và cả Hành Pháp sẽ hoàn toàn bị tê liệt, chẳng làm gì ra trò cho tới cuộc bầu cử năm tới.

TIN DI DÂN
Bộ trưởng Tư Pháp William Barr đã ra lệnh những di dân đang chờ quyết định của tòa về việc xin định cư tại Mỹ sẽ phải bị tạm giữ chứ không được tại ngoại, bất kể họ đã khai báo hợp pháp nơi các địa điểm kiểm soát biên giới hay bị bắt. Quyết định này chỉ thi hành trên các di dân đã được xác nhận có ít hy vọng được chấp nhận và đang chờ trục xuất, không áp dụng với các di dân có mang theo gia đình và trẻ con vị thành niên.
Tòa phá án Khu Vực (District 9 Appeal Court) đã bác bỏ phán quyết của ông tòa Richard Seeborg bắt cảnh sát biên giới phải mở cửa nhận hết di dân vào xin định cư tại Mỹ. Tòa phá án chấp nhận thỏa thuận giữa chính phủ Mỹ và Mễ, giữ những người này trên đất Mễ trong khi chờ đợi phán quyết của tòa di trú. Nhìn vào những quyết định kiểu ông Seeborg này, ai cũng thấy các quan tòa cấp tiến càng ngày càng coi thường luật, lấy phán quyết  hoàn toàn qua tính cách phe đảng đến lố bịch.
Tin bất ngờ mới, cụ xã nghiã Sanders kêu gọi chính quyền Mỹ chấm dứt sách lược ‘bắt rồi thả’ –catch and release- của chính quyền Obama nhưng đang được chính quyền Trump áp dụng, là chính sách bắt được di dân lậu, nhưng sau một thời gian ngắn, thả ra cho họ biến vào xã hội Mỹ vì lý do không đủ phương tiện giam giữ họ lâu trong khi không trục xuất họ ngay lập tức được. Cụ Sanders kêu gọi chính phủ Mỹ phải xây thêm trại tạm giam để giữ những người này chứ không thể thả họ ra để họ biến mất.
Trong câu chuyện di dân, đề nghị của TT Trump, mang di dân đến các tỉnh có luật an toàn, sanctuary law, không biết có hợp pháp hay có thực thi được không, nhưng chắc chắn đã là một đòn chí tử vạch trần bộ mặt giả dối của đám chính khách DC suốt ngày hoan nghênh di dân. Đúng là… ông Thần Trump!


BẮC HÀN THỬ NGHIỆM VŨ KHÍ NGUYÊN TỬ LẠI ?
Bắc Hàn rình ràng tuyên bố mới thử nghiệm một vũ khí mới. Hiển nhiên việc này nằm trong kế hoạch ‘hét giá’ trong cuộc điều đình với Mỹ.

Vài anh nhà báo hấp tấp trong việc bôi bác TT Trump đã hô hoán ngay “BH thử bom nguyên tử lại”. Thật ra, BH chỉ cho biết thử một loại “vũ khí mới” mà không cho biết chi tiết gì khác, nên chẳng ai biết là vũ khí gì. Chắc chắn không phải là bom nguyên tử hay hỏa tiễn liên lục địa vì cả hai thứ này, nếu thử nghiệm sẽ bị Mỹ biết ngay. Có khi tất cả chỉ là… fake news của BH!

Sách báo Mỹ bàn về chiến tranh VN nhiều vô số kể, không có cách gì liệt kê hết, DĐTC xin giới thiệu hai tài liệu về quan hệ Mỹ-Việt trước cuộc chiến thôi. Sau đó thì xin giới thiệu bài tổng hợp của Wikipedia vì bài này có ghi rõ nhiều ngày tháng quan trọng nhất.

TT Roosevelt - TT Truman Và Đông Dương – Study.com:

Chính Sách Đông Dương Của TT Truman – Foreign Policy Journal:

     Vai Trò Của Mỹ Trong Chiến Tranh VN – Wikipedia: