ĐẢNG “VĨ ĐẠI”: ĐẠI… VĨ.
Ban án lệnh quyền hành, lời ranh mãnh
Chúng chanh chua, chát chúa giọng phát kinh
Ý gian manh, lanh lảnh những lộng hành
Trước giặc Hán? Xếp hàng, im thin thít!
Ý Nga, 12-9-2013.
Ai cũng vỗ tay. Ai cũng điếc, câm!
LÝ GÌ ĐỪNG LÝ QUẠ KÊU*
Bao nhiêu điệu nhạc kia mà
Sao em chỉ thích Dân Ca, Bài Chòi?
Nghe Quan Họ, thích tìm tòi
Đàn: Tam, Sến, Tứ, Bầu, Môi, Sáo, Cò*.
Dân mình đói quá, khó no
Nên chi điệu hát giọng hò toàn… lo.
Xót xa cung bậc dày vò
Dân ta cứ khóc lo cho Cơ Đồ.
Đàn: Tiêu*, Nhị, Nguyệt, Tranh, Hồ.
Thanh La, Chèo Cổ trầm trồ K’ny*, Vang*
Kèn Bầu, Kèn Lá Hò Khoan
Ca Trù, Ca Huế. Trống dàn: Đế*, Cơm
Ca nào biết giữ tiếng thơm?
Trống nào nhắc nhở sai lầm: NGOẠI XÂM?
Đàn nào khảy đảng điếc, câm?
Kèn nào LỬA nổi, truyền âm BÃO ngầm?
Tỳ Bà, Nguyệt, Đáy*: hợp âm?
Tù Và, Mõ, Phách* bổng, trầm tim gan?
Cải lương, Hát Xẩm: vui buồn?
Đục, trong, gọn, nhẹ, thô, dòn Trống Prong*?
Mõ nào con cháu Lạc Hồng
Báo nhau CHUYỀN LỬA ngoài trong quyết lòng?
Âm nào vang dội Non Sông
Nhắc nhau giặc Hán biển Đông ngông cuồng?
Trống Đồng, Sáo, Trúc, Vang, Goong*:
Ước chi được học đục, trong thế nào?
Lý Con Sáo, Hát Ả Đào?
Chàng ơi, chàng hỡi ghi vào: Việt Nam!
*
Quạ đen, “quạ đỏ”? Van thầm:
“Quạ” kêu thì tránh giùm em nhé Chàng!
Ý Nga, 12-9-2013.
*Người VN vẫn tin rằng quạ kêu không hên, nên tác giả xin chừa LÝ QUẠ KÊU, để VN sớm thoát khỏi sự cai trị bạo tàn của loài QUẠ ĐỎ CS.
Theo Wikipedia:
Tiu cảnh gồm hai chiếc thanh la cỡ nhỏ làm bằng đồng thau, đường kính khoảng 10 cm, một chiếc thành thấp, một chiếc thành cao, với hai âm thanh cao thấp cách nhau quãng 5 đúng.[1] Tiu cảnh được treo trong hai vòng tròn của một chiếc khung có tay cầm bằng gỗ hoặc để riêng làm hai phần tiu (thanh la thành thấp) và cảnh (thanh la thành cao). Tiu cảnh được đánh bằng que tre có mấu. Khi biểu diễn nhạc công tay trái cầm tiu, tay phải cầm que gõ vào mặt thau hoặc để riêng tiu và cảnh rồi dùng hai que khác nhau gõ.[2]
Cảnh
-Thanh la là một nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, chi gõ của dân tộc Kinh. Ở miền Nam được gọi là Đẩu, miền Trung gọi là Tang[1]. Được làm bằng đồng hợp kim với thiếc có pha chì, hình tròn. Thanh la có nhiều cỡ to, nhỏ khác nhau, đường kính 15 - 25 cm, mặt hơi phồng, xung quanh có thành cao 4 cm, ở cạnh thanh la người ta dùi hai lỗ thủng để xỏ một sợi dây quai. Mặt là trung tâm phát âm, thành là trung tâm nhân to tiếng[2].Thanh la của Nhà hát Chèo Việt Nam có đường kính 15cm, dùi dài 20cm. Khi diễn tấu nghệ sĩ cầm dây quai dơ lên, còn một tay cầm dùi gõ vào mặt thau tạo ra tiếng. Âm thanh cao, vang, vui, trong trẻo, đánh mạnh nghe chói tai.Thanh la có hai thứ tiếng:
Tiếng Vang : nghệ sĩ chỉ cầm sợi dây quai giữ Thanh la và để Thanh la được tự do rung động.
Tiếng Nặng: nghệ sĩ cầm sợi dây quai của Thanh la và dùng các ngón tay nắm giữ lấy cạnh Thanh la khiến sức rung động của Thanh la giảm bớt.
Tiếng Thanh la bao giờ cũng đi sát với tiếng trống đế: tiếng "vang" của Thanh la hòa nhịp với tiếng da của trống đế và tiếng "nặng" của Thanh la đi cùng với tiếng đanh của tang trống đế trong Dàn nhạc Chèo cổ.
Người đi đầu dàn nhạc đang chơi một loại thanh la.
-Trống đế hay trống chầu là nhạc cụ gõ, họ màng rung xuất hiện ở Việt Nam từ khá lâu đời. Trong nghệ thuật chèo người ta gọi nó là trống đế, còn trong ca trù nó là trống chầu[1]. Đúng như tên gọi, Trống đế làm nhiệm vụ đế có nghĩa là lót, là chỗ dựa, làm điểm xuyết cho diễn viên khi biểu diễn và ca hát.
Trống đế có hai mặt trống hình tròn, đường kính bằng nhau khoảng 15 cm. Mặt trống thường là da nách trâu nạo mỏng (rất dai và bền) đủ sức chịu đựng độ cǎng mặt trống. Đường viền da bịt mặt trống trùm xuống thân trống khoảng 3 cm, được đóng bằng đinh tre. Da trống căng nhưng phải định âm tương ứng giọng hát của diễn viên. Tang trống cao khoảng 18 cm, bằng gỗ mít nguyên khúc gọi là tang liền, song có khi bằng những mảnh gỗ mít chấp lại, sơn phết bên ngoài. Hai dùi trống dài khoảng 25 cm, bằng gỗ cứng. Phía đầu tay cầm to hơn phía đầu gõ vào mặt trống[2]. Âm thanh Trống Đế nghe vui, cao, lảnh lót, hơi đanh nhưng gọn tiếng. Người ta đánh vào nhiều vị trí khác nhau trên trống đã tạo ra được nhiều âm thanh khác nhau:
Đánh vào giữa mặt trống, tiếng trống nghe vang, giòn.
Đánh vào mặt trống nhưng giữ nguyên dùi, âm thanh sẽ khô, xỉn.
Nhờ kết hợp tài tình các lối đánh ở mặt và tang trống, gây ra sự đối lập nhưng lại hài hòa về màu sắc, âm thanh. Trống Đế có ở Việt Nam từ lâu đời. Trống được coi là nhạc khí gõ cao âm quan trọng, không thể thiếu trong ca trù và sân khấu chèo truyền thống. Ngoài ra trống cũng được dùng trong một vài thể loại ca nhạc dân tộc khác như chầu vǎn nhưng không phổ biến bằng.
Biểu diễn đàn đáy.
-Đàn đáy có tên gốc là “đàn không đáy” tức "vô đề cầm", vì nó không có đáy (hậu đàn). Do đó người ta gọi tắt là đàn đáy lâu ngày thành tên chính thức như hiện nay. Một giả thuyết khác cho rằng nhạc cụ này có dây đeo bằng vải, dây này trong chữ Hán là “đái” (đai) nên mới gọi là “đàn đái”, đọc chệch lâu ngày thành “đàn đáy”. Đàn đáy có 4 bộ phận chính :
Bầu đàn, còn gọi là thùng đàn : bằng gỗ, hình thang cân. Đáy lớn nằm phía trên, rộng khoảng 23–30 cm, đáy nhỏ nằm phía dưới rộng khoảng 18–20 cm. Cạnh 2 bên khoảng 31–40 cm. Thành đàn vang bằng gỗ cứng, dày khoảng 8–10 cm. Mặt đàn bằng gỗ ngô đồng, có một bộ phận để móc dây đàn (cái thú). Có khi mặt đàn khoét một lỗ hình chữ nhật. Đáy đàn thủng hình chữ nhật.
Cần đàn : dài 1,10-1,30 m gắn phía trên từ 10 đến 12 phím đàn bằng tre nhưng đàn đáy cổ có 16 phím[2]. Các phím này dày và cao, phần đỉnh dài hơn phần chân phím. Tính từ đầu đàn trở xuống, phím đầu tiên không gắn sát vào sơn khâu như nhiều nhạc cụ khác mà lại nằm ở quãng giữa cần đàn.
Đầu đàn : hình lá đề, hốc luồn dây có 3 trục chỉnh dây.
Dây đàn : 3 dây bằng tơ se, dài, mềm và dễ nhấn mang tên dây Hàng, dây Trung và dây Liễu. Ngày nay, những dây này có thể bằng nilon với kích thước to nhỏ khác nhau, mỗi dây cách nhau 1 quãng bốnđúng. Dây đàn được chia làm năm cung: cung Nam, cung Bắc, cung Nao, cung Huỳnh và cung Pha.
Đàn đáy có âm vực rộng hơn 2 quãng tám, âm sắc giống đàn nguyệt, ấm áp dịu ngọt và có thể diễn tả tình cảm sâu sắc. Ngày xưa nghệ sĩ cần miếng khảy bằng que tre để đánh, ngày nay họ thường dùng miếng khảy nhựa hơn.
Kỹ thuật tay phải gồm có ngón khảy, hất, lia (vê) giống như cách diễn đàn nguyệt và đàn tỳ bà. Kỹ thuật tay trái gồm có ngón chùn, nhấn, láy, đánh chồng âm và hợp âm...
Ở loại đàn đáy cổ truyền người ta không đánh dây buông mà bấm vào phím thứ nhất để gảy, cách này coi như đánh dây buông.Người biểu diễn thường dùng đàn đáy đệm cho giọng nữ cao hoặc phối hợp với những nhạc cụ gõ có âm thanh khô (ít vang). Đàn đáy là nhạc cụ độc đáo chỉ duy nhất dùng để biểu diễn ca trù cùng với phách và trống chầu. Ngày nay nó còn được dùng trong một số dàn nhạc dân tộc để hòa tấu.
Đàn Môi
- Phách là nhạc khí tự thân vang , xuất hiện trong nhiều thể loại ca, múa nhạc ở Việt Nam từ rất lâu đời. Nhiệm vụ của phách là giữ nhịp cho dàn nhạc, người hát hoặc múa. Nhịp của phách đơn giản trong cải lương, nhưng phức tạp và biến tấu trong những dàn nhạc sân khấu. Loại phách đề cập trong bài này là loại dùng trong hát ả đào. Phách có nhiều loại và tên gọi khác nhau. Trong hát xẩm phách gọi là cặp kè; trong cải lương và dàn nhạc tài tử phách là song loan; trong ca Huế phách là sênh (sênh tiền), còn trong dàn nhạc tuồng, đám ma, múa tôn giáo và múa dân gian người ta mới là phách. Bộ phách ả đào gồm có bàn phách, tay ba và hai lá phách. Bàn phách là miếng tre dài khoảng 30 cm, bản rộng chừng khoảng 4 cm. Nó có 2 đầu mấu tre dùng làm chân cho mặt bàn phách cao lên. Hai lá phách là dùi gõ kép. Người ta cầm 2 lá phách chập vào nhau để gõ vào mặt bàn phách. Tay ba là dùi gõ làm bằng gỗ mít, dài như 2 lá phách, được người sử dụng cầm bằng tay trái.[1]
Khi phách 2 lá gõ vào bàn phách âm sắc phát ra nhòa, bẹt và hơi đục. Lúc dùng tay ba gõ vào bàn phách âm sắc sẽ trong, gọn và dòn. Hình thức dùi tròn được xem như là dương vật (linga theo truyền thống Ấn Độ), dùi chẻ hai được xem như là âm vật (yoni). Nhờ vậy, khi nghe 2 tiếng phách thính giả nhận thấy rằng có một tiếng trong và một tiếng đục, một tiếng mạnh và một tiếng nhẹ, một tiếng cao và một tiếng thấp, một tiếng dương và một tiếng âm. Tiếng phách Ca trù Việt Nam rất độc đáo và trong âm nhạc thế giới không có nước nào khác có cách gõ như thế.[2] Phách cấu tạo đơn giản nhưng kỹ thuật sử dụng rất phong phú, gồm những cách chính như sau:
-Ngón rục: tay ba gõ nhẹ, nảy nhanh trên bàn phách 2 tiếng, tiếp ngay sau đó là phách 2 lá gõ xuống bàn phách một tiếng. Ba âm thanh gần nhau gọi là tiếng rục.
-Ngón chát: tay ba và phách 2 lá cùng gõ xuống bàn phách (phách 2 lá gõ hơi nhanh hơn một chút). Gõ xong không nhấc lên ngay nên âm thanh chát, hơi thô.
-Ngón vê : tay ba và phách gõ 2 lá gõ thay phiên gõ nhanh trên bàn phím hoặc tay ba giơ cao đối diện bàn phím. Phách 2 lá luồng vào giữa gõ xuống bàn phách rồi nảy ngược nhanh gõ vào tay ba (ít sử dụng).
-Vang là bộ chiêng ba chiếc dành riêng cho Vua Lửa (Pơtau Pui) trong cộng đồng dân tộc Gia Rai và vài dân tộc khác ở Việt Nam. Ba chiếc chiêng này đều có núm, màu da cá trê, nhẹ, kích cỡ khác nhau. Chiếc ania có kích cỡ 58 cm, chiếc moong đường kính 36 cm. Người ta xếp chúng theo đường âm cách nhau 1 quãng năm đúng và 1 quãng bốn đúng như bộ chiêng t'rum. Bộ chiêng này có âm thanh trầm và vang, chỉ dùng để tạo tiết tấu, gây không khí cho lễ hội chứ không chơi giai điệu.
Người ta treo những chiêng này trên xà nhà, cách xà nhà khoảng 10 cm rồi ngồi xuống sàn mà đánh. Tay trái giữ thành chiêng, tay phải cầm dùi có đầu bọc vải đánh vào núm chiêng. Ngoài việc chơi giai điệu, tay phải còn có nhiệm vụ điều khiển tiếng chiêng ngân lên hay ngừng lại.
Nhìn chung người ta thường đánh chuông vang với trông lớn Hơgơr Prong, nhưng người đánh trống dùng đùi gỗ mềm để tạo ra âm thanh hòa điệu với loại chiêng này không giống cách đánh mà họ sử dụng trống khi diễn tấu với những nhạc cụ khác hay loại chiêng khác.
Bản nhạc mà người ta hay chơi với chiêng vang là bài "Cúng thần gươm".
Đàn Nguyệt.
-Hơgơr Prong là loại trống rất lớn, không định âm của các dân tộc ở Tây Nguyên. Người Ba Na gọi nó là hơgơr tăk hoặc p'nưng, người Gia Rai gọi là hơgơr prong hoặc hơge m'nâng, còn người Êđê gọi đơn giản là hơgơr. Tuy nhiên, loại trống này còn có một cái tên tượng thanh phổ biến là "đùng" (nhiều dân tộc gọi).
Hơgơr gồm các bộ phận chính như sau:
Thân trống: bằng gỗ lim, dâu; dài khoảng 1,5m; đường kính khoảng 1m và có 2 đầu rỗng. Thân trống hình trụ, đoạn giữa hơi phình ra, được làm từ 1 cây gỗ duy nhất.
Mặt trống: bịt da voi hoặc trâu hay loại da khác (nhưng phải là da của 1 con đực và 1 con cái để bịt hai mặt). Lớp da căng trên 2 đầu trống bằng đinh tre, gỗ đóng theo phương pháp nêm dăm rồi phủ trùm toàn bộ thân trống, đính chặt vào thân trống bằng những đinh tre nhỏ.
Dùi gỗ: dài khoảng 60 cm, đường kính 5 cm, đầu dùi bọc vải.
Trống hơgơr prong có âm thanh trầm, vang xa. Nó phụ trách những âm trầm, đánh điểm các phách mạch hoặc gây không khí, tạo cao trào trong dàn nhạc. Theo truyền thống, người ta treo hơgơr prong trên xà nhà, đặc biệt nếu là loại thiêng thì không bao giờ mang xuống đất sau khi đã treo lên. Chỉ có những người uy tín nhất trong bản làng mới có quyền sử dụng loại trống này. Nếu 1 người đánh thì chỉ đánh vào 1 mặt, còn nếu 2 người thì mỗi người đánh 1 mặt bằng dùi.
Người dân tộc thường sử dụng hơgơr prong trong lễ đâm trâu, lễ cúng thần gươm, lễ cúng cầu mưa và lễ Tết.
Đàn Tỳ Bà (ngoài cùng bên phải).
-Các nhạc cụ Việt Nam:
| |
• Đàn đáy • Đàn hồ • Đàn môi • Đàn nhị • Đàn tam • Đàn tranh • Đàn tứ • Đàn nguyệt • Đàn sến • Đing năm • Đinh đuk • Đing ktút • Đuk đik • Goong •
Goong đe •Guitar phím lõm • Hơgơr prong • Kèn bầu • Kèn lá • Kềnh H'Mông • Khèn bè • Khinh khung • K'lông pút • Knăh ring • K’ny • M'linh • M’nhum
• Mõ • Phách • Pi cổng • Pí đôi / Pí pặp • Pí lè • Pí một lao • Pí phướng • Pơ nưng yun • Púa • Rang leh • Rang rai • Sáo H'Mông • Sáo trúc • Sênh tiền • Song loan
•Ta in • Ta lư • Ta pòl • Tiêu • Tính tẩu • Thanh la • Tol alao • Tông đing • Tơ đjếp • Tơ nốt • Tam thập lục • Trống cái • Trống cơm • Trống đế • Trống đồng
|
Tượng Trần Hưng Đạo của điêu khắc gia Phạm Thông, dựng vào giữa thập niên 1960, tại bến Bạch Đằng.
Kính mời Quý Vị bấm vào link tô vàng để nghe bản nhạc đấu tranh:
ĐỌC THƠ TIỀN NHÂN.
Thơ: Ý Nga 16-10-2011.
Nhạc: Nhóm Dân Chủ Ca
(Sent: Thu, Apr 4, 2013 8:31 pm)
Nâng thơ nếm như người nghiên cứu rượu
Vận ngào hương. Ôi! Quý mến từng lời
Thơ hùng khơi, trang sóng sánh ánh ngời
Men chan chát bao mảnh đời buồn tủi.
T
Ôm thơ uống, như Lưu Linh đắm đuối
Thơ cay nồng, ngon ngọt vị Yêu Quê
Tổ Quốc ơi! Bao người dọn đường về
Sao có kẻ nỡ đem lòng phản quốc?
T
Nâng niu mãi bao hương linh oan uất
Đóa trầm hương như roi quất vào tim,
Như kim đâm, nhắc nhở một Lối Tìm
Ngày trở lại không mềm lòng nhi nữ.
T
Nâng thơ uống, thơm lừng trang Hùng Sử
Hịch tiền nhân: mỗi chữ mỗi Lệnh Thư!
Em ngân nga, say từng ý, từng từ
Thơ: hương rượu, người: hương chi cho xứng?
Ý Nga
Calgary-Canada, 16-10-2011.
Cọc gỗ Bạch Đằng đánh tan giặc Hán