Monday 7 October 2013

GIỚI THIỆU TÀI LIỆU VỀ ĐẤU TRANH BẤT BẠO ĐỘNG - Nguyễn văn Thái, Ph.D.

Mục đích của bài viết này là để giới thiệu tài liệu về phương sách Đấu Tranh Bất Bạo Động (ĐTBBĐ), một kĩ thuật đấu tranh có xác suất thành công cao trong việc chống độc tài hay bất cứ hình thức áp bức nào khác, do đó có thể là một phương tiện hữu hiệu cho những nhà đấu tranh trong cũng như ngoài nước nhằm mục đích xoá bỏ chế độ CSVN độc tài “ác với dân, hèn với giặc”.

Tài liệu về ĐTBBĐ được giới thiệu ở đây là kết quả của một công trình nghiên cứu khoa học và của những kinh nghiệm thực tế về huấn luyện kĩ thuật đấu tranh này tại nhiều quốc gia chống độc tài, áp bức của Giáo Sư Tiến Sĩ (GSTS) Gene Sharp.

1. Sơ lược về nguồn gốc của những tài liệu về ĐTBBĐ

Tài liệu về ĐTBBĐ không có nhiều. GSTS Gene Sharp, một học giả nổi tiếng thế giới, là người duy nhất đã sản xuất một số tài liệu khổng lồ dựa trên hơn 30 năm nghiên cứu lịch sử ĐTBBĐ trên thế giới và kinh nghiệm huấn luyện về kĩ thuật ĐTBBĐ của ông tại những quốc gia tranh đấu chống độc tài, áp bức và giành độc lập cho quốc gia của họ. Ông đã từng giúp huấn luyện những nhà đấu tranh tại các quốc gia thuộc vùng Balkan và Baltic như là Lithuania, Latvia, Estonia, và Serbia. Serbia đã lật đổ chế độ độc tài Slobodan Milošević. Lithuania, Latvia, Estonia đã giành lại độc lập từ nước Nga. Ông cũng đã giúp Thái Lan và Miến Điện trong những cuộc đấu tranh chống độc tài của họ.

Sau bao nhiêu công trình nghiên cứu tài liệu và kinh nghiệm huấn luyện về ĐTBBĐ, GSTS Gene Sharp đã chắt lọc nhiều sách mà ông đã trước tác, rồi viết lại thành một tập nhỏ chỉ khoảng 60 trang vạch ra những đường nét chính hướng dẫn việc soạn thảo một đại chiến lược và những chiến thuật ĐTBBĐ mà mục đích tối hậu là xoá bỏ những chế độ độc tài hay bất cứ hình thức áp bức nào khác. Trong mục đích này, để các nhà đấu tranh có đủ kiến thức và kĩ năng cần thiết trong việc soạn thảo đại chiến lược, các chiến thuật, cũng như những phương thức tổ chức ĐTBBĐ, GSTS Gene Sharp -- dựa trên những thiếu sót cũng như những thành quả của những chương trình huấn luyện mà ông đã thực hiện --  khuyến khích các nhà đấu tranh nên đọc thêm những trích đoạn từ những cuốn sách của ông theo một trình tự nhất định. Tất cả những trích đoạn này gộp lại thành khoảng 900 trang từ 8 cuốn sách của ông.

2. Quá trình chuyển ngữ sang tiếng Việt

Tài liệu về ĐTBBĐ của GSTS Gene Sharp đã được chuyển ngữ sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Độc giả có thể vào mạng điện tử của Albert Einstein Institution: www.aeinstein.org để xem những bản chính bằng tiếng Anh cũng như nhiều bản dịch sang những ngôn ngữ khác bao gồm cả những bản tiếng Việt.

Người viết bài này cũng là người đã chuyển ngữ tài liệu 60 trang, cuốn Self-Liberation (Tự Giải Phóng) và 900 trang tài liệu bổ túc. Lí do chuyển ngữ bắt nguồn từ việc nhận thức được (1) sự tàn ác vô cùng cực đối với người dân và sự quỳ luỵ hèn hạ đối với quan thầy Trung cộng của ĐCSVN, và nhất là (2) sự hi sinh lớn lao của nhiều nhà đấu tranh ở trong nước trong một thời gian dài mà chưa đem lại kết quả mong muốn. Trong niềm khắc khoải và thao thức đó, thiển nghĩ cống hiến một phương sách đấu tranh hữu hiệu có thể xoá bỏ được chế độ CSVN độc tài cũng là một đóng góp có ý nghĩa.

Khi bắt tay vào công việc chuyển ngữ sang tiếng Việt, vì trên mạng điện tử của Albert Einstein Institution cuốn From Dictatorship to Democracy (Từ Độc Tài đến Dân Chủ) đã được Đảng Việt Tân chuyển ngữ sang tiếng Việt (2005), cho nên phản ứng đầu tiên của người viết là không chuyển ngữ tài liệu này nữa vì đã có người làm việc này rồi. Nhưng sau đó, nhằm mục đích để cho văn phong cũng như các từ ngữ sử dụng được thống nhất, người viết đã quyết định chuyển ngữ sang tiếng Việt toàn bộ tài liệu ĐTBBĐ bao gồm cuốn Self-Liberation và tất cả những tài liệu bổ túc từ 8 cuốn sách của GSTS Gene Sharp, trong số những sách này có cuốn From Dictatorship to Democracy1.

Tài liệu về ĐTBBĐ được soạn lại cho mục đích huấn luyện như nói trên của GSTS Gene Sharp chỉ nhắm đến một mục đích duy nhất là xoá bỏ những chế độ độc tài hay bất cứ những hình thức áp bức nào khác bằng cách trình bày những kĩ thuật soạn thảo cũng như những phương cách thực thi các kế hoạch chiến lược, chiến thuật, và tổ chức ĐTBBĐ. Thẩm định giá trị của phương sách ĐTBBĐ, GSTS Gene Sharp gọi ĐTBBĐ là “tiềm năng” của thế kỉ 21 là “vũ khí”3 đấu tranh chống độc tài, áp bức hữu hiệu.

3. Đấu tranh bạo động và đấu tranh bất bạo động

Để lật đổ một nền độc tài thì chỉ có hai phương sách chính. Đó là phương sách đấu tranh bạo động vũ trang hoặc ĐTBBĐ.

3.1. Các phương thức đấu tranh bạo động vũ trang

Đấu tranh bạo động vũ trang thường bao gồm những phương thức như là đảo chánh, chiến tranh du kích, chiến tranh quy ước. Và sau đây là những nhận định dựa trên nghiên cứu của GSTS Gene Sharp về các phương thức này.

Đảo chánh là những hành động bạo động có vũ trang nhằm mục đích giành quyền kiểm soát guồng máy cai trị. Những người làm đảo chánh là những người hoặc đang thuộc chính quyền đương nhiệm hay những người trước đây đã từng nắm giữ những phần vụ trọng yếu trong chính quyền. Đảo chánh thường xảy ra khi chính quyền đã phạm những lỗi lầm trầm trọng làm mất uy tín của chế độ và sự tin tưởng của người dân đối với chế độ, và nền tảng quyền lực của chế độ đã lung lay tận gốc rễ. Mục đích của đảo chánh thường là để phá vỡ sức mạnh đấu tranh của nhân dân để những người làm đảo chánh (1) giữ lại quyền lực cho chế độ hay là (2) cướp công của nhân dân với mục đích giành quyền lực và những lợi ích cho phe nhóm của mình.

Chiến tranh du kích thường gây tàn phá và hao mòn về sinh mạng cũng như tài sản của nhân dân trong một thời gian dài. Và theo quy luật phát triển, chiến tranh du kích rồi cũng sẽ biến thành chiến tranh quy ước có quân đội lớn mạnh và những vũ khí càng ngày càng tân tiến, giết người hằng loạt, gây nên chết chóc, đau thương và tàn phá ở một mức độ khó chấp nhận được, để rồi kết cuộc của cuộc đấu tranh bạo động vũ trang cũng chỉ là một chế độ còn độc tài hơn cả chế độ vừa mới bị lật đổ. Tình trạng này đầy dẫy suốt dọc dài lịch sử loài người.

Bằng chứng rõ ràng và gần gũi nhất là chế độ CSVN độc tài và tàn ác hiện nay. Cuộc chiến Việt Nam kể từ 1955 cho đến 1975 đã cướp đi sự sống của khoảng 3.8 triệu4 người và gây tàn phế, thương tật cho không biết bao nhiêu người khác đang sống lây lất trên khắp các nẻo đường đất nước. Theo phỏng định của Wikipedia thì có vào khoảng 4 triệu5người Việt hiện định cư tại nhiều quốc gia trên toàn thế giới và khoảng từ 200,000 đến 400,0006 người đã chết trên biển cả chỉ vì muốn thoát khỏi sự tàn ác của chế độ CSVN.

Sự đau thương và tàn phá của đấu tranh bạo động vũ trang cũng đang rành rành trước mắt chúng ta: chỉ trong hơn hai năm mà cuộc đấu tranh vũ trang tại Syria, bắt đầu từ tháng Giêng 2011, đã gây nên chết chóc cho hơn 100,0007 người và khoảng 6.5 triệu8 người dân phải di tản, không nhà không cửa, sống vất vưởng trong những trại tạm cư tại các quốc gia ở vùng Trung Đông, không biết tương lai của con cái, gia đình sẽ như thế nào.

Hơn nữa, nếu xét về sức mạnh vũ trang, thì Đảng CSVN hiện đang nắm giữ toàn bộ các lực lượng cảnh sát, công an chìm, nổi và tất cả các quân binh chủng. Cho nên, ĐTBBĐ là con đường lựa chọn duy nhất không những hợp lí mà còn có xác suất thành công cao nữa.

3.2. Đấu tranh bất bạo động 

ĐTBBĐ không nhắm đến thoả hiệp, không phải là ngồi xuống để nói chuyện phải trái với Đảng CS vì Đảng CSVN không bao giờ biết phải trái, không phải là hoà hợp hoà giải vì hoà hợp hoà giải chỉ có nghĩa là quy phục dưới “trướng” của Đảng CSVN. 

ĐTBBĐ là khẳng quyết đòi lại một cách không khoan nhượng quyền lực bẩm sinh của người dân bằng cách tranh đấu có chiến lược, chiến thuật tinh vi và hữu hiệu nhằm mục đích tối hậu là xoá bỏ toàn bộ chế độ CSVN.

Mặc dù đòi hỏi hi sinh, can đảm, khả năng vạch kế hoạch chiến lược và chiến thuật, tổ chức, kiên trì, và kỉ luật, nhưng  ĐTBBĐ có thể đem lại những thành quả tốt đẹp về độc lập, tự do và dân chủ cho người dân. ĐTBBĐ không phải là không có đổ máu, nhưng so với những phương thức đấu tranh bạo động thì ít đổ máu hơn. ĐTBBĐ gia tăng sức mạnh và tự tin nơi người dân và làm cho người dân ý hội được quyền lực thực sự của mình. ĐTBBĐ xây dựng ý thức và lối sống dân chủ nơi người dân trong cũng như sau thời  gian đấu tranh. Phương sách ĐTBBĐ cũng còn ngăn chặn được những ý đồ đảo chánh có thể xảy ra trong thi gian ĐTBBĐ sắp hoàn tất mục đích xoá bỏ chế độ CSVN.

Tuy nhiên, sự thành công trong việc xoá bỏ chế độ CSVN tuỳ thuộc vào (1) ý niệm tổng quát về ĐTBBĐ có được phổ biến sâu rộng trong quần chúng hay không, (2) mức độ kiến thức cùng kĩ năng của các nhà lãnh đạo đấu tranh về việc soạn thảo cũng như thực thi các kế hoạch chiến lược, chiến thuật, và tổ chức ĐTBBĐ; và (3) sự khôn ngoan, kiên trì, can đảm, và kỉ luật của những người đấu tranh nhằm xoá bỏ chế độ độc tài CSVN.

Kết luận

Người viết bài này -- cũng là người đã chuyển ngữ những tài liệu về ĐTBBĐ của GSTS Gene Sharp – tin tưởng là các nhà đấu tranh nhằm mục đích xoá bỏ chế độ CSVN sẽ để dành thì giờ nghiên cứu giá trị của phương sách ĐTBBĐ, như được trình bày qua các tài liệu cung cấp kiến thức và đào tạo những kĩ năng về việc soạn thảo cũng như thực thi kế hoạch chiến lược, chiến thuật cùng những phương thức tổ chức ĐTBBĐ của GSTS Gene Sharp.

Mục đích duy nhất của người viết là giới thiệu ĐTBBĐ như là một đóng góp một phương sách đấu tranh hữu hiệu vào công cuộc dit tr chế độ CSVN và ước mong những nhà đấu tranh nhằm mục đích xoá bỏ chế độ CSVN để đem lại độc lập, tự do và dân chủ cho đất nước không bỏ lỡ cơ hội thẩm định giá trị của phương sách này.

Theo như những tài liệu của GSTS Gene Sharp thì ĐTBBĐ là một “vũ khí”. Giá trị đích thực của vũ khí này đối với người Việt quốc gia đấu tranh tuỳ thuộc vào sự kiện là sử dụng nó có đạt được mục đích xoá bỏ chế độ CSVN độc tài và tàn ác hay không. Giá trị của nó không tuỳ thuộc vào việc người nào sử dụng hay mục đích mà nó được sử dụng bởi một người nào đó. Trong số những người tự xưng là đang sử dụng ĐTBBĐ, có người không hiểu ĐTBBĐ thực sự là gì, có người không có khả năng sử dụng phương sách đấu tranh này, có người sử dụng vũ khí giả hay sử dụng vũ khí cho những mục đích khác hẳn với mục đích của những người Việt quốc gia đấu tranh cho độc lập, tự do và dân chủ. Mục đích của người Việt quốc gia đấu tranh là: xoá bỏ toàn bộ chế độ CSVN.

Tài liệu ĐTBBĐ bằng tiếng Việt được lưu trữ tại:


Nguyễn văn Thái, Ph.D., Pennsylvania, 7 tháng 10, 2013

Chú thích:
1Cuốn From Dictatorship to Democracy thuộc lãnh vực công (public domain) cho nên không cần tác giả cho phép chuyển ngữ. Tất cả những tài liệu khác của Gene Sharp đều cần được sự chấp thuận của tác giả.

2Gene Sharp, Waging Nonviolent Struggle: 20th Century Practice and 21st Century Potential [Tiến Hành Đấu tranh Bất bạo động: Thực hành của Thề kỉ 20 và Tiềm năng của Thế kỉ 21] , Boston: Extending Horizons Books, Porter Sargent Publishers, 2005.
3The Politics of Nonviolent Action [Chính trị của Hành động Bất bạo động], Boston: Entending Horizons Books, Porter Sargent Publishers, 1973.
4Con số lấy từ Uwe Siemon-Netto. Đức, A reporter’s love for a wounded people [Đức, Tình Yêu của một Phóng viên cho một Dân tộc Chịu Nhiều Đau Thương].California : Copy Express, 2013, tr. 293, và R.J. Rummel. Statistics of Democide, Chapter 6, “Statistics of Vietnamese Democide, Estimates, Calculations, and Sources”. (http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.CHAP6.HTM).
5Wikidepia. “Overseas Vietnanemese” . United States : 1,799,632 (2010) ; Cambodia: 600,000; Laos: 150,000; France: 250,000; Australia: 159,848 (2006); Canada: 180,125 (2006); 120,000; Russia: 150,000; Germany:137,000(2010); South Korea: 116,219; Czech Republic: 60,000; United Kingdom: 55,000; Poland: 50,000; Japan: 41,136; United Arab Emirates: 20,000; China: 20,000; Netherlands: 18,913; Norway: 18,333 (2006); Sweden: 11,771 (2003); Thailand: 10,000; Denmark: 8,173 (2008); Switzerland: 8,173 (2008); Qatar: 8,000; Belgium: 7,151 (2001); New Zealand: 4,875 (2006); Ukraine: 3,850 (2001); Hungary: 1,020 (2001); Finland: 4,000; Slovakia: 3,000; Brazil: 1,000; Italy: 3,000; Những nơi khác: 400,00. Những con số này do Wikipedia cung cấp nhưng cần kiểm chứng.
“Vietnamese Boat People”  dựa trên tài liệu của Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (United Nations High Commission for Refugees).
7Theo tin của Alliance News tại New York, Tổng thống Pháp François Hollande tuyên bố tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc (UN General Assembly) ngày 24 tháng 9, 2013 là tổn thất về nhân mạng của cuộc nội chiến tại Syria đã lên đến 120,000 người. (http://www.Ise.co.uk/).
8Thông tin của The New York Times phát hành ngày 5 tháng 9, 2013 dựa vào con số do Liên Hiệp Quốc cung cấp.