Thursday, 13 March 2014

Vai trò của trí thức miền Bắc sau 1975 [1] & [2]

Ảnh minh hoạ. Nguồn: AFP
Ảnh minh hoạ. Nguồn: AFP

Vai trò của trí thức miền Bắc sau 1975 [1]


Ung dung ta nói điều ta nghĩ
Cúi ngửa theo người quyết chẳng theo
Nguyễn Trãi
Có hai điều cần được khai triển minh bạch ở đây.
Thứ nhất chữ miền Bắc tôi dùng ở đây để chỉ chung  những người cộng sản- mà gốc gác có thể ở Huế- Quảng Trị- Bình Định. Trí thức cộng sản như thế có thể để chỉ cả những trì thức trong Nam từng theo cộng sản như trường hợp Đào Hiếu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lữ Phương, Vũ Hạnh v.v.. Đó chỉ là một cách gọi cho gọn và tiện.
Thứ hai chữ trí thức, tôi hiểu một cách rộng rãi, thoáng đạt mà nó thể hiện ngay trong ý nghĩa câu thơ của cụ Nguyễn Trãi: Ung dung ta nói điều ta nghĩ. Dám nói điều ta nghĩ, đó là thái độ trí thức đấy.
Vì thế đối với tôi, cụ Nguyễn Trãi là một người trí thức tiêu biểu vì dám nghĩ, dám có tư tưởng, dám đặt vấn đề mà không không sợ quyền lực.
Nói như thế, có nghĩa tôi đặt nhẹ các vấn đề bằng cấp, vấn đề về nghiệp vụ, về khả năng chuyên môn của người trí thức. Nó có thì càng tốt mà không có cũng được.
Nói như thế cũng có nghĩa tôi coi những nhà văn như Nguyên Ngọc- Dương Thu Hương, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên là những người trí thức tiêu biểu của miền Bắc- mặc dầu trình độ nghiệp vụ chuyên môn của họ có thể chưa học hết bởi vì họ tham gia kháng chiến từ hồi còn trẻ. Điều này trên thực tế cũng đúng vì một số đông các nhà trí thức miền Bắc không có điều kiện học hỏi. Trừ một thiểu số tốt nghiệp đại học trong nước hoặc được đi học ở liên Xô hoặc các nước XHCN khác.
- Trí thức hiểu theo nghĩa dân giả
Đối với người dân thường thì hễ có bằng cấp là được xếp vào loại trí thức. Ngay cả bằng giả, bàng mượn, bằng mua như bây giờ.
Cũng vậy, sau 1975 sự so sánh về cái được gọi là trí thức giữa hai miền chủ yếu là dựa trên trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Dư luận thường cho rằng bác sĩ ’ ngụy’ thì giỏi hơn nhiều phần so với bác sĩ ‘giải phóng’. Sự so sánh ấy đi đến độ coi một bên là bác sĩ bên kia chỉ đáng là y tá..
Người ta- theo nghĩa kẻ chiến thắng cũng như kẻ thua cuộc đều hiểu ngầm- tìm đến bác sĩ ‘Ngụy’ để chữa trị. Cái gì mang nhãn hiệu ‘Ngụy’ thì có nghĩa là tốt hơn. Từ thuốc men, quần áo, vật dụng, nhà cửa, đồ dùng, xe cộ, vật liệu, vật tư dĩ chí đến con người. Một viên thuốc Aspirine được mấy anh bộ độ vào Nam công tác, khuân vác vất vả đến rất tội nghiệp. Viên thuốc có dược liệu rất tốt, nhưng bề ngoài thì xấu xí, viên thuốc bở lắm. Lái buôn thuốc trong Nam mua cả lố giá rẻ, mang về chắc có trộn thêm bột mì, cho vào các loại máy dập tối tân. Viên thuốc nay bề ngoài trắng, cứng nhắc, bẻ không được và nay mang nhãn hiệu Aspro, bọc trong vỏ Alumium. Giá bán có thể gấp nhiều lần hơn viên Aspirine nguyên thủy.
Rõ ràng người ta mua cái nhãn.Cái nhãn ấy tuy bề ngoài chẳng là gì cũng làm tụt giá những hào quang của sự chiến thắng.
Nhưng quan trọng hơn cả, nó làm mở mắt nhiều người- Trong đó đặc biệt có Bùi Tín và Dương Thu Hương. Dương Thu Hương viết rằng  bà đã phải khóc khi nhìn thấy đất miền Nam khác hẳn sự tuyên truyền của miền Bắc.
Không kể những người như Hoàng Văn Chí, Xuân Vũ, đã phản tỉnh trước đây. Sự phản tỉnh sớm của ông Bùi Tín và bà Dương Thu Hương  tôi cho là tiêu biểu nhất mở đầu cho nhiều trí thức tiến bộ khác sau này.
Nhưng tôi nghĩ phải công bằng dành cho họ thời gian chuyển đổi- cần từng bước—từng giai đoạn lột xác- từng giai đoạn trăn trở- để chứng tỏ đó là thái độ can đảm và chân thực của một người trí thức.
Nếu lột xác ngay có thể được hiểu đó chỉ là thái độ trở cờ- thứ chủ nghĩa cơ hội-. Điều mà nhiều người không muốn điều đó.
Cho nên những người tỏ ra nghi ngờ thái độ thay đổi của bà Dương Thu Hương hay ông Bùi Tín và đòi hỏi sự thay đổi 180%- đòi hỏi sự dứt khoát quá nhanh- rồi nêu ra vấn đề thực hay giả- hoặc vội đưa ra những lời cảnh cáo- đều vội vã, chủ quan rơi vào chủ nghĩa giáo điều.
Rồi tiếp theo nào là đồng hồ hai cửa sổ và hằng trăm thứ đồ dùng khác kìn kịt khuân về Bắc như những món quà quý giá nhất.
Võ Văn Kiệt  và giới trí thức miền Nam
Đến bác sĩ, kỹ sư, chuyên viên ‘ngụy’ đều có trình độ chuyên môn bảo đảm..Ông Võ Văn Kiệt là người khôn ngoan, sáng suốt đã biết dùng ‘chất xám’ trong Nam, trong vai trò cố vấn về kinh tế mà sau này được gọi là ‘ Nhóm chiều thứ sáu’. Khi ra làm Thủ tướng , ông đã kéo hai chuyên viên miền Nam ra Bắc làm việc bên cạnh ông, trong đó có ông Lâm Võ Hoàng.[1]
Trường hợp Lâm Võ Hoàng và nhóm Chiều Thứ Sáu
Sau này, ông Lâm Võ Hoàng được ông Võ Văn Kiệt cho đi tham quan nước ngoài như Pháp, Canada,Ý( Rome), từ 05-01-1996 đến 12-02-1996, trong bản Tường Trình do em ông Lâm Võ Hoàng cung cấp cho tôi.. Mở đầu tờ trình, ông Lâm Võ Hoàng viết:
Kính thưa anh Sáu, xin gửi đến anh Sáu ba tập sách nhỏ, tôi vừa viết xong, để đánh dấu lòng tri ân của tôi đối với một trong rất nhiều nghĩa cử có ý nghĩa nhất của anh Sáu, trong quá trình tôi có may mắn được anh Sáu tạo điều kiện tiếp tục phục vụ đất nước, trong buổi đầu, tưởng đâu ‘ tàn Đời’.[2]
Xin lưu ý đến chữ Tàn Đời như một lời tri ân và cũng như một lời phê phán chế độ ấy.
Qua câu chuyện ông Lâm Võ Hoàng, nhìn lại những gì xảy ra sáu 1975, tôi thấy cái sai lầm lớn nhất của chính quyền miền Bắc là tự loại trừ một ‘ Chiến lợi phẩm’ quý giá nhất của miền Nam là họ đã vứt tất cả cá chất xám miền Nam-đi cải tạo- không dùng- không tin-bỏ sọt rác-.
Chiến thắng xong, họ chỉ lo cái thiển cận, cái trước mặt, lo thu góp của cải, tài sản, kho tàng, tịch thu nhà cửa, tịch thu nguyên liệu, hãng xưởng, vũ khí chất đầy xe chở về miền Bắc.
Đó chỉ là một cuộc hôi của thiển cận vì đã không nghĩ đến cái vốn làm ra của ấy.
Phải mất bao nhiêu công của mới đào tạo được đội ngũ trí thức ấy trong chính quyền, trong hành chánh, trong thương mại và ngay cả trong quân đội miền Nam?
Và khi những thành phần này ra Hải ngoại, người ta mới hiểu đúng mức giá trị trí thức miền Nam trong việc Hội nhập ở xứ người.
Huy Đức, trong sách Bên Thắng Cuộc có viết rằng: bằng cấp ở Liên Xô được cho điểm 1, ở Pháp 0,9 và ở Mỹ chỉ được 0,8. Chỉ dựa trên cơ sở chính trị, họ đánh giá sai lầm như vậy.[3]
Và cũng vì thế, có những trí thức miền Nam thiện chí sẵn lòng hợp tác với chính quyền mới đều không được trọng dụng như quý ông  Chu Phạm Ngọc Sơn, Châu Tâm Luân, Dương Kích Nhưỡng, Phạm Biểu Tâm, Phạm Hoàng Hộ, Trần Ngọc Ninh người trước kẻ sau đều tìm cách cuốn gói ra đi.
Sự thiển cận để cho chính trị xen vào nên không lạ gì trước tình trạng xuất huyết chất xám, người ta đã điều từ miền Bắc vào một kẻ vô học tiêu biểu nhất của miền Bắc- ông Đỗ Mười-, năm 1978, ông này có nhiệm vụ cào bằng, cải tạo xã hội miền Nam như miền Bắc mà ông đã làm trước đây ở miền Bắc. Ông cho rằng: Chỉ cần 3 ngày đào tạo xong. Kỹ sư ba ngày, bác sĩ ba ngày, giáo sư ba ngày!! Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đây chỉ  là một cách nói của một người ít học!!
Tình trạng lo hôi của sau 1975, nó nhắc tôi nhớ đến nước Pháp của De Gaullle, sau chiến tranh thế giới thứ hai. Người Pháp lo gỡ toàn bộ trang bị máy móc nhà máy sản xuất xe hơi của Đức kìn kịt trở về Pháp. Trong khi nước Mỹ lo thu phục nhân  tài- giới trí thức ưu tú hàng đầu của Đức- mời về những vị trị then chốt trong giảng dậy và nghiên cứu hàng đầu của Mỹ.
- Nguyễn Trọng Văn đánh giá trí thức miền Bắc: Vô sản và vô học
Cũng vì thế mà ngay cả trong lãnh vực khoa học nhân văn cũng cho thấy sự tụt hậu về nhiều mặt của trí thức miền Bắc. Sự tụt hậu so với miền Nam hẳn là có. Chương trình giáo dục của miền Nam –  từ trung học, nhất là ở bậc đại học là theo chương trình của Pháp hay một phần của Mỹ-. Bằng cấp được nhận là tương đương.
Nguyễn Trọng Văn- mặc dầu đi theo phe cộng sản- nhưng Nguyễn Trọng Văn vốn tính bạo nói đã nhận xét thẳng thừng: Họ chẳng những là người vô sản mà còn vô học nữa.[4]
 Những phát ngôn rất tùy tiện như cho rằng trí thức miền Nam ở lại theo chủ nghĩa 3N: 3 N theo giải thích của Nguyễn Trọng Văn là: Ngu, Nghèo và Nhát.[5]
Một lần khác, năm 1980 trong dịp kỷ niệm 5 năm sau ‘Giải Phóng’, Nguyễn Trọng Văn có dịp đọc một tham luận về tình hình trí thức miền Nam sau 1975. Ông đã chơi chữ và dùng ba chữ Là. Thoạt đầu, trí thức miền Nam coi cách mạng Là Mình. Sau hai năm coi cách mạng chỉ còn Là Bạn. Và sau 5 năm coi cách mạng là Là Thù Nghịch.[6]
Đây là một nhận xét xúc phạm đến nhiều người. Xúc phạm cả đến trí thức từ hai phía. Trí thức miền Nam có bao nhiêu người coi Cách mạng Là Mình?
Sự xúc phạm như thế thường xảy ra từ hai phía.
Viết ra bao giấy mực cho vừa?
Nhưng tôi cũng không quên một điều là trên tờ Đất Nước, Nguyễn Trọng Văn đã lần lượt đưa lên giàn phóng tố cáo trí thức miền Nam như Nghiêm Xuân Gồng, Mai Thảo, giáo sư Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Khắc Hoạch, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Sỹ Tế mà ông gọi chung là những ảo tưởng của người cầm bút miền Nam. Riêng Trần Thái Đỉnh với những nhận xét của Nguyễn Trọng Văn có tính ác ý rõ ràng về những bài biên khảo về triết Hiện sinh của ông này.
Đặc biệt có hai bài dành cho Nguyễn Văn Trung là: Triết học hiện sinh và những người cầm bút ở miền Nam trên tờ Đất Nước, số 2 và một bài: Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung, trên Bách Khoa, số 264.
Chưa kể, một đánh phá có tính cách chủ định với cuốn: Phạm Duy đã chết như thế nào, Văn Mới, 1971 mà tôi đã có bài viết trả lời.
Sau đó, ông còn đề cao một vài người có xu hướng theo bên kia như Nhất Hạnh, Thái Lãng, Nguyễn Tường Giang và một nhà thơ vô danh nào đó có tên Nguyễn Lê Tuân với nhan đề: Chào Mừng anh em ruột thịt.
Về Nhất Hạnh, ông viết: Trước thơ văn của nhất Hạnh, những viên ‘Kim cương chói lòa cái tuyệt vời, tuyệt đúng, tuyệt đẹp’ của Sáng Tạo, Văn Nghệ, Thế Kỷ 20..trở thành những bong bóng sà phòng của trẻ con.[7]
Về Nguyễn Trọng Văn, tôi xin phép được sử dụng đúng chữ của ông quen dùng. Đó là chữ Con Hoang. Ông chính là Thứ Con Hoang của Miền Nam và sau này trở thành đứa con hoang vô thừa nhận của người cộng sản.
Ông là thứ Unwanted cả từ hai phía. Phía người Quốc gia lắm lúc trộm nghĩ phải coi ông như một người phản bội. Ông cứ theo cộng sản cũng được và đành chấp nhận. Nhưng theo mà chửi miền Nam thì lại là chuyện khác. Rải rác trong nhiều bài viết, ông coi miền Nam như một ổ đĩ điếm.
Khi lần đầu tiên về VN, tôi đến nhà ông trong cư xá Sĩ quan Chí Hòa.. Ngay trước nhà có một khoảng trống lớn thì nay mọc lên rất nhiều quán cà phê đủ loại.  Việc đầu tiên trước khi hỏi thăm nhau, tôi nói: cậu trước đây chửi miền Nam chỉ là ổ điếm thì nay trước nhà cậu không phải chỉ một ổ, mà nhiều ổ. Nhận xét ấy làm Nguyễn Trọng Văn cười- cười đến sặc sụa- cười không ngớt- sau đó cái cười trở thành như mếu. Văn chảy nước mắt. Nỗi giận hờn tự nhiên biến mất thương cho một thằng trí thức miền Nam mê muội. Nhưng rồi chứng nào vẫn tật ấy.
Phía người cộng sản, họ coi ông như một thứ cò mồi giai đoạn như một thứ củi mục cần loại bỏ.
Và chính ông đã tự xếp mình vào thành phần có Bốn Cái Không:
- Không cộng sản: ông không vào đảng nhưng cũng không chống cộng.
- Không Quốc gia, nhưng không chống đảng phái Quốc Gia
- Không tôn giáo nào, nhưng không bao giờ chống tôn giáo
- Không theo Mỹ, cũng không chống Mỹ.[8]
Vậy thì Nguyễn Trọng Văn là ai? Đứng ở đâu trên đất nước miền Nam?
Từ căn bản, cần nhìn nhận cộng sản là một điều xấu
Để cho bài  tham khảo này có cái lô-gic căn bản, nhờ đó giải thích, cắt nghĩa được thái độ của người trí thức miền Bắc. Xin bắt đầu bằng một tiền đề khẳng định mà tính nội hàm chứa đựng ngay cả kết luận.
Tôi khẳng định bản chất của chế độ Cộng sản là một điều xấu.
Có thể khẳng định le Mal est communiste. Đó là một một cái xấu không từ bên ngoài, không nhất thời, không chen lẫn điều xấu lẫn điều tốt mà là một điều xấu tự bản chất.
Định đề này như một tiền đề đồng thời như một kết luận như một nguyên lý. Các trí thức miền Bắc nếu không xác định rõ được điều này thì sẽ có quan điểm mơ hồ, có những nhận định lưỡng giá hay nước đôi (Ambiguité). Như có một số vị cho rằng- trường hợp ông Lê Hiếu Đằng- : Đảng cộng sản mới đầu là lý tưởng, là tốt sau này là suy thoái..Hoặc đa số trí thức tin tưởng rằng có thể sửa sai, cải thiện cái Đảng ấy.
Đó là những tư tưởng  hão huyền như một cách tự dối mình.
Đó có thể là phản tỉnh mà chưa phản kháng.
Đó có thể là lẫn lộn giữa lý thuyết và thực tế, giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái được gọi lá quyền lợi cá nhân vá cái nhân danh quyền lợi tập thể.
Trí thức miền Bắc như vợ bé của chế độ
Họ quản lý giới trí thức miền Bắc từ cái bụng lên cái đầu. Quản lý cái dạ dầy là quản lý được cái đầu của trí thức miền Bắc…Nói ra thì phiền, nhưng cái lụy của trí thức miền Bắc là bắt đầu từ cái Hộ Khẩu.
Vì thế, trí thức XHCN được coi như ‘ vợ bé của chế độ’ được ve vuốt tán tỉnh, được cho ăn, cho uống mà không bao giờ chính thức cưới làm vợ.
Sở dĩ chúng ta có thể đi đến một kết luận chắc nịch, cộng sản là một điều xấu bởi vì xét lịch sử cái Đảng ấy đã trở thành họa cho nhân loại chỉ sau các chế độ phong kiến và Phát Xít.
Lịch sử các nước như Liên Xô và Trung Quốc dưới chế độ cộng sản là những cuộc tắm máu người dân vô tội. Con số nạn nhân lên đến hằng triệu và nhiều trục triệu. Tội ác chồng chất không thể tính hết được.
Chẳng hạn, từ năm 1958 đến 1962, Mao Trạch Đông đã làm chết cả 10 triệu người. Nó là một trong những tội ác giết người tập thể lớn nhất của nhân loại.(Most deadly mass killings in human history). Bước nhảy vọt làm cho 45 triệu người dân Trung Hoa chịu đói khát, dánh đập, tù đầy đến chết với những cảnh ăn thịt trẻ con ghê rợn.
Nếu ai đã có dịp đọc cuốn sách của Frank DiKotter thì sẽ thấy kinh hoàng , rởn tóc gáy. [9]
Mao đã để lại nhiều câu nói thời danh như: Cách mạng không phải là một bữa tiệc.
 Xấu tự bản chất là một điều xấu đã trở thành một vô thức tập thể, đã trở thành da thịt của chế độ, trở thảnh máu huyết của cơ chế vận hành một cách máy móc không chuyển đổi được.
Nó tạo thành bằng những tư tưởng đã khuôn đúc, đã hoàn chỉnh. (Idées toutes faites). Cho nên nó không chấp nhận bất cứ ý tưởng nào ở bên ngoài nó.
Những ý kiến- những góp ý- những phản biện đều bị bỏ ngoài tai.
- Cộng sản là thứ chủ nghĩa giáo điều. Đó là thứ tôn giáo mà không có tôn giáo
Mà ai còn tin rằng có thể góp ý, có thể sửa sai Đảng thì đó là một ảo tưởng trí thức- tự đánh lừa mình.
Họ sửa sai thì được- sửa sai nhiều lần- mỗi năm mỗi sửa- hai mưới năm ba mươi năm vẫn tiếp tục sửa-.
Chẳng những thế, khác nó còn được coi là chệch hướng và tệ hại hơn nửa trở thành thù địch có thể bị thanh toán, khai trừ hoặc tù đầy.
Nhưng họ lại chống lại những tham vọng sửa sai và họ quy cho cái tội: Chủ nghĩa xét lại như trường hợp Hoàng Minh Chính. Bài học Hoàng Minh Chính với tư tưởng: Chủ nghĩa giáo điều ở Việt Nam đã bị còng tay gây họa lây cho khoảng 200 người khác.
Nhưng những người trong cuộc biết rõ rằng, chính Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đều mặc nhiên, minh nhiên ủng hộ Hoàng Minh Chính.
Và nói cho cùng, bắt Hoàng Minh Chính thì đồng thời cũng phải bắt giam từ Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh đến cả Hồ Chí Minh.
Cũng vì thế cộng sản là một điều xấu tự thân ( En soi)- một điều xấu phổ biến. Phổ biến tại Liên Xô, tại Trung Cộng, tại Đông Âu cũ, tại Bắc Hàn và tại Việt Nam.
Gương của Bắc Hàn những ngày gần đây với những tin tức được tuồn ra bên ngoài nghe mà rùng rợn.
Tại Việt Nam trước đây chỉ xấu một nửa phía Bắc. Sau 1975 cả nước nhuộm xấu.
Hằng triệu người đã ngã gục. Nó đã đưa cả một dân tộc chìm đắm trong những cuộc cách mạng đẫm máu do những tính toán và những quyết định sai lầm.  Nó phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác.
Nếu có điều chi khác biệt giữa các nước cộng sản như Trung Hoa hay Bắc Hàn với Việt Nam là có sự khác biệt về mức độ chứ không có sự khác biệt về bản chất.
Bản chất là xấu giống nhau, mức độ thì khác nhau vì ít hay nhiều.
Tên của những tên đao phủ đó là Staline, Mao Trạch Đông, Fidel Castro và xin dám lần đầu nêu tên Hồ Chí Minh.
Vì thế, ngay đến Hồ Chí Minh cũng phải được nhìn lại và phải được xếp chung danh sách những tên đồ tể thế giới.
Không có lý do chính đáng nào để tách HCM ra khỏi danh sách ấy cả.
Chế độ ấy gây ra chết chóc sinh mạng con người thì lãnh đạo phải là kẻ sát nhân.
Sở dĩ điều xấu ấy vẫn tồn tại, vì nó là một điều xấu được che đậy  bởi bạo lực và tuyên truyền. và không có giải pháp hoặc một cố gắng cải thiện từng phần, từng vấn đề. Đã bao nhiêu năm rồi, số phận đất nước Việt Nam đã chìm đắm trong giấc mơ cộng sản?
Ta có thể nhận ra điều xấu ấy, nhưng lại không nhận ra được ai là thủ phạm
- Chính vì những giải pháp ôn hòa, thỏa hiệp hoặc huyễn tượng về một chế độ cộng sản có thể cải tiến đã kéo dài sinh mệnh chính trị của cộng sản ở Việt Nam
Nhiều trí thức miền Bắc đã nuôi dưỡng, vỗ béo nuôi nó trong nhiều năm nay.Nói ra không ai tin hoặc không muốn tin. Nói ra thì khó chịu, không bằng lòng. Nhưng thực tế nó là như vậy.
Nhiều trí thức chân chính của miền Bắc đã tự thú như vậy: Hoàng Ngọc Hiến nói đến thứ Văn Học phải đạo. Minh Châu đã khuất bóng mỉa mai một thứ văn học Minh Họa. Lại Nguyên Ân gọi là Tao Đàn, Nguyên Ngọc gọi là Tụng Ca.
Vẫn lại một Dương Thu Hương gọi: thực chất là một lớp công chức thuộc địa.[10]
Ít nhiều họ là những tên lính canh của CNXH.
Vì thế, ngày nay nhiều tác giả đã bàn đến cái Loyal Opposition như sẽ đề cập đến sau này. Dương Thu Hương đề cập đến cái Quy chế của sự nhầm lẫn. Phạm Thị Hoài nêu trường hợp giáo sư Chu Hảo để gián tiếp nói tới: Thái độ lạc quan vô tận của một số lớn trí thức miền Bắc.
Chỉ nói tóm tắt là tội của chế độ cộng sản cũng gián tiếp- một cách nào đó- cũng là trách nhiệm của giới trí thức miền Bắc.
Bởi vì im lặng là đồng lõa với tội phạm.
Sự phản kháng tiêu cực của đa số thầm lặng là nguy hiểm nhất
Đây là chủ đề thứ hai cần nắm vững.
Chính vì giới trí thức miền Bắc đã thất bại trong việc không loại trừ được cái nguy cơ của cộng sản- không tìm ra được giải pháp thay thế- tạo ra tình trạng trì trệ và sự suy thoái đến hiện nay đã làm nảy sinh ra một số hiện tượng tiêu cực nơi phần đông dân chúng.
- Nhân dân làm chủ biến thành lạm phát dân chủ
Cái hiện tượng tiêu cực trong dân chúng đã phá nát cơ cấu của một xã hội dân sự trong một thể chế hành chánh lành mạnh, ổn định và trật tự. Nó đã biến một cái quyền bịa đặt trở thành sự lạm phát dân chủ. Đó là thứ chủ nghĩa mạnh ai nấy làm, mạnh nấy sống, sống chết mặc ai.
Chưa bao giờ cái khẩu hiệu Nhân dân làm chủ trở thành lố bịch và tai hại như ngày này!!
Trí thức miền Bắc trong tình huống hiện nay như một cái bề mặt đẹp của một tòa nhà sụp đổ. Họ trách nhiệm về sự sống còn ấy nếu cứ tiếp tục không dám nhìn thẳng vào sự thật, không có can đảm dùng cú đạp cho tòa nhà ấy sụp xuống để xây cái khác..
Đó là thân phận khó xử của nhiều người trí thức hiện nay. Bỏ thì thương, vương thì tội. Cứ nấn ná, chần chờ, viện cớ này cớ nọ để mua thời gian.
Nay đã đến lúc thời gian không thuộc về họ nữa.
Họ và Đảng cộng sản đã nhiều phen đồng lõa với niềm xác tín vĩ đại ngay cả trong những sai lầm của họ.
Người ta đã không nhận thức được rằng cái phản ứng của đa số thầm lặng chính là nguyên nhân làm cho xã hội sa đọa nhất. Cái đa số thầm lặng mà cơ may phản biện hầu như không có thì sự phản kháng là những phản ứng tiêu cực.
Điều này xem ra vô hại đối với kẻ cầm quyền, nhưng lại là những đà cản bước tiến và xói mòn xã hội. Vốn liếng xã hội dân sự mỗi ngày mỗi tiêu hào. Một người không sao- 10 người cũng không sao. Nhưng triệu người và hàng chục triệu người cùng một phản ứng tiêu cực thì sức phá hoại là không lường được.
Và ngày nay, người ta mới dần hiểu được sự phản kháng này nó tai hại như thế nào.
Đó là sự vô trách nhiệm toàn diện, trên toàn xã hội, trên mọi tầng lớp dân chúng, nhất là trên giới trẻ. Đó là sự thản nhiên( Indifférence) trước bất cứ tình huống nào của một con người hay một xã hội vô cảm.
Nó phô diễn bằng những hành động phi nhân tính- giết người tàn bạo- giết người một cách tùy tiện vô cớ-hay bằng những cớ nhỏ nhặt không đáng kể như đi ăn trộm một con chó- .
Tóm lại giết người một cách gratuit.
Luật rừng để đương đầu với chế độ toàn trị.
Không có sự so sánh nào nổi bật hơn là một bên thì chính quyền xử dụng luật lệ một cách vô tội vạ với bàn tay sắt. Như tù đầy, bắt bớ, hành hạ, đánh người đánh chết.
Một bên dân chúng hiện nay là sài luật rừng để hành xử với nhau. Giết người vô tội vạ, cần chém là chém, cần giết là giết, cấn ăn cắp, ăn cướp là ăn cướp.
Người ta đi tìm thuốc chữa, tìm đủ nguyên nhân, đổ cho giáo dục, đổ lẫn cho nhau- trước đây đổ cho tàn dư văn hóa đồi trụy Mỹ-Ngụy, nay Mỹ Ngụy không còn nữa thì đổ cho ai- trước đây đổ cho chiến tranh nay không còn chiến tranh thì đổ cho ai.
Thực chất, điều xấu ấy nó nằm sẵn trong cơ cấu của cơ chế cộng sản, trong một vòng xoáy của cái Trục của điều xấu (Axe du mal)- Một cái cercle vivieux-. Một cái vòng xoáy luẩn quẩn không lối ra. Hoặc triết lý một chút thì đó là một thứ bệnh dịch hạch mà bất cứ ai cũng có thể vừa là nạn nhân, vừa là nguyên nhân của sự gây bệnh.
Nhưng cái con vi trùng của bệnh dịch hạch ấy là Đảng cộng sản. Triệt tiêu, loại bỏ cái đảng ấy là triệt tiêu con vi trùng thì mọi sự trở lại tình trạng bình thường.
Nguyên tắc là không sửa, không chữa mà hủy bỏ, triệt tiêu. Không ai đi chữa một con vi trùng cả.
Những người lãnh đạo cộng sản đã tưởng rằng có thể dùng bạo lực cưỡng chế và yên trí rằng họ đã thành công.
Thành công theo nghĩa ổn định, dẹp yên chỉ là cái nhất thời. Vì không phải lúc nào xử dụng bạo lực cũng có kết quả, vì nó là con dao hai lưỡi như kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm.
Nhưng nhiều khi phải nhiều năm sau, người ta mới nhận ra hậu quả của sức cản tiêu cực nó như thế nào..
Và đối với kẻ viết bài này thì chế độ cộng sản đã lung lay, đã có nguy cơ sụp đổ, chỉ vì những sức cản tiêu cực này.. Và nếu nói theo ngôn ngữ của giáo sư G.Chang tiên đóa rằng, nước Tàu sẽ sụp đổ trong cuốn sách The coming collapse of China (2001)
Đó là sự thờ ơ của dân chúng, đó là sự bất cần, sự thiếu trách nhiệm, sự thiếu niềm tin của dân chúng..
Lãnh đạo nói, dân chúng không nghe.
Đảng nói một đàng, dân chúng làm một nẻo. Càng nhiều luật lệ, càng nhiều thúc ép, càng thêm rắc rối. Đó là một cái cây đã rỗng ruột. Một bộ máy đã ì ạch, đã en panne.
Đảng là một cơ cấu đã mục ruỗng.
Có một con mắt của dân nhìn rõ được chân tướng của Đảng. Họ nhìn những cán bộ mất bản chất để nhận ra được cái cơ cấu Đảng mục ruỗng đó. Không phải cứ bắt giam tù, không phải cứ tống xuất, không phải cứ triệt tiêu tài sản, không phải cứ bịt mồm bịt miệng bằng những biện pháp dùi cui, bằng hệ thống công an trị thể lý là xong.
Chưa bao giờ cộng sản thành công trong việc cầm tù được tư tưởng người khác. Và xin nói thẳng, họ cũng chưa bao giờ có thể cải tạo được những người tù cải tạo trước 1975. 300 ngàn người tù cải tạo sau nhiều năm cải tạo thì họ vẫn là người tù cải tạo. Chỉ có khác, trước đây là một nỗi nhục thì nay có thể là một niềm vinh dự. Điều mà Mai Thảo gọi Dương Nghiễm Mậu sau nhiều năm sống dưới chế độ cộng sản đã tạo cho mình: Một bản lĩnh chói lòa.
Đã có được bao nhiêu trí thức miền Bắc có được bản lĩnh chói lòa như thế. Phải chăng đó là Dương Trung Quốc chăng?
Họ chỉ đạt được một kết quả ngoài mong muốn là đào sâu thêm sự hận thù. Hận thù chồng chất. Sau nảy có muốn nói gì đi nữa- như hòa hợp hòa giải-cũng không ai nghe nữa.
Thời của cộng sản nay đã chấm dứt. Nay chúng ta đang bước vào thời kỳ đồ đểu.
(Còn tiếp)

[1] Lâm Võ Hoàng có viết nhiều bài báo, sau in dưới dạng photocopy như cuốn: Những bài viết trên báo Công giáo và Dân Tộc. Nhóm Chuyên viên ‘ Chiều thứ sáu’.
[2] Lâm Võ Hoàng, Tờ Trình Thủ tướng chính phủ, 1996
[3] Huy Đức, Bên Thắng Cuộc, trang 174
[4] Đây không phải là lần thứ nhất, NTV dám ăn nói ngang ngược như thế. Trước tình trạng một số trí thức vượt biển, bỏ trốn ra nước ngoài mỗi ngày một đông. Ông Võ Văn Kiệt đã tìm cách vớt những người này khỏi cảnh tù tội.. Và trong một buổi nói chuyện với giới trí thức thành phố, ông khuyên họ không nên vượt biên. Ông nói; trong thời hạn một năm mà nếu chính quyền này không làm được gì thì sẽ để các anh tự do ra đi. Nguyễn Trọng Văn đã đứng lên phát biểu : Nếu trong vòng một năm mà không làm được gì thì chính quý vị lãnh đạo phải ra đi, chứ không phải chúng tôi..Câu nói này nếu được phát biểu trong một xã hội dân chủ thì cũng không có gì là quan trọng. Nhưng trong hoàn cảnh miền Nam lúc bấy giờ được coi là thách thức nặng nề Rất may một lần nữa, gặp ông Võ Văn Kiệt là người hiểu biết không chấp. Sau đó, Nguyễn Trọng Văn hầu như không còn cơ hội cầm bút nữa. Câu chuyện này cũng được Huy Đức viết đầy đủ trong Bên Thắng Cuộc.
[5] Thuận Văn, Vài lời về lẽ công bằng và xác thực, Talawas, 30.06.2008, bài 26
[6] Nguyễn Trọng Văn. Nhưng cũng kể từ đó, Nguyễn Trọng Văn bị treo bút. Câu chuyện này cũng được Huy Đức viết đầy đu trong Bên Thắng Cuộc.
[7] Nguyễn Trọng Văn, Đất Nước, số tháng 11, 1968
[8] Nguyễn Trọng Văn, Ba người ban, Talawas ngày 9-6-2008, loạt bài số 20
[9] Frank Dikotter,  Mao’s great Famine, The History of China’s most devastating Catastrophem, 1958-1962, 2010
[10] Trăm hoa vẫn nở trên Quê Hương, bài viết của Thân Trọng Mẫn, tràng 29
© Nguyễn Văn Lục
© Đàn Chim Việt


Vai trò của trí thức miền Bắc sau 1975 [2]

Ảnh minh hoạ (internet)
Ảnh minh hoạ (internet)
Lấy trí nhân mà thay cường bạo
Lấy đạo nghĩa mà thắng hung tàn
Nguyễn Trãi
Tôi không có chủ tâm nhìn lại quá khứ để tự hành hạ mình và gián tiếp hành hạ người khác. Tôi cũng không có chủ tâm tìm cách phê phán hay hạ nhục những người đã có thời ở phía bên kia mà tôi đã nêu tên tuổi, đã đưa ra những sự việc trong phần bài trước. Đó chỉ là những việc cần phải nói, cần phải viết cho nhu cầu sự thật.
Tôi cho rằng, ở một góc độ nào đó – một góc độ ẩn khuất mà có thể bản thân không hiểu được – ở một thời điểm nhất định trong một hoàn cảnh nhất định – họ đã tin tưởng và chọn lựa. Sự chọn lựa từ một hoàn cảnh theo ý nghĩa của J.P Sartre: Con người là con người từ một hoàn cảnh. ( L’homme-en-situation). Chính hoàn cảnh quyết định con người là thế này hay thế kia.
Nói theo nghĩa đời thường thì: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.
Nhưng nói theo triết lý của trường phái Tự Do – nói như nhà tư tưởng F.A. Hayek – tác giả cuốn sách:The road to Serfdom(Đường về nô lệ) có thể đó là sự sai lầm chân thật của họ, dù đó là những sai lầm rất nặng nề.[1]
Người ta thường nói: Đường xuống hỏa ngục thì đầy những kẻ thiện chí!!
Sự đồng cảm ở đây với những người vừa kể trên của người viết bài này trở thành chân lý của đời sống.
Bằng chứng là nay nhiều người trong số họ cũng ngao ngán vỡ lẽ kiểu Nguyễn Văn Trung: dấn thân vào cách mạng là một thứ đầu tư phá sản.
Mà khi biết ra được thì đã trễ.
Nhiều người nay khi tóc đã bạc – nhìn lại cuộc đời tranh đấu cho một lý tưởng – coi như họ đã hoang phí cả cuộc đời tuổi trẻ vào một thứ ảo tưởng như trường hợp Hồ Ngọc Nhuận, Lê Hiếu Đằng, Ngô Công Đức, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Cao Lập.
Như thế, phải nhìn nhận có một thứ sai lầm chân thật.
Nhà thơ Vân Hải trong truyện ngắn Người cùng làng mở đầu bằng hai câu thơ như một hối tiếc cho cả một thời:
Khi biết mình ngu dại
Tóc trên đầu bạc phơ.[2]
Và tâm trạng hối tiếc ấy cũng được cả những người trí thức miền Bắc mà tên tuổi không thiếu như Dương Thu Hương, Vũ Thư Hiên, Bùi Tín và hằng trăm người khác không tiện liệt kê hết.
Nhìn lại cảnh tượng đất nước hiện nay trong vòng mấy chục năm qua – kẻ còn chút lòng – không khỏi động não thì hóa ra không phải con người.
Năm 1975, người cộng sản miền Bắc thừa hưởng một nửa phần nửa đất nước miền Nam – dù có chiến tranh – hầu như nguyên vẹn. Nó cho thấy một tiềm năng của một xã hội có triển vọng tân tiến, một xã hội dân sự có khung hình pháp lý dân chủ, tự do.
Họ chỉ cần bỏ ra chút xíu cái phần còn lại là tạo dựng được một thể chế chính trị cởi mở – xây dựng trên tự do, dân chủ.  Và sẽ có một nước Việt Nam ngang hàng với các nước lân bang như Đại Hàn, Singapore v.v… về mọi mặt.
Họ đã không làm được. Tự hỏi vai trò người trí thức miền Bắc đã làm được gì trong khoảng thời gian ấy?
1. Họ đã làm được cái việc là phá nát miền Nam
Ngồi nhìn lại cái ngày 30 tháng tư, cái ngày mà tựa đề một bài hát của người cộng sản hát nhai nhải trên đài phát thanh: Bão Nổi Lên Rồi. Quả thật đó là cơn bão đến cấp số 9 tàn phá miền Nam. Nó quét sạch trên đường đi của nó nhà cửa, tài sản vật chất, ngay cả của chìm của nổi, vốn liếng văn hóa, tinh thần tôn giáo và nhất là niềm tin và tương lai con người.
Tai họa của cơn bão ấy, chúng tôi đã chịu một mình.. Không một ai dơ tay ra đỡ chúng tôi hoặc lên tiếng.
Thế giới bên ngoài tạm thời bị cô lập không một ai biết điều gì đang xảy ra ở miền Nam trong những năm tháng ấy.
Có lẽ chưa ai nghĩ đến điều này – và đây là lần đầu tiên được đặt ra – Những người trí thức miền Bắc, họ ở đâu, họ nghĩ gì và thái độ họ ra sao?
Nói chung có thể họ vui mừng và chấp nhận chiến thắng ấy như một điều vinh dự – trong đó những năm tháng khốn khổ nay có thể được đền bù. Những biện pháp xảy ra sau đó như đánh tư sản mại bản, chiến dịch triệt tiêu văn hóa đồi trụy và nhất là chính sách phân biệt ngụy quân, ngụy quyền và chính sách tập trung cải tạo là một điều tất yếu phải xảy ra thôi.
Người miền Nam nay được coi là ngụy quân ngụy quyền – họ mất cái căn cước là người quốc gia vì chủ nghĩa lý lịch. Nếu có gọi họ là người vô tổ quốc cũng không hẳn là sai.
Cái tâm trạng chung là buồn và bất lực. Và cảm giác mất quê hương.
Dù sau này ông Võ Văn Kiệt có nghĩ rằng sau ngày giải phóng, có triệu người vui thì cũng có triệu người buồn – Câu nói đó cũng không vì thế mà thay đổi được tình thế.  Câu nói đó trên thực tế cũng hoàn toàn sai. Trừ một thiểu số người đã chót theo cộng sản, số còn lại đều buồn.
Tại sao lại buồn, đó là điều mà những người trí thức miền Bắc cần tìm hiểu.
Sau năm 1975, nhiều bất hạnh đã xảy đến cho miền Nam nói sao cho hết.
Chính vì không chịu đựng nổi liên tục ngày này qua tháng nọ – mỗi ngày mỗi hà khắc – mỗi ngày thấy sự bất công phi lý – mỗi ngày thấy tương lai vô định mà họ mang nỗi nhục ấy phải liều mình ra đi.
Hành lý mang theo không phải tiền bạc mà là cái đầu – một ý chí quyết vươn lên làm lại cuộc đời – và một trái tím rướm máu.
2. Sự đối kháng của người dân miền Nam
Trước sự bóc lột tận xương tủy, sự chà đạp lên phẩm giá con người một cách thô bạo nhất, thái độ dân miền Nam là gì? Suy từ thân phận của tôi ra, tôi nghĩ rằng mình như con cá nằm trong chậu, không lối thoát.
Sự đối kháng của người dân miền Nam là hoàn toàn tiêu cực: sự bất lực, sự chán nản, sự ê chề, sự nhục nhã, sự chịu đựng và cuối cùng là trốn chạy, là chọn sự ra đi thay vì ở lại đối đầu.
Trí thức miền Bắc thì chọn lựa thái độ chính trị con Đà Điểu. (La politique d’Autruche), quay mặt làm ngơ để cho chính quyền muốn làm gì thì làm
Việc ra đi là một bước đường cùng, tìm trong cái chết một lẽ sống. Ra đi hay là chết  là quyết tâm không thể sống chung. Đó là sự đối kháng quyết liệt nhất, sự phủ nhận toàn diện sự hiện hữu của chế đố ấy, sự không khoan nhượng.
Cho đến bây giờ, tôi tin chắc một cách xác tín rằng – ngay những thành phần trí thức tiến bộ nhất của miền Bắc cũng như giới lãnh đạo miền Bắc chưa hiểu đầy đủ hết ý nghĩa của việc ra đi này. Phải là người trong cuộc – phải là nạn nhân của chế độ ấy mới hiểu hết được. Ngay cả những người ra đi trước 1975 và những người ra đi ở thời điểm 1979 cũng đã có khoảng cách về nhận thức và kinh nghiệm sống  rồi.
Xem lại những đoạn phim về hình ảnh người vượt biển với bao gian nan mới thấy hết được sự tàn bạo của kẻ tự nhận là chiến thắng.
Xin ghi lại hình ảnh một trong những cảnh đau thương đó. Vụ chìm tầu ở Cát Lái. Bến Phà Cát Lái, gần Thủ Đức đã xảy ra vụ chìm tầu rất là thương tâm.. gồm gần 300 người chết đuối không thoát ra được. Đây chỉ là một vụ trong 9 vụ chìm tầu khác được chính quyền cộng sản thu tiền và cho phép ra đi công khai được gọi là: Đi bán chính thức. Việc ra đi như thế nhằm chủ yếu vào người Tàu gốc Việt. Nhưng sau này thì các cuộc ra đi bán chính thức phần lớn là người Việt Nam, mang giấy tờ giả là người Việt gốc Hoa.
Sau vụ chìm tầu, phải mấy ngày sau mới trục được tầu lên và các xác chết đã phình thối. Được biết có nhiều xác chết mẹ con còn ôm dính lấy nhau không gỡ ra được. Người ta đành để như thế chôn cả hai mẹ con trong một quan tài..Tôi cũng có người bạn đồng nghiệp bị chết ở Vũng Tầu, khi xác chết trôi vào bờ thì cả người bị cá rỉa không còn nhìn ra hình dạng người nữa.
Được tin này, chúng tôi cũng là người sắp trốn đi theo diện Phương Án II thấy rụng rời. Tin đồn tầu chìm này lan rộng ra khắp Sài Gòn làm nao núng không ít những người cũng sắp ra đi. Và chỉ hơn một tháng sau đó, tôi cũng ra đi như thế. Thật biết là cái chết gần kề mà như thể có động lực gì bí ẩn vẫn thúc đẩy ra đi, coi cái chết sao nhẹ thế!!
Đây là những vụ buôn người không hơn không kém cũng như sau này buôn gái sang Đài Loan, Đại Hàn.
Không có việc gì mà người cộng sản không làm.
Tất cả những chính sách bất nhân, vô nhân đạo ấy đều được kẻ chiến thắng – ngay cả đối với thành phần trí thức tiến bộ nhất của chính quyền cộng sản – coi như những biện pháp chính đáng phải thi hành. (Mesures légitimes).
Thật ra nó chỉ là Cái chính đáng của kẻ chiến thắng [3]. Họ nói không biết ngượng.
Người trí thức cộng sản đề cập đến vấn đề nhận thức luận kiểu này họ gọi đó là thái độ  là duy ý chí. Biết như thế mà họ vẫn nhắm mắt tin tưởng, nhắm mắt rêu rao một cách phi lý. Về điểm này, lại một lần nữa, F.A. Hayek coi đó là một thái độ khinh miệt trí thức con người. của một lớp người “chuyên nghề buôn bán qua lại các ý tưởng”.[4]
Trong khoảng thời gian ít nhất 15 măm, toàn dân miền Nam chịu đựng những trù dập, những biện pháp được coi như trả thù của kẻ chiến thắng mà người ta bắt buộc phải làm như vậy và không thể làm khác được.
Trong suốt những năm ấy, người ta không nhận được bất cứ tín hiệu phản kháng chính thức nào của nạn nhân cũng như của thành phần trí thức tiến bộ!!
Đó là một thời gian dài một bên chịu đựng, một bên áp đặt mà không một ai nhận thức ra được sự bất công tàn bạo trong mối tương quan giữa kẻ chiến thắng và kẻ chiến bại.
Sau 38 năm nhìn lại, người ta dần dần mới nhận thức rõ được đó là sự say mê điên cuồng chiến thắng, tiếp theo là sự bất lực và yếu kém trong quản lý và nhất là sự vô trách nhiệm vô giới hạn (Irresponsabilité illimitée) từ trên cao đến xuống thấp đã đưa đất nước đến bên bờ vực thẳm.
Vì thế, cho đến nay không biết ai là người trực tiếp trách nhiệm về những tội ác đổ trên đầu con dân miền Nam.
Từ 1975-1990, con dân miền Nam bị rơi vào tình trạng tâm sinh lý bất động co dúm lại mà không có một phản ửng nhỏ dù là tự vệ (Immobilisme convulsionnaire).  Mặc cho kẻ chiến thắng bạo hành.
Thế giới bên ngoài không biết đến. Trí thức, nhà văn phía bên kia im lặng đồng lõa!
Đã hẳn ở bình diện cá nhân, người ta cũng còn gặp gỡ được những người cộng sản có một tấm lòng như trường hợp các ông Võ Văn Kiệt, Tạ Bá Tòng, Nguyễn Hộ (quan tâm tới một số trí thức miền Nam đi học tập) hay Tống Văn Công (Người đã lo lắng quan tâm đến hoàn cảnh của họa sĩ Chóe sau khi đi cải tạo về)[5]. Ông cũng là người sau này, xin ra khỏi Đảng)
Và muộn màng hơn nữa có các ông Bùi Tín kết án việc đi học cải tạo và Phạm Xuân Nguyên bênh vực việc cho tái xuất bản sách của Dương Nghiễm Mậu.
Tôi cũng chia sẻ một cách sâu xa con người của ông Bùi Tín khi “giải phóng” xong miền Nam, ông rất hả hê vì đã trả được những món nợ các cháu con bà chị đã hy sinh tại chiến trường Huế, Quảng Trị v.v…
Và ít ra ông là một trong những trí thức hiếm hoi lên tiếng công khai phê phán nhà nước trong các vụ cải tạo, vụ chèn lấn các tôn giáo v.v…[6]
Nói cho cùng, họ chỉ nói lấy được.
Nhắc lại một lần nữa. Họ không biết ngượng. Nói thẳng là có sự khinh miệt giữa kẻ thắng – người thua. Họ khinh miền Nam vì họ thắng. Miền Nam khinh miệt lại vì họ ngu dốt quá.
3. Giải trừ những huyền thoại về đế quốc Mỹ xâm lược và vai trò Giải Phóng miền Nam cũng như những ngữ từ có ý miệt thị.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam giữa đôi bên – ngoài võ khí giết người – ngoài việc  ám sát thủ tiêu các viên chức xã ấp – ngoài việc giật mìn phá hoại cầu cống đường xe lửa, đường bộ – còn một trận chiến các danh từ.
Danh từ đủ loại cỡ lớn, cỡ nhỏ đủ loại như chiến tranh xâm lược, bọn Thực dân mới, bọn lính đánh thuê, bán nước, chống Mỹ cứu nước, Giải phóng miền Nam, Mỹ-Ngụy, Mỹ-Diệm, Mỹ-Thiệu, bọn ngụy quân, ngụy quyền, thứ văn hóa phản động, đồi trụy v.v.. Tất cả được đơn giản hóa, tóm gọn đến cực kỳ như những khẩu lệnh.
Nó tiêu biểu trong một tuyển tập truyện ngắn của Bảo Ninh, Hà Nội lúc không giờ:
Năm 2000:
‘Chỉ một minh Tú, một tay mọt sách, nguyên sinh viên trường Tổng Hợp là không ngại rúc vào đó, ngụp lặn lục tìm trong bụi, tha về phòng một bao tải nặng chịch những cuốn tiểu thuyết chưa bị mối xông. Nhưng bởi tất cả đều rặt một nòi thối tha mục nát văn chương chống Cộng, chữ nghĩa tối tăm, mờ ám, nội dung láo toét, ít ai kiên nhẫn đọc nổi quá nửa trang, chất giấy lại không hợp để vấn thuốc và khổi thì quá nhỏ để gói bọc một thứ gì, thành thử đống sách của Tú chẳng mấy ai buồn ngó, dù rằng nó cứ vơi đi. Người ta thấy các mẩu vụn của những Chu Tử, những Xuân Vũ, những gì đó nữa quanh chỗ đựng điếu cầy và trong nhà bếp, trong nhà cầu’.
Cái nhìn về miền Nam một cách xàm tấu như vậy riết nhiều người coi như sự thật, thành chân lý, thành đúng quá không cần bàn cãi nữa.
Họ tuyên truyền là số một, không ai hơn họ.
Họ hô hào: Nhà nhà, người người – ba đảm đang – phải hy sinh tất cả để vào giải phóng đồng bào ta trong Nam đang bị cùm kẹp bởi Mỹ -Ngụy. Cái khẩu hiệu trên nó giống và tương tự như sự nhận xét của  F.A Hayek. Ông gọi là sự ngu dốt riêng đã tạo sự khôn ngoan chung[7].
Nay nó đã biến thành một thứ kiến thức vô thức tập thể – Người người nói – Nói mỗi ngày – nói mọi nơi – trong đám đông, trong học tập. Và không ai bảo ai, nó được kích động bằng những tràng pháo tay.
Và chẳng may có ai nói khác đi – Đích thị kẻ đó là phản động. Đó cũng là câu chuyện được kể trước đây trong sách Quốc Văn Giáo khoa thư lớp Đồng Âu kể rằng: Có một người đi đường bị một con chó cắn và sủa mãi. Ông tức điên lên và nghĩ ra được cái kế, ông hô to: Chó dại, chó dại. Dân làng tưởng thật đã đổ xô ra và cầm gậy gộc đập chết con chó.
Chúng ta nên tội nghiệp con chó hay nên tội nghiệp những người đã ngu dại nghe lời xúi bậy đập chết con chó?
Cho nên cũng chẳng lấy gì làm lạ khi thấy giới trí thức miền Bắc im lặng, đồng lõa trước những biện pháp của chính quyền cộng sản ở miền Nam sau 1975 và những biện pháp ấy được coi là chính đáng vì họ quá bị tuyên truyền, bị nhồi sọ, bị bịt mắt.
Sự tuyên truyền ấy ngày này qua tháng nọ biến họ có những suy nghĩ có điều kiện như một thứ phản xạ máy móc cực đơn giản và cực độ về lẽ phải trái. Ta phải, địch sai. Ta yêu nước, địch bán nước. Nói theo triết lý trong Kim Dung thì có kẻ chính, kẻ tà.
Người cộng sản là bàng môn chính phái còn miền Nam là bàng môn tả đạo.
Điều ấy được cũng chứng tỏ trong một bài viết của Lý Chánh Trung, ông cho rằng: Ông là một trí thức miền Nam mà sau 18 tháng học chủ thuyết Mác Xít-Lênin, mặc dầu ông đã theo học nghiêm túc, viết lách cũng không tệ lắm, tư tưởng cũng không tồi lắm, nhưng mấy lần thi chỉ đạt điểm trung bình. Chỉ có lần chót, chắc nhờ sự can thiệp của một cán bộ nào đó, tôi mới được điểm trung bình khá. Trong khi các cô sinh viên – học trò ông – cười nói: Thầy viết như thế này thì làm sao đạt điểm cao được như tụi em được, vì thầy viết theo ý thầy, còn em viết “y chang” như sách, sách viết như thế nào thì trả bài “y chang” như vậy  [8].
18 tháng theo học triết lý Mác Xít-Lênin, Lý Chánh Trung vẫn chưa thuộc bài. Phải biết nói như con vẹt.
Vấn đề của chúng ta ngày hôm nay – nhất là trí thức miền Bắc – là chúng ta cần biết tẩy não, giải trừ tất cả những  điều do tuyên truyền bịa đặt, do nói dối trá, do che dấu quá lâu..Và sự thật sẽ giải phóng chúng ta. Nhiều người trí thức có thể không đồng ý với tôi, nhưng đó vẫn là sự thật!!
Chẳng lẽ quý vị cứ tiếp tục ăn bánh vẽ mãi sao!!
_______________
[1] F.A, Hayek, The road toSerfdom Đường về nô lệ, Phạm Nguyên Tường dịch, nxb Tri thức, trang 407
[2] Vân Hải, Chuyện người cùng làng, trang 15
[3] Về điểm này, sau 4 năm sống dưới chế độ ấy, tôi nhận ra lối lý luận của người cộng sản là lối lý luận thiếu tri thức luận. Tức là thiếu phê bình-. nói huỵch tẹt là lý sự cùn. Họ nói thế nào cũng được..Trong những buổi học tập chính trị kéo dài trên cả năm trời-. Họ, những cán bộ miền Bắc, ra rả chửi chế độ tư bản bóc lột, bần cùng hóa người lao động, biến họ thành tay saivv. Họ đưa trường hợp công nhân Đại Hàn chỉ hưởng có 400 đô la- một tháng. Như vậy là bóc lột công nhân. Họ thừa biết là công nhân viên nhà nước lúc bấy giờ lương bổng được 30 đô la một tháng đã là niềm mơ ước rồ.
[4]  F.A. Hayek, Đường về Nô Lệ, Pham Nguyên Tường, trang 406
[5] Chóe, Nguyễn Hải Chí, Tử tội, Tủ sách Tiếng Quê Huong xuất bản. Ai chưa có dịp đọc, xin mời đọc. Chóe  được ông Tống Văn Công giúp cho làm Báo Lao Động mới với nhiệm vụ trình bày tờ báo. Họa sĩ Chóe qua đời ngày 12-3-2003, sau 3 tháng sang Mỹ chữa bệnh.
[6] Xem Thành Tín, Mặt Thật, Hồi ký chính trị, các trang 215-218.
[7]  F.A. Hayek, Đường về nô lệ, Phạm Nguyên Tường dịch, nxb Tri Thức, trang 413
[8] Lý Chánh Trung, Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 13-11-1988