Thời cụ Diệm và ông Nhu bị sát hại, tôi còn nhỏ, chỉ là một sinh viên... Lịch sử trôi qua trên quê hương bất hạnh trong từng trang sử cũ. Lớn lên vào đại học, vào quân ngũ, sau 75 vào tù, ra tù vượt biên thoát khỏi Việt Nam..., sống lưu vong hơn 30 năm ở nước ngoài, tôi có điều kiện đọc, tìm hiểu qua sách báo, qua các hệ thống tin học... Nay thì tôi nhận ra rằng...: Chính Hoa Kỳ và các tướng lãnh trong cuộc đảo chánh 1963 sát hại tàn nhẫn cố TT Diệm... đã chịu phần nào trách nhiệm quan trọng cùng với Hồ chí Minh và đảng CSVN đẩy dân tộc Việt Nam đến đường cùng như ngày nay!
Chính phủ Mỹ thời đó có thể thành đạt được ý đồ trong ván cờ chiến lược đánh vỡ Liên bang Sô Viết trong kế sách hạ TT Diệm để đưa quân vào miến Nam, và lại không chủ trương đánh bại Bắc quân, bắt tay với Trung cộng... Nhưng hậu quả là đổ lên đầu dân tộc Việt Nam những trùng trùng oan nghiệt...! Vô cùng cay đắng, vô cùng đớn đau...
Cám ơn bài viết của Giáo sư Tôn Thất Thiện...
Hải Triều
Quốc hận không tàn phai...
Cộng sản nghĩ sao về Tổng Thống Ngô Đình Diệm
GS. Tôn Thất Thiện
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Trong những năm qua, tôi đã có nói cho anh em biết một số nhận định của các lãnh tụ cộng sản khi được tin về vụ Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị đảo chánh và sát hại.
Các lãnh tụ Việt Cộng Miền Nam, như Nguyễn Hữu Thọ, hoặc Miền Bắc, như Võ Nguyên Giáp, và cả ông Hồ Chí Minh, đều có nhận định về biến cố này.
Hôm nay, tôi nhắc lại những nhận xét đó, và thêm vào đó, tôi xin kể thêm vài chuyện mà chính tai tôi đã được nghe, đặc biệt là nhận định của ông Hồ Chí Minh, từ miệng một người đã được nghe chính ông Hồ nói.
Có biết những chuyện này mới có tài liệu để trả lời cho những người lập luận rằng “giết Ông Diệm là một điều cần để trừ hậu vận”.
Nhưng nay thì rõ ràng rằng đó là lỗi lầm tầy trời của một số nhân vật, quân sự và dân sự, đối với dân tộc Việt Nam, không những đối với hơn hai triệu người đã phải bỏ quê hương đi tìm nơi an thân, màngay cả mấy chục triệu người Miền Nam đang phải sống trong ô nhục, đàn áp, đói rách, mà chế độ cộng sản đã áp đặt lên họ.
Tôi kể lại sau đây những tường thuật của báo chí và học giả, mà tôi đã có dịp nhắc đến trong bài điểm sách “The Year of the Hare” của Giáo Sư Francis Xavier Winters năm 1999 cho tạp chí Ấn Độ “World Affairs”: “ Một quan điểm mới về vụ đảo chánh tháng 11, 1963: Ngô Đình Diệm không phải là kẻ tác quái mà là một nạn nhân của thực dân” (Bài này đã được dịch ra tiếng Việt, in ra và phát cho người dự Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống năm 1999). Tôi xin trích lại mấy đoạn sau đây:
“Khi đuợc tin TT Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Hồ Chí Minh nói với ký giả cộng sản danh tiếng, Wilfrid Burchett: “Tôi không thể ngờ rằng tụi Mỹ ngu đến thế “.
“Khi tướng Võ Nguyên Giáp và những đồng chí còn sống sót của ông gặp Ông McNamara ở Hà Nội tháng 11 năm 1995, họ nói rằng: “Chính sách Kennedy ở Việt Nam sai lầm hết chỗ nói. Ngô Đình Diệm là một người có tinh thần quốc gia, không khi nào ông chịu để cho người Mỹ dành quyền điều khiển chiến tranh, và sự người Mỹ dành quyền đã đưa người Mỹ đến thất bại đắt giá.
Cho nên, kết quả của cuộc đảo chánh lật đổ ông Diệm năm 1963 là sự kết thúc sớm [sự hiện diện] Hoa Kỳ ở Việt Nam, một điều đáng làm cho người ta ngạc nhiên”
“Và đài phát thanh Hà Nội nói:
“Do sự lật đổ Ngô Đình Diệm và em ông là Ngô Đình Nhu, tụi đế quốc Mỹ đã tự mình hủy diệt những cơ sở chính trị mà họ đã mất biết bao nhiêu năm để xây dựng”
“Về phía các lãnh tụ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thì họ không ngờ là họ lại may mắn như thế. Nguyễn Hữu Thọ nói với báo Nhân Dân:
“Sự lật đổ Diệm là một món quà mà Trời ban cho chúng tôi.”
Và Phó Chủ Tịch Trần Nam Trung nói:
“Tụi Mỹ quyết định đổi ngựa giữa dòng. Chúng sẽ không khi nào tìm được một người hữu hiệu hơn Diệm.”
Trên đây là chuyện báo chí và học giả ngoại quốc kể lại. Bây giờ tôi xin kể ba chuyện mà chính tôi đã được tai nghe mắt thấy từ những người trong cuộc. Những chuyện này vừa có một giá trị nhânchứng, vừa có một giá trị lớn về lịch sử, và đối với chúng ta, những người kính mến Tổng Thống, nó làm cho ta hãnh diện là “Diemiste” (Năm 1955, ở quảng trường Trocadéro, Paris, một người Phápmắng tôi là “espèce de Diemiste”, khi vượt xe tôi, vì ông ta cho rằng tôi đã cản đường xe ông, và tôi rất lấy làm hãnh diện bị mắng như vậy...)
1/ Trong những năm trước 1963, trong số kỷ giả Mỹ ở Sài Gòn có ông Keyes Beech, đặc phái viên của báo Chicago Tribune, một nhà báo rất được kính nể. Năm 1963 ông này không vào huà với đám ký giả chống Tổng Thống. Sau 1963, ông vẫn được ở lại Saì Gòn, và ông vẫn thân thiện với tôi. Ông thỉnh thoảng mời tôi đến nhà ông
ấy ở gần Bô. Ngoại Giao ăn cơm. Một hôm, trong những chuyện ông kể tôi nghe có chuyện sau đây.
Ông nói: “You know, on the afternoon of the day President Diem was overthrown, I was in a bar in Pnom-Penh. Sitting next to me was Wilfrid Burchett. We were not friends. But on hearing the news about President Diem’s death, he turned to me and said:
“It's unbelievable! They have killed the only man with the ideas and the organisation that can stop us”. (“Thật là không thể tin được: chúng nó đã giết chết người duy nhất có tư tưởng và tổ chức có thể chận chúng tôi”). Burchett không nói rõ “chúng
nó và “chúng tôi” là ai, nhưng ta cũng có thể thấy rõ là “chúng nó” là phe chống cộng , và “chúng tôi” là phe cộng sản.
2/ Lúc trẻ, trước năm 1945, ở Huế, tôi quen bà Hồ Thị Mộng Chi. Bà này là con Cụ Thượng Thơ Hồ Đắc Khải, cháu gọi Bác sĩ Tôn Thất Tùng là cậu, và vợ Bác sĩ Đặng Văn Hồ. Bác sĩ Tùng là bà con vàhàng xóm, ở cách nhà tôi hai nhà, và Bà Chi ở sít nhà Bác sĩ Tùng. Bà lại là bạn thân của Ông Tạ Quang Bửu, thầy tôi. Nên chúng tôi qua lại thường, và tôi coi bà ấy như là chị, và bà ấy cũng đối xử với tôi như em mình.
Sau 1945, bà Chi đem con đi Pháp, ở Paris cho chúng đi học. Lúc đó tôi du học ở London. Muà hè nào cũng có về Paris chơi và ở nhà bà ấy, có khi ở cả tháng. Nhưng sau 1954, bà tỏ ra thân với phíaBắc Việt, có lẽ vì Bác sĩ Tùng và ông Bửu ở phiá đó, cũng có thể vì Bác sĩ Hồ, lúc đó là Thiếu tá Quân Y trong quân đội Việt Nam, mà lại thêm có vợ bé. Tôi thì cộng tác với Tổng Thống Diệm. Vì vậy mà tôi không đi lại với gia đình Bà Chi nữa.
Sau 1960 , và nhất là sau 1968, thì “chiến tuyến” lại càng rõ ràng hơn nữa, vì Bà Chi làm bí thơ cho Bà Nguyễn Thị Bình. Hai người con bà ấy cũng “anti-Saigon” rất hăng, và khi “phe ta” thắng trận năm 1975 thì mẹ con đều dắt nhau về Việt Nam thăm
viếng ngay.
Qua bạn bè, đặc biệt là anh Bửu Kỉnh (nay đã mất), một người bạn thân của gia đình bà Chi, mà cũng thân tôi, tôi được biết như trên, nên sau 1975, tôi vẫn giữ thái độ “kính nhi viễn chi”. Nhưng một hôm, vào khoảng năm 1978, nhân dịp ghé Paris, gặp anh Bửu Kỉnh, anh ấy bảo: “ Sao toa không đến thăm Chị Chi”. Tôi trả lời: “Sức mấy! Chắc chi Chị ấy tiếp tui mà đến!”
Anh Kỉnh lại nói: “Đến đi! Chị hỏi thăm toa đó!” Tôi ngạc nhiên.
Anh Kỉnh lại nói thêm: “Nay, thay đổi rồi!”. Tôi nghĩ: “À, như rứa!”. Và một hai hôm sau, tôi điện thoại đến bà Chi. Bà trả lời rất vui vẽ, xem như chẳng có gì xảy ra giữa chị ấy và tôi từ 1954 cả, và bảo tôi đến chơi. Chị lại nói thêm là Chị sẽ làm “purée de
pomme de terre” cho tôi ăn. Xin nói đó là món ăn mà trước 1954 bà ấy thường cho tôi ăn. Bà làm rất ngon, và tôi rất thích.
Trong buổi tái ngộ, nói chuyện lông bông luôn mấy giờ đồng hồ.
Tôi ngồi nghe nhiều hơn là nói, và nghe ba mẹ con đua nhau đả kích Việt Cộng kịch liệt! Tôi sửng sốt.Tôi không dám hỏi tại sao, nhưng chỉ đoán, nhờ bà Chi nói “tụi nó tệ lắm”, và nhờ anh Bửu Kỉnh cho biết trước đó là trong chuyến về Việt Nam bà không được Việt Cọng tiếp đón niềm nở, vì nó thắng rồi nên không cần đến bà
nữa. Bà thì lại tưởng rằng vì bà là người có công, nhất là đã giúp cộng sản trong việc tuyên truyền (con đại thần Triều Nguyễn mà lại đứng về phe cách mạng, bí thơ Bà Nguyễn Thi. Bình, ở ngay Paris, trong một cuộc đàm phán hệ trọng).
Người con thì có thổ lộ là: “tụi nó dốt quá (nó nói rằng Mã Lai không phải là quốc gia độc lập, còn Lê Đức Thọ, được anh ta dẫn đi coi thành tựu kinh tế kỹ nghệ Pháp lúc viếng thăm Paris thì cho rằng “chẳng có gì đáng để ý”)!! Nhưng điều đáng ghi nhất là giây phút chót của cuộc tái ngộ. Lúc đó cũng gần 12 giờ khuya.
Bà Chi đưa tôi ra cửa, và cùng tôi đi mấy bước ra giữa phố , lúc đó vắng. Tôi không hề đề cập gì đến ông Diệm trong cuộc gặp gỡ, nhưng trước khi chia tay bà ta nói: “Nghĩ kỹ lại, chỉ có Ông Diệm là hơn hết!”.
3/ Chuyện thứ ba là một chuyện về kiên nhẫn, hay có thể nói là lì lợm. Từ năm 1963 tôi hằng nghĩ rằng ông Hồ Chí Minh phải có chia sẻ với những người trong Đảng một nhận định gì về cuộc đảochánh. Nhưng sưu tầm tài liệu, hết năm này qua năm khác, không thấy có một nhận định nào của ông Hồ. Tất nhiên, điều đáng làm nhất là hỏi những người gần gũi ông Hồ. Nhưng họ là người “phía bênkia”, và họ lại ở Hà Nội. Làm được việc này hầu như là vô hy vọng. Nhưng, may thay, tôi đã làm được.
Trong thời gian gần đây tôi may mắn gặp một người từ Hà Nội, mà tôi quen khá thân trước năm 1954. Và cũng rất may, người này là một người hiếm có đã được chính tai mình nghe Ông Hồ nhận định vềvụ đảo chánh 1963.
Người này tuyệt đối cấm tôi tiết lộ tên trong khi y còn sống, vì đây là một “bí mật thâm cung”, nên tôi chỉ gọi y là “Cán bộ X”.
Cán bộ X đã kể cho tôi nghe câu chuyện như sau: Y “là một người có mặt tại Phủ Chủ Tịch ở Hà Nội ngày xảy ra đảo chánh ở Sài Gòn. Y thuộc một nhóm được ông Hồ cho gặp chiều ngày 2/11/1963.
Khi vào Phủ Chủ Tịch thì ông Hồ đang bận tiếp một phái đoàn gì đó. Y phải đợi ngoài hành lang. Đang đợi thì thấy có người mang một bao thơ vào cho Ông Hồ. Nhìn vào, thấy Ông mở thơ ra đọc,xong, không nói gì, bỏ thơ vào túi, rồi tiếp tục tiếp khách. Một lúc sau, khách đi rồi, Ông cho gọi nhóm của Cán bộ X vào”, và nói:
“Lúc nãy người ta báo cho Bác biết là Ông Diệm vừa bị lật đổ. Ông Diệm là kẻ địch thủ ghê gớm nhứt của Bác. Nay Ông đã bị loại rồi, thì chiến thắng chắc chắn sẽ về ta rồi.”
Lịch sử Miền Nam Việt Nam từ 1963 đến 1975 có thể thâu gọn trong câu nói đó, và những người tự nhận là thuộc về Đệ Nhứt Việt Nam Cộng Hoà nên nhắc nhủ những cá nhân, hay đoàn thể, đã nhúng tay vào việc lật đổ và hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nên suy niệm về những câu nói đó và trách nhiệm của mình về những gì đã xảy ra từ 1963 đến hôm nay.
Tôn Thất Thiện