Hình tháng 5 năm 1990: Cha Vũ Khởi Phụng và các cha
DCCT tại tòa Tổng Giám Mục Hà Nội tháng 5 năm 1990. Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn
đang ban phép lành cho các cha DCCTvà các cộng tác viên DCCT sau buổi gặp mặt.
Một con người vượt trên bi kịch bản thân và gia đình
Hè
năm 1987 tôi được cha già Giuse Vũ Ngọc Bích đón vào tu viện Thái Hà dưới danh
nghĩa là cháu đến giúp ông lúc tuổi già[1]. Từ
đấy tôi bắt đầu biết cha Mát thêu Vũ Khởi
Phụng, vì cha già Bích hay nhờ tôi
viết thư cho “chú Phụng”[2] và
vì ông bà cố của ngài lại sống ở Hà Nội, số 36 Trần Hưng Đạo, nên hai bên hay
qua lại thăm hỏi. Có chuyện gì vui buồn thường chia sẻ.
Mấy
năm sau khi cha Phong và tôi được gửi vào Tu viện Kỳ Đồng, thì chính cha
Máttthêu Vũ Khởi Phụng là người đón tiếp chúng tôi; từ đó trở đi tôi liên tục sống
gần ngài, dưới sự hướng dẫn của ngài, từ Hà Nội đến Sài Gòn. Nhờ vậy tôi mới hiểu
hơn về ngài và gia đình ngài mà tôi coi như là một trong những nạn nhân điển
hình của người dân nước Việt mình trong chế độ cộng sản.
Cả hai ông bà cố của ngài đều thuộc dòng dõi gia đình quyền quý. Ông quê làng Trung Lao, Nam Định, đạo gốc, tốt nghiệp tú tài bên Pháp và trường Luật Đông Dương. Bà người Huế, gia đình ngoài Kitô giáo, thuộc khuynh hướng tân thời, thích nấu ăn và có năng khiếu nghệ thuật. Bà học đạo với các cha DCCT Huế và được rửa tội ở Sài Gòn. Cưới nhau xong, hai ông bà về sống ở Thanh Hóa, vì khi ấy ông làm Tri phủ Tĩnh Gia. Vì vậy cha Mátthêu Vũ Khởi Phụng được sinh ra ở Thanh Hóa.
Ông
cố là vị quan thanh liêm, có tài quản trị, được dân yêu mến và kính trọng, có
tinh thần dân tộc, vì vậy năm 1945, chính phủ liên hiệp Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa mời ông tiếp tục làm công chức ở Thanh Hóa. Tuy nhiên, đến năm 1946, phe cộng
sản trong chính quyền tiến hành thanh trừng những người quốc gia, trong bối cảnh
đó, ông cố bị cộng sản bắt đi tù; họ đưa ông từ Thanh Hòa vào giam ở vùng Đức
Thọ, Hà Tĩnh.
Được
nhắn tin là ông cố bị đày đọa và sinh bệnh nặng, bà cố mau vào còn kịp nhìn mặt
và liệu cách đưa xác về nếu ông qua đời. Thế là bà cố vội vàng phải gửi ngài và
các em ngài về quê Trung Lao, để đi tìm
chăm sóc ông. Thấy tình hình ông nguy kịch và điều kiện trong tù khó có thể bảo
đảm mạng sống, bà quyết định đeo bám theo
những vùng nơi ông cố bị cộng sản giam cầm, làm việc, tìm cách cứu giúp ông cố,
thỉnh thoảng mới về thăm ngài và các em ngài.
Ở
Trung Lao, cha Mátthêu Vũ Khởi Phụng học
tiểu học tại trường của giáo xứ, rồi nhập
tiểu chủng viện Trung Linh. Tiếp theo qua các sinh hoạt trong Liên Đoàn Công
Giáo, bà cố quen biết Đức ông Trần Ngọc Thụ, bấy giờ là Thư ký riêng của Đức
cha Lê Hữu Từ và từ mối quen biết này, cha Mátthêu được gửi vào học ở trường Trần
Lục, Phát Diệm, nơi có môi trường học tập hiện đại và an ninh ở Miền Bắc thời bấy
giờ. Năm 1952, bà cố từ Miền Trung ra Bắc
đưa ngài và các em ngài ra Hà Nội, em ngài được gửi cho người thân, còn
ngài thi được gửi vào Đệ tử viện DCCT như mong muốn từ ban đầu của bà cố từ khi
đang mang thai ngài.
Năm
1954 cộng sản lên nắm quyền ở miền Bắc, bà
cố cho ngài theo các cha DCCT di cư vào Nam. Các em ngài cũng di cư theo người thân theo các em của ông cố. Còn bản
thân bà cố ở lại Miền Bắc theo ông đang
đi tù cộng sản. Vốn là người đảm đang, tháo vát bà làm được được những việc lạ
lùng, nhờ vậy ông mới sống sót và cuối cùng mãi đến năm 1973 ông mới
được trả tự do khi hiệp định Paris được ký kết.
Đến
năm 1975 cộng sản chiếm Miền Nam, đất nước thống nhất, nhưng như tống thống Thiệu
nói “đó là nền hòa bình của nấm mồ”. Gia đình ông bà cố vẫn lầm cảnh phân ly. Cô
con gái Triều Nghi di tản cùng gia đình qua Hoa Kỳ; con trai thứ, Chú Giao, cựu
sĩ quan cộng hòa, vào trại tập trung, rồi khi mãn hạn lại đi HO. Ở lại Việt Nam
còn mình Bố Phụng ở Sài Gòn trong khi
ông bà cố ở Hà Nội. Từ năm 1990 các cuộc
thăm viếng Bắc-Nam mới thường xuyên hơn và mãi cho đến năm 2008 khi Cha Phụng
ra Hà Nội làm bề trên tu viện Thái Hà thì ông bà cố và ngài mới được đoàn tụ ít
năm trước khi hai ông bà lần lượt qua đời.
Gia
đình lâm vào bi kịch như vậy, nên việc giữ được ơn gọi, quả là khó khăn. Tại Miền
Nam, cuộc sống của các em ngài trong hơn 1 thập niên đầu cũng chật vật. Ngài cảm
thấy phải có trách nhiệm với các em trong tư cách là anh cả. Từ đó ngài có ý định tạm dừng việc tu của bản
thân một thời gian để làm gì đó giúp các em. Suy nghĩ ấy còn bị tác động bởi cuộc
chiến Việt Nam và trào lưu xét lại ơn gọi thời hậu công đồng của nhiều tu sĩ.
Tuy nhiên, nhờ sự cố gắng của ngài và của các em ngài, nên cuối cùng Chúa cũng
giúp ngài cũng vượt qua. Năm 1970 ngài được thụ phong linh mục. Bà cố của ngài ở
Hà Nội cũng biết tin qua ngả Sài Gòn-Canada-Pháp-Hà Nội. Bà cố mừng lắm. Bà kể
rằng ngày chịu chức của ngài, bà cố làm con gà mang sang ăn mừng với Đức cha
Khuê và các cha trong Tòa Tổng Giám Mục và xin các ngài dâng lễ tạ ơn. Thế mà
vì việc này, sau đó bà cố đã bị công an thẩm vấn và sách nhiễu.
Một linh mục thông minh và uyên bác
Cha
Mátthêu Vũ Khởi Phụng là người có tư chất thông minh. Hơn nữa, ngài còn rất chịu khó học tập nên kiến thức của ngài rất
uyên bác.
Hình
ảnh người ta có về ngài là con người khi đi, đứng, khi ăn, khi ngồi dường như
lúc nào cũng kè kè bên cạnh là quyển sách hay tờ báo làm bạn, dường như không
còn để tâm đến sự gì khác chung quanh. Nhờ thế, ngài có một vốn văn hóa rất sâu
rộng về các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt trong lãnh vực thần học, lịch sử và
văn chương Kitô giáo.
Ngài
nghiên cứu rất sâu rộng về lịch sử và văn chương Latin. Ngài là một trong số ít
người ngay từ hồi trước 1975 ngài đã tìm đọc bộ giáo phụ latin hơn 200 cuốn của
cha Jean Paul Migne, có ở Trung tâm Công giáo bên đường Trần Quốc Toản, Sài
Gòn.
Từ
những năm 1970, ngài là một trong những linh mục giảng thuyết được yêu mến ở
nhà thờ Kỳ Đồng, cùng thời gian ấy, ngài thường xuyên được mời đi giảng tĩnh
tâm cho các giáo xứ, các dòng tu và các giáo phận.
Ngài
cũng làm giáo sư của các lớp thần học bí mật đây đó tại Sài Gòn, đồng thời làm
giáo sư Học viện DCCT và sau này còn dạy tại Học viện Liên Dòng. Ngài dạy thần
học nhập môn, Giáo phụ học và cả Lịch sử Giáo hội. Ngài bàn giải các tác giả,
các vấn đề rất kỹ lưỡng, rất sâu rộng, rất hệ thống, luôn luôn mới mẻ; nội dung
có mật độ suy tư thần học rất cao, rất độc đáo và hấp dẫn. Tôi thấy ngài đáng
được gọi là nhà thần học.
Một
trong những ơn Chúa ban cho ngài là ơn nói các thứ tiếng. Ngài có thể diễn đạt tư
tưởng cách dễ dàng và chuẩn xác bằng tiếng
Anh, tiếng Pháp và tiếng Latin. Nói cũng như viết. Đặc biệt là dịch thuật. Trong
Dòng, ngài thường được mời làm người thông dịch chính thức mỗi khi các đấng bề
trên hay anh em ngoại quốc tới Việt Nam. Hồi cách đây mấy năm, Phái đoàn Đức Tổng
Giám Mục Đại Diện không thường trú tại Việt Nam đi thăm các giáo phận ở Miền Bắc,
ngài cũng được mời đi theo làm người thông dịch. Liên quan đến việc này, tôi thấy
nếu mình cứ nói tiếng Việt đều đều, không cần dừng, thì ngài vừa nghe, vừa có
thể dịch trực tiếp ra tiếng Anh, tiếng Pháp, hoặc dịch ngược lại từ tiếng Anh
hoặc tiếng Pháp ra tiếng Việt. Dù dịch xuôi hay dịch ngược thì ngài cũng đều diễn
tả được cái hồn của nguyên ngữ, khiến người ta có cảm tưởng như đang nghe trình
bày bằng trực tiếp bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Từ ta đến tây tôi thấy hiếm
người có được khả năng thông dịch kỳ tài như ngài.
Một con người hiếu hòa và được việc
Ngài là típ người trí thức nhưng lại
rất hiếu hòa. Gần 30 năm sống với ngài trong Dòng, tôi chưa bao giờ thấy ngài
nổi nóng và nặng lời với ai. Ngài luôn tôn trọng mọi người, lắng nghe và tỏ
lòng cảm thông với mọi người. Nếu có ai lớn tiếng, ngài thường tránh đi hoặc im
lặng lắng nghe, rồi nhỏ nhẹ hỏi thăm hoặc tham gia ý kiến và ý kiến của ngài rất
quân bình, rất có tính cách xây dựng. Ngài có thể dung hòa khác khác biệt bằng
một giải pháp tốt đẹp đến mức bất ngờ, hợp lý hợp tình mà hầu như ai cũng lấy
làm hài lòng. Vì vậy, ngài được mọi người chung quanh yêu mến, kính trọng và tin tưởng. Bởi vậy, từ
năm 1975 đến năm 2015, ngài luôn được anh em trong Dòng bầu cử và bổ nhiệm vào những
chức vụ quan trọng.
Căn cứ vào những lần phê chuẩn của các
vị bề trên tổng quyền, tôi đếm được 4 lần, tức trong 24 năm ngài được bầu cử
làm thành viên của Tổng Công nghị; 11
nhiệm kỳ tức 33 năm được bầu làm cố vấn, thành viên hội đồng quản trị Tỉnh Dòng;
4 nhiệm kỳ, tức 12 năm được bầu làm Phó Giám Tỉnh; 2 nhiệm kỳ tức 6 năm được bổ
nhiệm làm Bề trên tu viện DCCT và Chánh xứ giáo xứ Đức Mẹ HCG, Sài Gòn; 2 nhiệm
kỳ, trong 7 năm làm Bề trên Tu viện DCCT Thái Hà, trong đó có 3 năm kiêm Chính
xứ Thái Hà, Hà Nội; hơn 5 nhiệm kỳ tức 16 năm làm Giám học Học viện; 2 nhiệm kỳ làm Phó Tập sư; 2
nhiệm kỳ làm Giám đốc Dự tập; 2 nhiệm kỳ làm Trưởng Ban Truyền thông; 1 nhiệm
kỳ làm Giám đốc Hậu Học viện; 1 nhiệm kỳ làm Trưởng Ban Tông đồ Mục vụ.
Ngày cũng tích cực tham gia phục vụ trong
các công việc chung của TGP hay của Giới Liên Tu sĩ tại Sài Gòn. Từ năm 1975 cho đến năm 2008, ngài liên tục hoặc là thành viên trong Ban Đại diện, hoặc Ban
Nghiên cứu Thần học của Hiệp hội Bề trên Thượng Cấp Việt Nam, hoặc là Chủ tịch
Liên Tu sĩ TGP Sài Gòn, hoặc làm tổ trưởng tổ công tác, phụ trách các sinh hoạt
thường kỳ của giới Liên Tu sĩ. Sách Gương Chúa Giêsu nói người hiếu hòa được
việc hơn người trí thức. Ngài có cả hai, cho nên cuộc đời ngài từ khi làm linh
mục, luôn ngập tràn trong trách nhiệm và bổn phận phục vụ ở các vai trò và vị
trí khác nhau giữa lòng Giáo Hội.
Một linh mục không đam
mê quyền lực
Là người trí thức, sống với những
giá trị cốt yếu của đức tin, của đời tu, ngài không ham mê quyền lực. Những ai
sống ở gần ngài đều thấy ngài là một trong số ít người không muốn quyền lực. Có
lần anh em trong Dòng tính bầu ngài làm
Giám Tỉnh. Tuy nhiên, trước ngày bầu cử ít hôm, thầy Giuse Thuyết, một người cùng
lớp Tập viện với ngài, nhưng là bậc niên trưởng trong Dòng và là người rất có uy tín đối với các anh em, than rằng: “Bét
mẹ cái anh Phụng anh ấy nhờ mình việc khó quá mà không làm thì cũng tội cho anh
ấy. Anh ấy nói với tôi là xin thầy đi nói với anh em đừng bầu con làm Giám
Tỉnh, nếu không thì con bị cầm chân không còn đi giảng dạy đây đó được nữa, trong
khi Nhà Dòng còn có những anh em khác làm bề trên tốt hơn.”
Không làm Giám Tỉnh, nhưng ngài cũng
vẫn phải làm bề trên những tu viện lớn và đông anh em và quan trọng nhất của Tỉnh
Dòng tại Sài Gòn và Hà Nội. Trong tư cách là bề dưới của ngài nhiều năm, không
khi nào tôi cảm thấy ngài có ý thể hiện quyền của ngài trên các cá nhân hay
trên cộng đoàn. Tôi thấy ngài rất tôn
trọng anh em dưới quyền, dù hầu hết đều là học trò của ngài. Ngài làm bề trên
mà khi muốn điều gì thì thực ra là ngài
đi xin anh em hơn là truyền lệnh cho anh em. Ngài cho người ta một cảm nhận
đích thực rằng chức vụ để phục vụ chứ không phải là để cai trị, càng không phải
để thống trị và thỏa mãn tham vọng của mình.
Ngài đối xử với những người cộng tác
rất tế nhị. Nếu có sáng kiến mục vụ nào hay, thì ngài tìm lúc thích hợp để chia
sẻ với các anh em và mời gọi anh em cộng tác. Nếu anh em thực hiện tốt, thì
ngài khen ngợi; nếu không được như ý thì ngài cũng im lặng đón nhận và từng
bước tìm giải pháp khác.
Ở Gài Gòn cũng như ở Hà Nội, khi làm
Bề trên-Chính xứ ngài thường nói: tôi là bề trên nhưng thực ra tôi chẳng làm gì
cả. Tất cả những thành quả tốt đẹp thực ra đều do anh em và quý ông bà anh chị
em giáo dân thực hiện cả.
Ngài đối xử với các cộng tác viên
rất nhân hậu và phải đạo. Lúc ở Hà Nội tôi thấy mỗi khi có thể được ngài thường
đến thăm những gia đình những người phục vụ trong giáo xứ. Nhà Dòng nhờ một xơ Dòng
Mân Côi Trung Linh làm văn phòng. Thấy xơ làm việc tích cực, chu đáo, vượt mức yêu
cầu, làm hài lòng các cha và giáo dân, cho nên
ngài tết ngài đích thân xuống chúc tết Bề trên của Dòng Mân Côi và ngài
nói rằng “cám ơn Nhà Dòng đã cho tôi một cha phó xứ rát đắc lực”.
Một tu sĩ
có tinh thần vâng phục
Dù là người rất có uy tín, nhưng
ngài rất khiêm nhường, luôn tế nhị và mau mắn đón nhận ý muốn của các vị bề
trên. Ngài không tìm ý riêng mình. Không tìm cách để thay đổi ý định của bề
trên. Nếu bề trên có ý muốn việc này thì ngài cố gắng thực hiện. Nếu bề trên có
ý không muốn việc kia, thì ngài mau mắn chấm dứt.
Ngài không muốn làm bề trên Tu viện
Kỳ Đồng, nhưng cha Giám Tỉnh Cao Đình Trị muốn, thì ngài chấp nhận. Khi đang
làm bề trên-chính xứ ở Sài Gòn, ngài đặc biệt quan tâm phục vụ sinh viên, bởi
vậy ngài dành cho sinh viên một phòng hội lớn tại lầu 1 của Nhà Hiệp Nhất B,
với cả một tủ sách riêng. Ngài cũng nối kết sinh hoạt của sinh viên ở các thành
phố lại với nhau. Có khi có đến 500 sinh viên ở Hà Nội-Huế-Nha Trang-Đà Lạt-Sài
Gòn hội nhau gặp nhau ở Kỳ Đồng. Sợ phong trào sinh viên có ảnh hưởng, nhà nước
đã làm áp lực lên Tỉnh Dòng và lên Tòa Giám Mục. Mặc dù ngài chẳng ngại áp lực
của công an, vì lợi ích chung, ngài đã mau chóng tạm ngưng các sinh hoạt kia
của sinh viên.
Cũng trong tinh thần tuân phục ấy,
tôi biết điều này: Mặc dù ông bà cố ngài ở tại Hà Nội, nhưng ngài rất gắn bó
với môi trường mục vụ ở Sài Gòn; ngài không muốn ra Hà Nội. Tuy nhiên, anh em
muốn và Cha Giám Tỉnh cũng muốn, thế là ngài đã vâng lời làm Bề trên-Chính xứ Thái Hà vào những năm
khó khăn nhất.
Một linh mục không đam mê tiền bạc và quảng đại giúp đỡ người nghèo
Ngài cũng không đam mê tiền bạc và
quảng đại giúp đỡ mọi người. Có người
quên mọi thứ nhưng tiền thì không quên. Ngài thì ngược lại, có thể nhớ mọi thứ
nhưng tiền thì không. Tâm ngài không
dính vào tiền. Sự thực là vậy.
Tôi nhớ hồi những năm trước 2008, biết
ngài ra Hà Nội ăn tết với anh em và với ông bà cố, thì cha Giám Tỉnh gửi ngài
tiền mừng tuổi của Tỉnh Dòng cho anh em Hà Nội. Ấy vậy mà ngài cứ quên đi quên
lại, có khi nhớ mang ra tới Hà Nội, nhưng rồi quên đưa và vì thế lại mang vào
Sài Gòn. Cứ thế đến giữa năm tiền mừng tuổi với đến được tôi.
Trước đó, hồi năm 1992, khi ngài bị
tai nạn, ngài nhờ tôi và cha Phong vào dọn phòng. Tôi thấy trong túi quần áo cũ
còn tiền từ đời nảo đời nào. Nhiều quyển sách bên trong còn cặp các phong bao
lì xì chứa tiền Việt Nam Cộng Hòa. Tôi
biết là ngài không để ý tới.
Nếu có tiền và nếu có nhớ tới, thì
ngài chỉ mua vài cuốn sách và thường xuyên hơn là giúp đỡ người nghèo. Tại tu
viện Kỳ Đồng, tôi thấy người nghèo bấm chuông tìm kiếm ngài nhiều nhất. Như thế
ngài có bị lợi dụng và mắc lừa? Ngài nói rằng, thôi thì nếu người ta có thể lợi
dụng được mình một tý thì cứ để cho người ta lợi dụng! Người ta chẳng biết chạy
đến đâu nữa mới chạy đến mình. Mình là minh mục thà rằng mình bị mắc lừa còn
hơn là để người ta thấy mình không có tình thương.
Cũng tinh thần ấy, lúc ngài làm bề
trên ở Hà Nội, có những người nghèo từ xa về Thái Hà hành hương, ngài thường
giúp đỡ họ. Có lần tôi gặp một nhóm rất đáng thương, tôi trình bày với ngài là nên xin cha quản lý của tu viện giúp đỡ, thì
ngài bảo rằng: “Thôi, tớ có tiền, để tớ đi lấy đưa cho cậu giúp họ.”
Một nhà
rao giảng bằng ngòi bút
Là một linh mục dấn thân, chứ không
phải một quan chức văn phòng, cho nên ngài gắn bó với cuộc sống thường ngày của
người dân, của Giáo Hội và Đất Nước.
Ngài quan niệm rằng linh mục thời
nay một tay phải mang sách Phúc âm và tay kia là tờ báo. Có nghĩa rằng Tin mừng
phải gắn liền với cuộc sống hiện tại ở đây và lúc này. Có lần ngày giảng cho
chúng tôi như vậy. Trong ý thức đấy, ngài không chỉ thích đọc báo, mà hơn thế
còn thích làm báo. Bởi thế, từ hơn 50 năm trước, cho đến cách đây khoảng 1 năm,
khi sức khỏe còn cho phép, ngài thường xuyên viết báo bài cho các báo công giáo
trong ngoài nước.
Ngài là người có sức viết dồi dào
hiếm thấy. Ngài viết về những con người khác nhau, về các sự kiện khác nhau và
về các vấn đề khác nhau tùy theo tình hình Giáo Hội và xã hội ở từng thời điểm.
Ngài viết rất hay, rất thời sự, văn chương rất mượt mà, súc tích. Vốn có óc
trào phúng, ngài chỉ ra những khía cạnh thú vị, đọc ra được những ý nghĩa sau
xa của sự việc, hiện tượng mà người khác
vốn thấy là bình thường.
Ngoài ra ngài cũng tham gia trả lời
phỏng vấn của các hãng thông tấn, các đài báo quốc tế. Nhiều bài viết và bài
phỏng vấn còn được còn được các báo tây đăng lại và còn thấy trong danh mục của
các tuyển tập kê khai tư liệu liên quan đến Việt Nam.
Ngài không thờ ơ với con người và ngài
quan niệm rằng báo chí là một phương thế rao giảng Tin mừng. Tòa giảng và hay
tòa báo đều là nơi thi hành sứ vụ. Viết báo là một cách đưa đạo vào đời, một
cách ngài đối thoại với môi trường mình rao giảng. Việc đối thoại ấy diễn ra
liên lỉ ở mọi nơi ngài có mặt trong mọi thời điểm.
Các đấng bề trên trong Dòng cũng
biết ngài có năng lực báo chí và có quan niệm đúng đắn về truyền thông, cho nên
ngay khi ngài vừa thụ phong linh mục,
ngài đã được bổ nhiệm làm Thư ký Tòa soạn và Chủ bút của Báo Đức Mẹ Hằng Cứu
Giúp. Rồi gần 10 năm vừa qua, gắn liền với các sự kiện ở Thái Hà và Kỳ Đồng,
cũng là thời gian ngài được bổ nhiệm làm Trưởng Ban Truyền Thông của Tỉnh Dòng
Chúa Cứu Thế.
Một chiến sĩ tích cực dấn thân mưu tìm công lý, sự thật
và hòa bình
Những gì ngài nói, những gì ngài
viết, những gì ngài làm, gì diễn ra ở DCCT Thái Hà, Hà Nội và DCCT Kỳ Đồng, Sài
Gòn trong những năm qua, là những bằng chứng hùng hồn nói cho chúng ta biết ngài đã dấn thân thế
nào trong lãnh vực công lý, sự thật và hòa bình.
Lúc này tôi chỉ muốn nói thêm rằng:
theo tôi được biết, thì ngài là một trong những người sớm gửi thư kiến nghị Hội đồng Giám mục Việt Nam mạnh dạn
thành lập Ủy Ban Công lý và Hòa
bình.
Ngài là một trong những anh em tích
cực nhất và có vai trò quan trọng nhất của DCCT Việt Nam trong việc dấn thân
cho công lý, sự thật và hòa bình.
Ngài đã sẵn lòng đảm nhiệm vai trò
Bề trên-Chính xứ Thái Hà ở vào một trong những thời điểm mà ngài biết là đang
gặp khó khăn, thử thách, nguy hiếm nhất trong
lịch sử gần 90 năm hiện diện của tu viện
này.
Ngài đã không thỏa hiệp trước những
đề nghị của nhà cầm quyền để mưu tìm lợi ích riêng cho DCCT của mình. Trái lại,
ngài hiệp nhất chặt chẽ với Tổng giáo phận Hà Nội, chấp nhận đồng sinh đồng tử
với giáo dân, giáo sĩ và giáo quyền. Chấp nhận bằng hành động cụ thể chứ không
phải bằng lời nói.
Liên quan đến các nội dung làm chứng
cho công lý và sự thật, tôi thấy yêu cầu của ngài rất cao, trong tổng thể cũng
như trong từng phương diện. Thường thì ý của ngài là 10 phần, thì chúng tôi cố
gắng hết sức cũng chỉ thực hiện được khoảng 5 hay 6 phần.
Ngài chủ trương dấn thân mưu tìm
CÔNG LÝ, SỰ THẬT VÀ HÒA BÌNH, là bởi vì ngài xác tín rằng cái gốc rễ của của
những đổ vỡ và rỗi loạn về mọi phương
diện hiện nay trong xã hội Việt Nam đều phát xuất từ BẤT CÔNG-DỐI TRÁ VÀ BẠO
LỰC do chế độ đang và đang chủ trương thi hành.
Đêm chúa nhật 20 rạng ngày 21 tháng 9 năm 2008, khi nhà cầm
quyền huy động những thành phần bất hảo đến bao vây tu viện Thái Hà, phá phách
Đền thánh Giêrađô và hô hoán đòi giết ngài, ngài vẫn không nao núng, sợ hãi.
Thậm chí hôm sau, trong thánh lễ Mátthêu, lễ bổn mạng ngài, tại nhà thờ, ngài
còn có thể ca hát và có những lời hài hước
khiến cộng đoàn cười nghiêng ngả, đủ biết niềm tin, tình yêu và niềm hy
vọng của ngài lớn lao thế nào.
Hình 2: Cha
Vũ Khởi Phụng dẫn Đức cha Ngô Quang Kiệt và Nguyễn Văn Đệ đi thăm gia đình
trong giáo xứ Thái Hà có người bị bắt trong khi tham gia làm chứng cho công lý
và sự thật năm 2008.
Một nhà thừa sai trong lãnh vực văn hóa và nghệ thuật
Ông bà cố ngài cả hai đều là người
yêu thích nghệ thuật. Có lẽ ngài cũng thừa hưởng ít nhiều tư chất ấy của ông bà
cố. Những năm tôi ở Sài Gòn, nhất là thời điểm 1989-1992, khi ngài chưa bị tại
nạn gãy chân, hầu như tuần nào ngài cũng rủ
tôi đạp xe cùng ngài, lang thang đến các phòng triển lãm tranh ở đường Pasteur
và đường Đồng Khởi, hoặc các bảo tàng, các nhà văn hóa, các danh lam thắng cảnh
ở nội ngoại thành để thưởng thức những giá trị văn hóa nghệ thuật. Đôi khi có
phim hay trình chiếu ở đâu đó thì ngài cũng kêu tôi đi xem cùng, tôi thấy
thường là ở Trung tâm Văn hóa Pháp, vì có
những phim nơi khác cấm ở đấy vẫn có thể chiếu. Nếu ngài bận việc không
đi được thì ngài nói tôi đi xem rồi về thuật lại.
Nhưng nơi mà ngài thường lui tới nhất
là các nhà sách và các điểm bán sách báo ngoại ngữ của du khách Tây phương mang
theo đọc xong rồi bỏ lại, hay bán lại[3].
Ngài đi xem sách cốt yếu để biết. Dù vậy thấy sách nào có giá trị và giá cả trong
mức độ có thể được thì ngài cũng mua. Tôi biết ngài sưu tập được một ít tạp chí
Đô thành Hiếu cổ (Bulletin
des Amis du Vieux Hue) và Nam Phong Tạp chí. Cả hai thứ quý này hy vọng là vẫn còn lại trong
phòng ngài ở Sài Gòn.
Ngài cũng rất quan tâm đến văn
chương kim cổ của thế giới và của Việt
Nam. Ngài thường tìm đọc những tác phẩm văn chương đoạt giải Nobel hoặc đoạt
giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam. Thời sự văn chương Việt Nam hay dở thế nào thì ngài nắm bắt khá kịp thời. Ngài
coi văn chương không những là phương tiện giải trí, mà còn là một cách thức để
ngài tiếp cận thực tại xã hội, gợi ý cho ngài trong việc rao giảng và hơn nữa
còn là một phương tiện hiệu quả để truyền bá Tin mừng.
Ngài rất quan tâm đến mảng văn thơ
công giáo Việt Nam. Ngài cổ vũ những ai có khả năng tham gia sáng tác văn học
công giáo. Những năm rồi ở Hà Nội tôi thấy ngài cũng rất quý trọng nhà văn
Nguyễn Hoàng Đức[4].
Có lần chiều mùng một tế, trong lúc mọi người về quê với gia đình, tu viện cũng
vắng vẻ hơn ngài thường, cha Vũ Khởi Phụng bảo tôi kêu anh Nguyễn Hoàng Đức đến
Nhà Dòng cùng ngài và tôi đi ăn chiều và bàn chuyện văn thơ, triết học.
Năm rồi, sau một cuộc tĩnh tâm
Cursillo, tôi có dịp hàn huyên với cha
Nguyễn Tầm Thường, một văn sĩ công giáo được yêu thích, tôi hỏi con đường nào
dẫn ngài đến nghiệp văn chương, thì ngài cho biết: trước 1975, lúc ngài đang
làm Chủng sinh ở Long Xuyên, thì ngài bắt đầu tập làm thơ, viết văn rồi gửi cho
báo Tuổi Hoa và báo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Khi nhận được, cha Vũ Khởi Phụng đã
viết thư cho ngài, đánh giá rất tốt các bài viết của ngài và đã khuyên ngài tiếp
tục sáng tác. Từ đó ngài tự tin vào ơn gọi văn chương và ngài theo nó đến bây
giờ.
Một cách khuyến khích bằng cách đích
thân tổ chức giới thiệu các tác giả và tác phẩm công giáo. Có khi ít thì 5, 3
người. có khi nhiều cũng được 20-30 người. Tôi nhớ hai lần cuối cùng ngài tổ
chức mà tôi tham dự thì một lần giới thiệu về tác giả và tác phẩm của nhà thơ Đình
Bảng, lần còn lại giới thiệu về nhà thơ nào đó mà nay tôi quên đã quên tên; tôi
chỉ còn nhớ là anh còn đang sống, đang bị
bệnh phong như Hàn Mặc Tử và là người đã viết tiếp vở kịch thơ Quần Tiên Hội
của Hà Mặc Tử.
Cha Mátthêu quan niệm rằng đức tin của người Công giáo Việt Nam chưa
diễn tả được thành thơ thì đức tin chưa thực sự bén rễ sâu xa để sinh hoa kết
quả tốt đẹp trong lòng dân tộc Việt Nam này.
Theo tinh thần đó, bản thân ngài thỉnh thoảng cũng làm thơ,
nhân dịp có sự kiện vui buồn gì đó. Chẳng hạn năm 1992, khi đang đạp xe lên
Dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp giảng tĩnh tâm, đến chỗ sân gôn Gia Định, chỗ gần ngã ba Chú Ía, thì ngài bị
cái xe benz đụng gẫy chân. Cha già Jean Thính, người rất mến mộ ngài, đã gửi
tặng ngài mấy câu thơ con cóc rằng:
Vũ
Khởi Tiên Sinh bị gãy giò
Thế mà phải nói số còn
to.
Vụ xe cán nghiến ghê
rung rợn.
Hậu quả thông thường:
ngủ hũ tro
Cóc Đại Cồ Việt
Và ngài đã họa lại rằng:
Mở
mắt thì ra chỉ gãy giò.
Tưởng về với Chúa kiếm
lời to.
Thiên đình khó tính
chưa cho nhập.
Thôi thế xin từ biệt
hũ tro.
Mười mấy năm nay dường như không
thấy ngài làm thơ nữa. Tôi hỏi tại sao, ngài bảo từ hồi cụ Jean Thính mất, ngài
cũng không còn hứng làm thơ nữa.
Nhưng ca hát và sáng tác thánh ca thì
ngài vẫn tiếp tục. Ngài thừa hưởng năng khiếu âm nhạc của bà cố; hơn nữa trong
Nhà Dòng, ngài được các cha Canada đào tạo âm nhạc rất bài bản về âm nhạc như
các anh em cùng thế hệ như Thành Tâm, Sĩ Tín, Hoàng Đức, Tiến Lộc.
Năm
1994, khi Đức cha Hoàng Văn Tiệm gặp tôi ở Nhà thờ Fatima Bình Triệu, ngài nói:
“Ông còn trẻ mới vào tu nên không biết. DCCT các ông trước ở Đà Lạt quậy lắm. Các thầy mặc âu phục hát nhạc vào đời
nên bị “đào” vời ra sạch cả. Tai tiếng lắm!”.
May
mà trước đó có lần cha Phụng đã kể cho tôi biết. Ngài nói rằng thực ra thời đáy
thế hệ ngài cũng có nhiều anh bỏ tu. Nhưng họ về vì những chuyện khác chứ không
phải vì hát nhạc vào đời. Thành viên của ban nhạc Alleluia hát nhạc vào đời vẫn
còn nguyên cả đấy: Vũ Khởi Phụng, Thành Tâm, Trần Sĩ Tín, Nguyễn Đức Mầu, Trần Ứng
Tường, Tiến Lộc, Trần Văn Quang, Lê Vĩnh Thủy. etc. Sự thật hiển nhiên là vậy, vì những anh em
này còn đang sống cả và phần nhiều đều đàn hát hay sáng tác được cả.
Cha Vũ Khở Phụng có giọng tenore rất hay và rất sang. Mỗi khi ngài,
cùng quý cha Tiến Lộc, Trần Sĩ Tín, Cao Đình Trị, Thành Tâm cùng đồng ca thì ai
nghe cũng thấy cảm động. Một trong những lần trình diễn hay nhất mà tôi ghi nhớ
trong ký ức là dịp các ngài hát với cha Labonté, thầy cũ của các ngài từ Canada
sang Việt Nam năm 1994.
Ngài thích hát và thích khuyến khích
người khác hát thánh ca. Vì vậy, trong những năm khó khăn sau 1975 ngài đã làm
linh hướng cho Ca đoàn Trùng Dương, thường gọi là ca đoàn lang thang. Thỉnh
thoảng ngài lại mời ca đoàn này trình
diễn theo kiểu hát cho nhau nghe theo một chủ đề gì đó, hoặc trong cuộc hội ngộ
nào đó; có khi chỉ để cùng nhau suy niệm và cầu nguyện bằng thánh ca nhân Mùa
Vọng hoặc Mùa Chay.
Ngài cũng có khả năng sáng tác âm
nhạc. Nếu ngài theo chí hướng âm nhạc thì ngài cũng có thể thành ca sĩ, nhạc sĩ
như một số người khác. Nhưng không! Ngài biết đâu là sứ vụ chính của ngài. Ngài
không sống chết với âm nhạc. Đam mê của ngài không phải là âm nhạc. Đam mê của
ngài là người nghèo và phục vụ người nghèo. Ngài chủ yếu coi âm nhạc như là một
phương thế rao giảng Tin mừng.
Vì như cầu rao giảng, trong từng
hoàn cảnh ngài đã cùng anh em trong Dòng ngẫu hứng sáng tác nhiều bài hát.
Những bài hát ngài sáng tác, thường lấy ý tưởng từ Kinh thánh và hiện thực cuộc
sống, có lời ca rất duyên dáng, súc tích, lại thấm đượm chất thơ, thấm đượm
tình tự của ngài đối với Chúa, đối với người nghèo, đối với Giáo Hội và Quê
Hương. Thí dụ bài Tin vui cho bạn nghèo,
một trong những bài hát mà mỗi lần hát hay nghe người khác hát, tôi cảm động phát khóc lên được.
TK.1:Ngài
sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người
nghèo khó; ngài sai tôi loan Tin mừng ơn cứu độ chứa chan nơi người. TK.2:Ngày đi xuân tươi hoa cỏ, với bao nỗi niềm
thân thương, đường xa nên duyên nên nợ,
bao nhiều người vấn vương vui buồn. TK 3: Nhiều phen ngang qua gian khổ,
xin mang theo làm hành trang, trời khuya muôn sao đua nở, dõi bóng người đớn
đau băng ngàn. TK 4: Gặp anh em tôi bé
nhỏ. Xót thương phận bèo lênh đênh. Rồi nghe miên man tâm sự, những mối tình
nước non quê mình. ĐK: Bạn nghèo, bạn nghèo, hãy sống ước ao. Bạn nghèo,
bạn nghèo hãy sống khát khao Nước Trời. Bạn nghèo, bạn nghèo, có Đức Kitô. Bạn nghèo, bạn nghèo được phúc đầy no ơn trời.
Lời bài hát đấy tiêu biểu cho phong
cách của ngài, cho chính cuộc đời của ngài.
Và đây bài hát này, có lẽ ít nhiều
là tâm trạng của ngài hôm nay:
Trên đường về nhà Cha,
từng lớp người đi tới. Có muôn dân thế giới, cùng hát một bài ca. Trên đường về
nhà Cha, người đông đoài nam bắc. Mang hoa thơm cỏ lạ của rừng sâu đảo xa. 1. Cánh tay Cha chờ đợi luôn đón mời. Lòng
bao dung mở ra trời đất mới. Là biển khơi gội sạch mọi tội lỗi. Như nhắn lời
mau về đây với tình Cha. 2. Lữ khách bao ngày dài đã khát khô. Nặng âu lo
vì thất bại đây đó. Đường mưa gió gập ghềnh nhiều gian khó. Nay đã về vui mừng
gặp gỡ lại Cha.
Hình
Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, cha Vũ Khởi Phụng và các cha DCCT Hà Nội cùng
một số cộng tác viên tại Tòa Giám Mục Hà Nội năm 2008.
Tôi kể đã dài, mà chưa
hết chuyện ngài. Tuy nhiên, một cách vắn tắt có thể nói thế này về ngài: Cha Mátthêu Vũ Khởi Phụng là người
thông minh và hiểu biết; là linh mục hiền lành, thánh thiện, có chiều sâu tâm
linh và có lòng bác ái lớn lao; là người không ham mê quyền lực, không đam mê
tiền bạc và luôn sẵn lòng tuân theo sự hướng dẫn của các bề trên. Không bao giờ
có ai có thể chê trách ngài điều gì liên quan đến những phương diện căn bản của
đời tu là đời sống độc thân, khó nghèo và tuân phục. Đối với tha nhân, ngài có
lòng bác ái lớn lao, luôn tôn trọng mọi người, lắng nghe và tỏ lòng cảm thông
với mọi người và tận tình giúp đỡ mọi người về vật chất và tinh thần trong khả
năng của mình. Vì vậy, ngài được mọi người chung quanh yêu mến và kính trọng. Ngài sống hiền hòa,
nhưng vì con người và vì hạnh phúc của con người, ngài luôn thao thức đến các vấn đề của Giáo Hội,
của Dân Tộc và của Đất Nước, bởi vây không bao giờ khoan nhượng với những bất
công, dối trá và bạo lực của các cá nhân hay của cả chế độ. Vì thế, cùng những
người khác ngài sẵng sàng xả thân mưu tìm CÔNG LÝ, SỰ THẬT VÀ HÒA BÌNH, nhằm
mang lại hạnh phúc cho người dân, sự thịnh vượng cho Giáo
Hội và cho Đất Nước. Một cách ngắn gọn, có thể nói rằng đối với Nhà Dòng, với
Giáo Hội, với Dân Tộc và Đất Nước, ngài cũng đã yêu mến hết tình và phục vụ hết
mình. Phục vụ bằng lời cầu nguyện, bằng tấm lòng chia sẻ, bằng khả năng giảng
dạy của mình, bằng năng khiếu viết văn, làm thơ và sáng tác thánh ca. Ngài là
một tu sĩ chân chính Dòng Chúa Cứu Thế,
một linh mục thánh thiên của Giáo Hội, một mục tử đích thực như lòng Chúa mong
muốn, một công dân sống có trách nhiệm nhất đối với Dân Tộc và đất nước Việt
Nam đầy đau thương và bất hạnh này./.
Tu viện Thánh Gioacchino Roma, ngày 3 tháng 4 năm 2016
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT
[1] Cha Giuse Vũ
Ngọc Bích, DCCT, người sống sót ở Hà Nội là em của bà tôi, lúc ấy tuổi
già mắt kém, không còn tự mình đọc sách, viết thư từ được.
[2] Cách gọi của cha Già Bích. Cha Mátthêu
Vũ Khởi Phụng lúc đấy ngài đang là cố vấn
của Tỉnh Dòng lại phụ trách Dự tập.
[3] Ở Sài Gòn, tôi không thấy ai mê sách hơn cha Phụng và không
ai mê đồ cổ hơn cha Nguyễn Hữu Triết. Chỉ có một khác biệt này nơi hai vị đáng
kính: Cha Phụng thấy sách, mê sách nhưng không biết làm sao để sách đẻ ra sách;
trong khi cha Triết thấy đồ cổ, mê đồ cổ
và biết cách làm sao để đồ cổ đẻ ra đồ cổ. Tuy nhiên, cả hai lối ứng xử ấy của
hai vị đều đáng phục và đều rất tốt đẹp. Cả hai đều sống giản dị, nghèo khó và
đều cố công tìm cách bảo tồn và phát triển những di sản văn hóa và đức tin.
[4] Nguyễn Hoàng Đức, nguyên là công an cộng sản, được ĐHY
Nguyễn văn Thuận cảm hóa, anh đã bỏ nghề công an, chấp nhận sống nghèo và sống
trong cô đơn, cô độc để theo Chúa, nghiên cứu Kinh Thánh, thần học và sáng tác
thơ văn công giáo. Anh đã được cha Nguyễn Xuân Thủy ở nhà thờ lớn rửa tội. Dịp
kết thúc cấp giáo phận án phong chân phúc ĐHY Thuận, anh được mời sang Roma
tham dự và làm chứng nhân, nhưng giờ cuối anh bị nhà cầm quyền cộng sản cấm
xuất cảnh.