Friday 2 September 2016

NGUỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA TRÀO LƯU TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - Tùy Bút LÊ MỘNG NGUYÊN

PHẦN 1

Sau một nghìn năm đô hộ từ 111 trước tây lịch đến 931 sau Tây lịch), nước Việt Nam ngày xưa nhiễm văn minh Tàu và nhất là Nho giáo trên mặt luân lý trong và ngoài gia đình. Khổng tử dạy : quân tử (trái lại với kẻ tiểu nhân) là người phải có năm đức hạnh : nhân, lễ, nghĩa, trí, tín... và trong cách đối xử trong xã hội lúc nào cũng phải giữ một tấm lòng trung trực : bầøy tôi đối với vua ( quân thần), con đối với cha (phụ tử), em đối với anh (huynh đệ),, vợ đối với chồng (phu phụ), bạn đối với bạn (bằng hữu)...

Đạo Khổng xem đàn bà như là hư không, Bổn phận người phụ nữ trong nhà là vâng vâng dạ dạ trước đàn ông, nghĩa là tuân theo cha khi còn nhỏ, rồi tuân theo chồng (xuất giá tòng phu) và tuân lời con trai cả khi góa bụa. Áp dụng chủ nghĩa hạn chế nhân khẩu (malthusianisme), một phong tục dã man ở Trung quốc cho phép cha mẹ một hài nhi gái, được từ bỏ con ngay khi mới ra đời bằng cách dìm xuống nước cho chết đuối hoặc ruồng rẩy, không nuôi nấng. Từ ngày độc lập, trong những Hiến pháp của miền Nam tự do ban hành năm 1956 và 1967, ... bình đẳng giữa đàn ông và đàn bà được công nhận, đặc biệt nhất là trên mặt phổ thông đầu phiếu. Chế độ đa thê cũng được chính thức bãi bỏ.

Trở lại nước Việt Nam ngày xưa, hoàn toàn thấm nhuần nho giáo, dựa trên quan niệm rằng đời sống con người không thể tưởng tượng ở ngoài xã hội. Durkheim bị ảnh hưởng đạo Khổng 2500 năm sau khi ông nói người chỉ là con người bởi vì sống trong xã hội (1). Người Việt trong cựu An Nam (trước khi tiếp xúc lần đầu tiên với Âu Tây), sống kết hợp chặt chẽ trong gia đình, hoặc trong làng xã với đồng hương một cách hết sức liên đới. Cũng vì thế mà chính thể quân chủ chuyên chế được củng cố, trong khung cảnh một nền kinh tế nông nghiệp, chậm tiến và tiền tư bản. Gia đình là một cơ quan mà theo Pierre Gourou, tương tự "một Vương Quốc mà Vua là người gia trưởng". Người chủ nhà (Père de famille) có quyền chuyên chế (pouvoir absolu) trên mặt giáo dục con cái trong gia đình, quyền sở hữu (droit de propriété) về phần tài sản, dụng sản và ngay đến cả thân phận người con gái (xem như vị thành niên vĩnh viễn) và con trai tuổi ấu thơ. Trưởng nam có bổn phận làm hương hỏa nghĩa là thờ phụng tổ tiên, đời này qua đời khác, đặng tên tuổi dòng họ được tồn tại.

Về vấn đề hôn nhân, người con trai (nói chung) có bổn phận phải lấy vợ có con, nhằm vĩnh truyền chủng tộc (perpétuation de l'espèce). Lẽ dĩ nhiên, sự chọn lựa người dâu tương lai cho gia đình thuộc toàn quyền gia trưởng, không ai được kháng cự. Cái quan niệm về hôn nhân này trở thành lạc hậu trong xã hội Việt Nam sau thế chiến 1914 -1918, nhất là vào những năm 1925 - 1930, bị ảnh hưởng văn hóa Âu Tây, nếu không đảo lộn hoàn toàn thì cũng có nhiều thay đổi sâu đậm trong lãnh vực luân lý và cải lương phong tục (2).

Trong không khí khủng hoảng luân thường đạo lý này, nhà văn Hoàng Ngọc Phách cho xuất bản "Tố Tâm", một tiểu thuyết nhắc nhở, gợi hình ảnh sự xâu xé của thế hệ trẻ mới giữa gia phong (nệ cổ gia đình) và tư tưởng mới mà văn minh Pháp đã đem vào xã hội Việt Nam. Theo học giả Đào Đăng Vỹ - trong thuyết trình bằng Pháp ngữ * ông làm tại Huế và Sài gòn năm 1949 - "Tố Tâm là một tài liệu rất quí báu về sự diễn tiến này. Bởi vì Tố Tâm không chỉ là một chuyện tình đau khổ tầm thường. Lần đầu tiên trong văn chương nước ta, nó làm nổi bật quang cảnh chiến đấu giữa cá nhân và gia đình, giữa con người và phong tục Khổng giáo của xã hội Viễn Đông. Nếu Đạm Thủy và Tố Tâm (người thiếu nữ vai chính trong truyện) không lấy nhau được, là vì cha mẹ hai bên đã lựa chọn từ lúc nhỏ mà không cho hai đứa biết, một vị hôn thê và một vị hôn phu, mà hai đứa trẻ sẽ phải kết hôn, phải thương yêu , bởi vì đó là một tặng vật thiêng liêng của gia đình. Sự hôn nhân trong xã hội thủ cựu của chúng ta, không phải là một chuyện riêng tư giữa hai người đàn ông và đàn bà, nhưng là một chuyện gia đình ngoài ý kiến của người trai trẻ và thiếu nữ trong cuộc. Song thanh niên Việt Nam thế hệ 1925 đã bắt đầu biết rõ những tự do mà cá nhân được hưởng thụ trong xã hội Âu Tây và sự tôn trọng con người trong những nước không có Khổng giáo mà con người không bị hy sinh cho gia đình, cho cộng đồng và cho phong tục cổ truyền...". Và nhà thuyết trình nói lên nỗi thất vọng của mình: "Về phần Tố Tâm, nếu nàng cam chịu và ưng thuận sự hôn phối (ép buộc) để chết trong lòng vì buồn đau, những người trai gái khác thời bấy giờ ưa tự sát hơn đặng thoát khỏi cái số phận mà gia đình định trước. Nếu ta mở những trang báo trong những năm 1925 - 1930, ta thấy đăng nhiều tin về thiếu nữ tự vẫn bằng cách nhảy xuống nước lãng mạn của hồ Trúc Bạch và hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội "(3).

Thanh niên Việt Nam thấm nhuần văn hóa Âu Tây (một phần đã theo học Đại học Pháp khi trở lại quê hương)., chỉ có thể lựa chọn giữa hai thái độ : hoặc cam chịu sống trong một xã hội thủ cựu (phi tiến bộ), hoặc theo con đường phản kháng, chống đối phong tục lỗi thời của nho giáo. Tiền phong trong cuộc chiến đầu này, một nhóm thi văn sĩ thuộc thế hệ mới 1931 (ba anh em họ Nguyễn Tường : Nhất Linh, Hoàng Đạo, và Thạch Lam), bắt đầu sáng lập báoPhong Hóa năm 1932 (cuối năm, báo gặp khó khăn, ai cũng sợ không bán được nhiều, thì thân mẫu là Bà Nguyễn Tường Nhu nhủ danh Lê Thị Sâm, nói với ba người con ký giả : "Cái ấy khó gì, nếu không bán hết, mang về cho mợ gói cau càng tiện" (4)

Đó là câu nói quả quyết của một người mẹ kính trọng tinh thần chiến đấu bằng ngòi bút của ba người con, một khuyến khích phải tiếp tục mặc dầu những bước đầu gian nan. Sau khi Phong Hóa bị đóng cửa, Ngày Nay ra đời khoảng 1935 - 1936 là một cơ quan chiến đầu của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn (cùng với Ánh Sáng , một cơ quan xã hội) chính thức thành lập vào năm 1933, với 8 thành viên rường cột : Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Dư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân, Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Trần Tiêu (em của Khái Hưng). Những nhà văn ngoài TLVĐ nhưng cộng tác trung thành với Nhóm, là : Đoàn Phú Tứ, Huy Cận, Thanh Tịnh, Trọng Lang. Sau nhà in Trung Bắc Tân Văn, sách TKVĐ đều do cơ sở riêng của nhà xuất bản "Đời Naỷ" phụ trách phát hành cho độc giả người Việt càng ngày càng đông, càng ngày càng say đắm và hâm mộ lối hành văn quốc ngữ rất trong sáng của những nhà văn TLVĐ.

Tôn chỉ của văn phái này như sau : "Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội, chú ý làm cho con người và xã hội ngày một hay hơn lên", "Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những sách có tính cách bình dân, không có tính cách trưởng giả, quý pháỉ " (Điều 2-3-6 của Qui ước Hội). Nhóm TLVĐ chỉ trích cách viết bằng sáo ngữ mượn tác giả cổ điển Trung Hoa, cho nên "ngôn ngữ của TLVĐ có sự cách tân theo hướng trong sáng, mộc mạc làm cho người đọc dễ hiểu vì không xử dụng các điển cố - điển tích" (5). Nhà văn TLVĐ viết tiếng Việt bằng quốc ngữ (langue nationale) để diễn tả tư tưởng và xúc cảm của mình.

Trên mặt biến cải xã hội, TLVĐ - nói một cách tổng quát : gồm những phần tử tinh nhuệ mới (thuộc trung lưu trí thức Âu Tây hóa-Khoa bảng Đại học Pháp-Hà Nội) đề cao bằng ngòi bút một chiến đấu chống nệ cổ, thủ cựu mà quan chức ngày xưa là biểu tượng, cũng như các thân hào làng xã, các cha mẹ áp dụng một cách mù quáng đạo Khổng. Thật là một cuộc chiến đấu quyết liệt giữa chủ nghĩa cá nhân Âu Tây và những cộng đồng truyền thống tiếp tục xem là hư không sự hiện thực của cá thể con người nói chung, và người đàøn bà trong xã hội nói riêng... Đoạn Tuyệt của Nhất Linh (mà chúng ta sẽ phân tích sau), một trong những nhà chiến đấu "Việt Nam Quốc Dân Đảng" (Parti Nationaliste Vietnamien), xuất bản năm 1935, với một chủ đề rõ ý nghĩa, là tiếng chuông báo hiệu xuất hành của một cách mạng thực sự chống thành kiến thủ cựu trong xã hội làng xã và Nhà nước Nho giáo. Qua vai chính truyện là Thị Loan , tiểu thuyết của Nhất Linh là một bản án cáo trạng những quan niệm cũ Á Đông về hôn phối, về nhân sinh và tự do. TLVĐ muốn cắt đứt với cồ tục, đặng cá thể con người được mở mang, mục đích đem lại một cuộc đời mới mà nguyên tắc là hạnh phúc của mỗi người (không phân biệt trai hay gái) và của tất cả mọi người (6).

Thân mẫu của Nhất Linh, bà Nguyễn Tường Nhu, một người đàn bà đã đóng vai trò quan trọng nhất "... phía sau " TLVĐ (7), Góa chồng lúc 37 tuổi, bà đã khuya sớm tần tảo nuôi nấng 7 người con cho đến khi các con học thành đạt, làm việc có lương bổng mới nghỉ ngơi : " Trừ Thạch Lam, và con gái Nguyễn Thị Thế, còn lại 5 người đều có bằng cử nhân, riêng Nhất Linh đỗ cử nhân khoa học Pháp trở về nước làm báo, làm văn chương...Nuôi dưỡng được ngần ấy người, bà Nhu vượt bao nhiêu sóng gió. Nhưng bù đắp lại bà Nhu có những niềm vui. Đó là lúc 3 người con trai Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo) và bác sĩ Nguyễn Tường Bách đều trở thành đại biểu Quốc Hội khóa 1 của nước VN độc lập. Rồi Hoàng Đạo làm Bộ trưởng bộ Quốc dân Kinh tế trong chính phủ liên hiệp lâm thời, sau đến Nhất Linh làm Bộ trưởng Ngoại Giao trong chính phủ liên hiệp kháng chiến (8).

Bà mẹ VN ở đây không bao giờ làm trở ngại con đường tương lai và hoài bão cao quí của các con : lúc Hoàng Đạo vừa đỗ bằng cử nhân luật, trước khi nhậm chức tri huyện, về nhà xin ý muốn người mẹ hiền. Bà âu yếm trả lời : " Nay con thành đạt rồi mỗi người có chí hướng riêng, tùy con định đoạt. Ông cha ngày xưa nổi tiếng thanh liêm, làm quan thương dân để đức cho con cháu. Các con đừng làm gì hại đến thanh danh tiên tổ..." (9)

Một người đàn bà thứ hai ở " phía sau TLVĐ " là phu nhân của nhà văn, chính khách Nhất Linh :" Đôi mắt bà chớp chớp... Một đôi mắt to mênh mông, có hàng mi dài óng ả. Ánh sáng vừa dịu, vừa như có một cái gì như sẵn sàng vì mọi người... Tôi nhớ mãi cặp mắt ấy. Cặp mắt có vẻ chịu đựng mọi hy sinh, vì người thân yêu của mình. Cặp mắt của người đàn bà Việt Nam, cũ kỹ, tảo tần, không ý thức được rằng những việc mình làm đã đóng góp cho sự nghiệp của chồng không nhỏ " (10).

Làm vợ của một nhân vật nỗi tiếng thời TLVĐ không phải là chuyện thường! Bà Phạm thị Nguyên đã trải qua nhiều buồn vui , hạnh phúc và khắc khổ. Những năm Nhất Linh lưu lạc xứ người trên đảo Sường Châu - Trung Hoa, là những năm đau đớn nhất... Bà đã không ngần ngại (mặc dầu con đường xa xăm và đầy chông gai) kiếm cách đi thăm và đem lại an ủi và cơm nước cho chồng. "Lo lắng khi thấy chồng sống cô độc trên đất khách, bà tìm cách nhắc lại một cách khéo léo về thời TLVĐ làm báo, viết sách của chồng. Như một phép lạ, nét mặt Nhất Linh vui, tươi sáng. Ở trang đầu bản thảo tiểu thuyết Xóm Cầu Mới, Nhất Linh viết tại Hương Cảng có mang những dòng chữ : Tặng Nguyên, người rất thân yêu, đã khuyên tôi trở lại đời văn sĩ và nhờ thế cuốn Xóm Cầu Mới này khởi đầu từ 1940 mới được viết tiếp theo. Hương Cảng trên núi, ngày..., ngày 16/10/1949". Nhất Linh (11).

__________________________________________________________________________

Notes de la Première PARTIE :

1. "L'homme n'est homme que parce qu 'il vit en socìété"

2. Xin tham khảo : Lê Mộng Nguyên, Orient-Occident : le choc des cultures et son impact sur la décolonisation française au Vietnam (Communication du 1er décembre 2006 à l'ASOM, MONDES ET CULTURES, Tome LXVI - 2006 - Volume 1, Les Séances, pp. 512-521).

3. Đào Đăng Vỹ, Evolution de la littérature et de la pensée vietnamiennes depuis l'arrivée des Français jusqu ' à nos jours, Huế, Tao Đàn 1949, pp. 17-18 (traduction vietnamienne de LMN)

4. Tài liệu "Diễn Đàn Thơ Văn" trên mạng 14/12/2008 : "Hai người đàn bà phía sau TLVĐ"

5. Tào Văn Ân, Khuynh hướng hiện thực trong một số tiểu thuyết TLVĐ.

6. Lê Mộng Nguyên, Thông điệp ngày 01/12/2006 tại HLVKHHN Pháp - Xin xem cùng tác giả Lê Mộng Nguyên, Thông điệp ngày 01/12/2006 tại Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại, Pháp : Chung đụng văn hóa xã hội tại VN trong thời kỳ giữa hai cuộc đại chiến (Tập san "Định Hướng" Số 54 - Mùa Đông 2008, tr. 65-72.

7.Tài liệu DĐTV (Id., Ibid.).

8. Id., Ibid. 9. Id., Ibid. 10. Anh Thơ, Từ Bến sông Thương, Hồi ký 1986.