Vào giữa tháng 4, ông Erich Von Marbod, phụ
tá Bộ-Trưởng Quốc-Phòng (Assistant Secretary of Defense) Hoa-Kỳ cùng phụ tá của
Ông là ông Richard Lee Armitage, đến Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân bàn về vấn đề
di tản Hải-Quân Việt-Nam. Ông Marbod và ông Armitage yêu cầu Hải-Quân soạn thảo
một lệnh hành quân di tản, nhằm mục đích di tản tối đa Lực-Lượng Hải-Quân, gồm
tất cả chiến hạm, chiến đỉnh, binh sĩ và gia đình.
Hải-Quân được yêu cầu đặt mìn phá những ụ
nổi và cơ sở truyền tin của Hải-Quân. Hải-Quân từ chối, vì:
- Nếu phải di tản, Hải-Quân sẽ ra đi sau cùng; vì vậy, cơ sở truyền tin rất cần thiết cho Hải-Quân.
- Phá các ụ nổi sẽ gây nhiều tiếng nổ lớn và nhiều đám cháy, khiến đồng bào càng kinh hoàng thêm, tình trạng càng rối ren thêm.
Hải-Quân Đại-Tá Đỗ Kiểm – Tham-Mưu-Phó hành
quân –yêu cầu Hoa-Kỳ giúp đỡ thiết thực và nhanh chóng để binh sĩ, gia đình và
chiến cụ Hải-Quân không lọt vào tay Cộng-Sản. Ông Marbod và ông Armitage hứa sẽ
lo tất cả nếu lực lượng Hải-Quân ra khỏi bờ 12 hải lý. Điểm tập trung là
Côn-Sơn.
Trong thời gian hai vị dân chính cao cấp
của Hoa-Kỳ đang bàn tính kế hoạch di chuyển số lượng khổng lồ quân dụng ra khỏi
Nam Việt-Nam thì, tại Xuân-Lộc, nhiều đại đơn vị Bắc quân do tướng Việt-Cộng
Văn-Tiến-Dũng điều động từ Phan-Rang vào, gặp ngay sự chống cự mãnh liệt của
Sư-Đoàn 18 Bộ-Binh V.N.C.H., dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê-Minh-Đảo.
Thấy khó phá vỡ phòng tuyến Xuân-Lộc, Tướng
Văn Tiến Dũng liên lạc trung ương Đảng, xin triển hạn ngày kéo quân vào Thủ-Đô
Nam Việt-Nam. Nhưng Bộ-Chính-Trị đảng Cộng-Sản lập lại quyết định: Phải tiến
chiếm Saigon trước tháng 5 để mừng sinh nhật
Hồ Chí Minh, 19 tháng 5!
Ngày 17 tháng 4, trong buổi họp sĩ quan các
cấp tại câu-lạc-bộ-nổi, Khối Hành-Quân nhấn mạnh rằng kế hoạch di tản được thi
hành tốt đẹp. Tuy nhiên, tất cả phải ở lại nhiệm sở cho đến phút chót; nếu phải
ra đi thì cùng đi.
Ngày 21 tháng 4, tuyến Xuân-Lộc vỡ! Thủ đô Saigon rúng động! Tiếp theo là sự từ chức của Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay. Những biến chuyển
đó khiến Hải-Quân phải có những quyết định cấp kỳ.
Ngày 25 tháng 4, Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn
cùng đi với một sĩ quan thân tín, Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Tiến Hùng, đến cơ
quan MAV (Navy Section) – trong
khi Mỹ đang thiêu hủy tài liệu – để nhận mật mã liên lạc với Đệ Thất Hạm-Đội
Hoa-Kỳ.
Thời gian này, vài Hạm-Trưởng đưa gia đình
lên chiến hạm khi chưa có lệnh khiến thủy thủ đoàn bất mãn. Bộ-Tư-Lệnh cho điều
tra. Kết quả, hai Hạm-Trưởng bị cách chức. Một trong hai vị đó là Hạm-Trưởng HQ
800.
Cùng ngày, Hải-Quân Đại-Tá Bùi Kim Nguyệt,
Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-Đô, chỉ thị Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Kim
Khánh tiếp nhận các kho xăng tại Nhà-Bè; vì tất cả giám đốc đã bỏ đi.
Lúc này, Liên-Đoàn 33 tại Nhà-Bè, do
Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Kim Khánh chỉ huy, gồm các đơn vị:
- Giang-Đoàn 28 Xung-Phong
- Giang-Đoàn 30 Xung-Phong
- Giang-Đoàn 51 Tuần-Thám
- Giang-Đoàn 91 Trục-Lôi
Nhiệm vụ và vùng hoạt động của Liên-Đoàn 33
là tuần tiễu, giữ an ninh các thủy lộ quan trọng như sông Lòng Tàu, sông Soài
Rạp và quanh Saigon. Ở phần vụ này, suốt thời gian di tản, những đơn vị kể trên
đã tịch thu vũ khí và rượu mạnh trên các thương thuyền từ miền Trung vào.
Ngày 26 tháng 4, Hải-Quân Trung-Tá Dương
Hồng Võ được chỉ định làm Hạm-Trưởng HQ 800. Lúc này Hạm-Phó HQ 800 cũng vắng
mặt bất hợp pháp. Trung-Tá Võ chỉ định một Đại-Úy tạm thời thay thế Hạm-Phó.
HQ 800 là loại LST lớn hơn và mới hơn các
loại LST 500. HQ 800 được trang bị ba giàn “bô-pho” 40 ly đôi bắn tự động và
nhiều súng phòng không, chưa kể một số 20 ly. HQ 800 dự trữ 200 ngàn lít xăng
máy bay (JP4) và có chỗ đáp an toàn cho hai trực thăng.
Với dự định sẽ đưa bộ chỉ huy xuống HQ 800
để chỉ huy và điều động phản công lại Việt-Cộng, nếu trường hợp Saigon bị tấn công, Tư-Lệnh Hải-Quân – Phó Đô Đốc Chung
Tấn Cang –ra lệnh bổ sung nhân viên và trang bị HQ 800 một trăm phần trăm. HQ
800 neo tại Nhà-Bè và chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Tư-Lệnh Hải-Quân và
Tổng-Tham-Mưu-Trưởng chứ không trực thuộc Hạm-Đội.
Lúc này HQ 403 – sau nhiều chuyến chuyển
quân và dân từ Phan-Thiết về Vũng-Tàu – được lệnh trở về Saigon.
Thời điểm này mặt trận Tây-Ninh, Long-An và
liên tỉnh lộ 15 bùng nổ dữ dội.
Sáng 27 tháng 4, trong khi Việt-Cộng tấn
công cầu Tân-Cảng, đốt kho hàng PX của Mỹ và đặt súng máy bắn bừa vào dòng
người tỵ nạn đang kéo về Saigon thì, tại phi trường Biên-Hòa, ông Richard
Armitage đang vận dụng tất cả mọi phương tiện để di chuyển chiến cụ và nhân
viên Việt-Nam ra khỏi tầm đạn của Việt-Cộng.
Trưa cùng ngày, ông Armitage từ Biên-Hòa về
Saigon bằng trực thăng. Sau đó ông Armitage cùng ông Erich Von Marbod đến
Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân. Hai Ông hối thúc Hải-Quân ra đi. Ông Armitage còn lo ngại
rằng có thể chính phủ Dương Văn Minh sẽ giữ những sĩ quan cao cấp Hải-Quân để
buộc Hải-Quân phải ở lại.
Chiều 27 tháng 4, tại tư dinh của Đại Tướng
Minh, số 3 Trần-Quý-Cáp Saigon, trong phiên hội của Nội Các đang được thành
lập, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, Tư-Lệnh Hải-Quân, tiếp xúc riêng với Tướng Minh
để bàn luận về tình hình quân sự. Tướng Minh cho Phó-Đô-Đốc Cang biết tình hình
vẫn chưa biến chuyển gì cả, vì “bên kia” chưa chấp nhận tiếp xúc với V.N.C.H.
Phó-Đô-Đốc Cang đề nghị Tướng Minh nên chuyển Nội Các về Cần-Thơ, bỏ ngõ Saigon
và ra lệnh tất cả đại đơn vị rút về Vùng IV Chiến-Thuật; vì hiện tại Tướng Minh
không có tư thế nào để thương thuyết. Lực-Lượng Hải-Quân còn nguyên vẹn,
Phó-Đô-Đốc Cang sẽ tận dụng tất cả Lực-Lượng Hải-Quân để chận sông Tiền-Giang
và Hậu-Giang. Tướng Minh im lặng, không có một quyết định nào cả.
Ngày 28 tháng 4, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng
cùng ông Richard Armitage bay thám sát tình hình phía Bắc Saigon.
Tình hình lúc này bi đát vô cùng, vì nhiều
đơn vị đã rã ngũ, theo đoàn dân di tản, tràn về Saigon
bằng đường bộ. Đến cầu Bình-Lợi, thấy một Giang-Đoàn vẫn còn tuần tiễu trong
vùng trách nhiệm, Phó-Đề-Đốc Hùng ra lệnh cho Giang-Đoàn đó rút về hậu cứ.
Căn-Cứ Hải-Quân Long-Bình đang chuẩn bị
“đón nhận” một cuộc tấn công quy mô của Bắc Quân. Dấu tích cuộc đột kích sáng
nay của địch vào Căn-Cứ là xác của tên cảm tử Việt-Cộng còn nằm tênh hênh ngay
cổng ra vào.
Sau khi thị sát, Phó-Đề-Đốc Hùng cùng ông
Armitage trở về Saigon bằng xe Jeep. Và ông
Armitage tường trình những sự việc đã thấy cho ông Van Marbod.
Cũng thời điểm này, tại Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội,
Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn triệu tập một phiên họp gồm hầu hết Hạm-Trưởng để thông
báo hạn chế về việc Hải-Quân sẽ tạm trú tại Côn-Sơn, chờ một biến chuyển thuận
lợi sẽ quay vào chiến đấu. Đại-Tá Sơn chỉ thị tất cả Hạm-Trưởng mang theo đầy
đủ gạo và lương khô, càng nhiều trứng vịt và cá khô càng tốt.
Không ngờ, cũng ngày hôm đó, Đại-Tá Sơn bị
thuyên chuyển khỏi chức vụ Tư-Lệnh Hạm-Đội. Người bạn cùng khóa với Ông,
Hải-Quân Đại-Tá Phạm Mạnh Khuê, đang là Tham-Mưu-Trưởng Hành-Quân
Lưu-Động-Biển, nhận chức Tư-Lệnh Hạm-Đội.
Sự thuyên chuyển Đại-Tá Sơn là do sự hiểu
lầm và sự thiếu liên lạc mật thiết giữa Đại-Tá Sơn và Phó-Đô-Đốc Tư-Lệnh
Hải-Quân về vấn đề di tản Hạm-Đội tránh pháo kích.
Chiều 28 tháng 4 năm 1975, lúc 5 giờ 15,
Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Tướng Dương Văn Minh
khi ngoài trời cơn mưa giông đột ngột trút xuống!
6 giờ chiều cùng ngày, Hải-Quân Công-Xưởng
hoàn tất mấy vòng rào sắt cho hệ thống phòng thủ Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân và
Hải-Quân Công-Xưởng.
6 giờ 20, phi công Việt-Cộng – do Trung-Úy
phi công V.N.C.H. Nguyễn Thành Trung huấn luyện cấp tốc và hướng dẫn – lấy 5
chiếc phản lực Dragonfly A37 của Không-Quân V.N.C.H. bỏ lại Phan-Rang, bay vào,
thả bom phi trường Tân-Sơn-Nhất!
Sau khi dội bom, 5 phản lực cơ bay ngang HQ
800. Hạm-Trưởng HQ 800 biết 5 phản lực đó vừa tấn công phi trường Tân-Sơn-Nhất;
nhưng Hạm-Trưởng HQ 800 tưởng là một biến cố chính trị nào đó đang diễn ra, cho
nên Hạm-Trưởng HQ 800 chỉ ra lệnh nhiệm sở tác chiến chứ không ra lệnh bắn. Nhờ
vậy 5 phi cơ đó mới bay thoát.
Tối 28 tháng 4, Phó-Tổng-Thống Nguyễn Văn
Huyền, trong chính phủ Dương Văn Minh, đến thăm Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, rồi
cả hai Ông đến thăm Tổng Thống Dương Văn Minh.
Trong lần tiếp xúc này, Phó-Đô-Đốc Cang hỏi
Tổng Thống Minh về những biện pháp thích nghi cho tình hình hiện tại. Tổng
Thống Minh cho biết không có giải pháp nào cả. Phó-Đô-Đốc Cang hỏi thẳng: “Thưa Tổng Thống, nếu vậy, mỗi quân binh
chủng phải tự quyết định lấy, phải không?” Tổng Thống Minh chán nản: “Ôi! Toa làm sao đó toa làm!”
Vì lẽ đó, Bộ-Tham-Mưu Hải-Quân họp khẩn.
Lúc này Phó-Đô-Đốc Cang có dự định đưa gia đình Hải-Quân ra Phú-Quốc lánh nạn
để binh sĩ yên tâm chiến đấu. Nhưng tình hình biến chuyển quá nhanh khiến ý
định của Ông không thực hiện được.
Hải-Quân ra đi là một quyết định tập thể,
gồm Phó-Đô-Đốc Cang và Tư-Lệnh các đại đơn vị, để bảo toàn Lực-Lượng Hải-Quân.
Nhưng Phó-Đô-Đốc Cang cũng biết rằng, nếu quyết định đó sai lầm thì chính Ông
phải chịu trách nhiệm trước lịch sử!
Sáng sớm 29 tháng 4, phi trường
Tân-Sơn-Nhất bị pháo kích nặng nề. Không-Quân náo loạn. Hầu hết phi cơ A37 và
F5 được cất cánh để tránh thiệt hại. Công cuộc di tản nhân viên của Tòa Đại-Sứ
Hoa-Kỳ không thể tiếp tục thực hiện bằng phi cơ vận tải mà phải dùng trực
thăng.
Ngay khi phi trường bị pháo kích, Tướng
Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Phó-Tổng-Thống trong chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, đáp trực
thăng riêng quan sát. Tướng Kỳ gọi Sư-Đoàn IV Không-Quân tại Cần-Thơ, ra lệnh
tăng viện gấp bốn chiến đấu cơ với bom hạng nặng.
Khi bốn chiến đấu cơ đến không phận Saigon,
Tướng Kỳ hướng dẫn bốn phi cơ đó phá hủy những giàn hỏa tiễn Việt-Cộng gần đài
radar Phú-Lâm và phía Tân-Cảng.
Sau khi diệt xong các ổ trọng pháo của
địch, Tướng Kỳ đáp trực thăng xuống Liên-Giang-Đoàn 33 tại Nhà-Bè lấy xăng. Lúc
bấy giờ có cả trăm chiếc trực thăng đậu tại Nhà-Bè. Nhiều trực thăng và phi cơ
đủ loại bay lượn trên không phận thủ đô. Tất cả liên lạc, xin chỉ thị của Tướng
Kỳ. Tướng Kỳ bảo tất cả phi công bay ra Đệ Thất Hạm-Đội; nếu còn đủ nhiên liệu
thì bay sang Thái-Lan.
Trong khi những sự việc kể trên xảy ra trên
không phận thủ đô thì Đại-Sứ Hoa-Kỳ tại Việt-Nam – ông Graham Martin – nhận được
công văn khẩn của Tổng Thống Dương Văn Minh.
Ngày 28 tháng 4 năm 1975
Tổng Thống Việt-Nam Cộng-Hòa
Kính gửi: Ông Đại-Sứ Hoa-Kỳ
tại Việt-Nam
Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại-Sứ chỉ thị cho tất cả
nhân viên cơ quan tùy viên quân sự
Defense Attaché’s Office rời Việt-Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ kể từ
ngày 29 tháng 4 năm 1975 để vấn đề hòa bình cho Việt-Nam được giải quyết sớm
hơn.
Trân trọng kính chào ông Đại-Sứ.
Dương Văn Minh
Đại-Sứ Graham
Martin phúc đáp:
Kính thưa Tổng Thống,
Tôi vừa nhận được văn thư đề ngày 28 tháng 4 năm 1975
yêu cầu tôi ra lệnh cho nhân viên Defense Attaché’s Office rời Việt-Nam trong
vòng 24 tiếng đồng hồ. Văn thư này gửi đến Ngài để xác nhận là yêu cầu của Ngài
đang được thực hiện.
Tôi tin tưởng vào sự giúp đỡ của các cơ quan liên hệ
thuộc chính phủ Việt-Nam Cộng-Hòa để sự di chuyển nhân viên D.A.O. được hoàn
thành tốt đẹp.
Trân trọng kính chào Tổng Thống.
Graham Martin
Đại-Sứ Hoa-Kỳ
Ngày 29 tháng 4, khoảng 10 giờ sáng, Tướng
Nguyễn Cao Kỳ trở về Bộ-Tư-Lệnh Không-Quân và thấy gần 30 sĩ quan cao cấp
Không-Quân trong văn phòng Tư-Lệnh Không-Quân.
Tư-Lệnh Không-Quân, Trung Tướng Trần Văn
Minh, giải thích với Tướng Kỳ là người Mỹ muốn chuyển vận tất cả phi cơ phản
lực sang Phi-Luật-Tân hoặc Thái-Lan. Vì vậy mọi người đang chờ để được sang cơ
quan D.A.O. rồi ra đi.
Tướng Kỳ bay đến Bộ-Tổng-Tham-Mưu và thấy
chỉ một mình Tướng Đồng Văn Khuyên đang điều động các mặt trận quanh Saigon . Lúc này, cựu Phó-Tổng-Thống Nguyễn Cao Kỳ mới
biết Đại-Tướng Cao Văn Viên, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực V.N.C.H., đã rời
Việt-Nam ngày hôm qua!
Tướng Kỳ gọi tất cả đơn vị trưởng của những
đại đơn vị quanh Saigon , nhưng không gặp ai
cả. Tướng Kỳ đi xuống tầng dưới thì gặp Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Sau khi
nói cho nhau hay là vợ con của hai Ông đã được di tản từ tuần trước, Tướng Kỳ
vừa bước đến trực thăng vừa nói với Tướng Trưởng: “Đi với tôi.” Rồi cả hai Ông cùng một số sĩ quan thân tín của Tướng
Kỳ lên trực thăng, bay ra Đệ Thất Hạm-Đội, đáp xuống chiến hạm USS Midway.
10 giờ 47 sáng, Tướng Đồng Văn Khuyên gọi
Trung-Tâm hành quân Hải-Quân, hỏi đường sông từ Saigon
ra biển còn an ninh hay không? Đại-Tá Đỗ Kiểm cho biết đến giờ phút đó Hải-Quân
vẫn còn kiểm soát được sông Lòng Tào. Tướng Khuyên chào vội vàng và cúp máy
Tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, sau khi liên lạc
với Đại-Tá V. Không-Quân và được biết Không-Quân vẫn còn kiểm soát phi trường
Tân-Sơn-Nhất, Khối Hành-Quân Hải-Quân tiếp xúc với các Hạm-Trưởng. Lệnh di tản
dự trù sẽ ban hành khoảng 10 giờ tối 29 tháng 4.
Sau khi hội ý với các Hạm-Trưởng, Đại-Tá Đỗ
Kiểm gọi Đại-Tá Ước, Tham-Mưu-Phó hành quân Không-Quân. Đại-Tá Ước cho Đại-Tá
Kiểm biết rằng lúc nào Không-Quân không giữ được Tân-Sơn-Nhất thì sẽ cho
Hải-Quân hay.
Trong khi đó, tại Bộ-Tư-Lệnh Không-Quân,
Trung Tướng Trần Văn Minh cùng vài vị Tướng và các sĩ quan chờ hoài không thấy
Mỹ liên lạc, đành đi bộ sang cơ quan D.A.O. xin được vào danh sách di tản.
Được báo cáo rằng nhóm sĩ quan Không-Quân
Việt-Nam đều mang vũ khí cá nhân, Tướng Homer Smith ra lệnh cho Trung Tá
Richard Mitchell tước vũ khí của nhóm sĩ quan đó và đưa tất cả vào một phòng
nhỏ, canh gác cẩn mật trong khi chờ đợi di tản.
Cũng thời điểm này, tại Nhà-Bè, nguyên
Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam đầu tiên, Hải-Quân Đại-Tá Lê Quang Mỹ, cùng gia đình
đến Căn-Cứ Hải-Quân xin di tản, nhưng lính gác không cho vào! Sau đó, một sĩ
quan nhận diện được Ông và cấp cho Ông cùng gia đình một LCM để ra tàu lớn.
11 giờ sáng, Tướng Đồng Văn Khuyên rời
Bộ-Tổng-Tham-Mưu.
Không-Quân vẫn còn kiểm soát được phi
trường Tân-Sơn-Nhất; nhưng rất nhiều phi cơ trúng đại bác của Việt-Cộng.
12 giờ trưa, được báo cáo nhiều thương
thuyền chạy ra, chạy vào sông Lòng Tào và sông Soài Rạp, Hải-Quân Đại-Tá Bùi
Kim Nguyệt chỉ thị Liên-Giang-Đoàn 33 mở cửa sông để thương thuyền ra vào tự
do.
Cũng thời điểm này, tại Căn-Cứ Hải-Quân
Cát-Lái, cả mấy ngàn người thuộc gia đình Hải-Quân di tản từ Vùng I và Vùng II
vào, tạm trú trong vòng thành. Dọc các cầu tàu và bờ sông, tàu bè từ các tỉnh
miền Trung kéo về neo ngổn ngang. Việt-Cộng phao tin là sẽ pháo kích một ngàn
quả đại bác vào Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái và kho đạn Thành Tuy-Hạ vào lúc 6 giờ
chiều 29 tháng 4.
Tin này loan ra khiến Chỉ-Huy-Trưởng Người
Nhái – Hải-Quân Trung-Tá Trịnh Hòa Hiệp – ra lệnh hai Tiểu Đội Người Nhái đang
tuần tiễu bên kia sông trở về Căn-Cứ; đồng thời Ông cũng chỉ thị những LCU và
Trục Vớt đón gia đình Người Nhái và gia đình Hải-Quân thuộc Căn-Cứ Hải-Quân
Cát-Lái, đưa ra sông, chờ.
1 giờ chiều, Trung-Tâm Hành-Quân Không-Quân
bỏ trống.
Những biến động dồn dập khiến Hải-Quân quyết định nên di tản vào khoảng 6 giờ chiều
– thay vì 10 giờ đêm như đã dự định.
Ông Richard Armitage lại điện thoại về
Trung-Tâm Hành- Quân Hải-Quân, thúc hối Hải-Quân ra đi.
Nhận thấy Hải-Quân không phải là một lực
lượng chiến đấu thuần túy, bây giờ, Bộ-Tổng-Tham-Mưu và Trung-Tâm hành quân
Không-Quân bỏ trống, Hải-Quân không thể ở lại chiến đấu đơn độc. Vì vậy, lệnh
di tản được ban hành lúc 2 giờ chiều 29 tháng 4!
Sau khi được thông báo là đến giờ Hải-Quân
phải ra đi, rất nhiều binh sĩ ngồi bệt trong sân Trại Bạch-Đằng, ôm đầu, khóc!
Một số binh sĩ khác vội vàng chạy đi.
Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân kêu gọi những
ai không muốn ra đi, hãy giúp canh gác phía công trường Mê-Linh, giúp người ra
đi được di tản trong trật tự. Bấy giờ không còn hệ thống chỉ huy nữa mà chỉ còn
uy tín cá nhân mới có thể giúp điều động một khối nhân sự khổng lồ của một quân
chủng tan hàng vào giờ phút chót.
Trên không, trực thăng bay ngập trời. Trên
bờ, đồng bào và quân nhân đổ xô xuống bến Bạch-Đằng và Hải-Quân Công-Xưởng.
Trên sông, một số chiến hạm đã vào vị trí và một số khác đang trên đường về.
Súng bắt đầu nổ quanh vòng đai Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân.
Toán Nhảy-Dù có bổn phận canh gác kho đạn
Thành Tuy-Hạ rời vùng trách nhiệm, sang sông, xin Hải-Quân cho di tản. Hải-Quân
yêu cầu toán Nhảy-Dù phối hợp với Quân-Cảnh Hải-Quân lo trật tự phía công
trường Mê-Linh, sau đó Hải-Quân sẽ giúp phương tiện cho họ di tản.
Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn
Cang, chỉ thị tất cả sĩ quan cao cấp: Đến 7 giờ tối, nếu không có biến chuyển
nào thay đổi cuộc diện, Hải-Quân sẽ ra đi.
5 giờ chiều 29 tháng 4, Tổng Thống Dương
Văn Minh gọi Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang. Phó-Đô-Đốc Cang hỏi Tổng Thống Minh cần
gì, Ông sẽ đến. Nhưng Tổng Thống Minh bảo thôi, đưa Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy
đến cũng được.
Tại tư dinh, Tổng Thống Minh tỏ ra rất hài
lòng về sự đóng góp lớn lao của Hải-Quân trong những cuộc triệt thoái dọc duyên
hải. Tổng Thống Minh cũng hết lời khen ngợi tinh thần kỹ luật cao của Hải-Quân.
Sau đó, Tổng Thống Minh nói qua về tình hình nghiêm trọng hiện tại và khuyên
Phó-Đề-Đốc Thủy nên đưa Hải-Quân rút trong đêm, trước khi Việt-Cộng đủ thì giờ
bế sông Lòng Tào. Phó-Đề-Đốc Thủy đề nghị Tổng Thống Minh đi luôn, nhưng Tổng
Thống Minh từ chối – như đã từ chối lời đề nghị của của Tướng Charlie Timmes
lúc sáng. Tổng Thống Minh bảo: “Thôi,
tình thế này moa không đi được! Đời người có chết cũng chỉ chết một lần thôi!” Sau
đó, Tổng Thống cuối cùng của chính thể V.N.C.H., Tướng Dương Văn Minh, nhờ
Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy đưa Tướng Nguyễn Thanh Hoàng, Đại Tá Nguyễn Hồng Đài
– rể của Tổng Thống Minh – và Tướng Mai Hữu Xuân theo Hải-Quân ra đi.
Sau khi từ giã Tổng Thống Minh, đi chưa đến
chỗ chiếc Jeep đậu, Phó-Đề-Đốc Thủy đã thấy hai vị Tướng và một vị Đại-Tá ngồi
sẵn trên băng sau chiếc xe Jeep của Ông rồi!
Lúc này, tại Căn-Cứ Hải-Quân Cát-Lái,
Trung-Tá Trịnh Hòa Hiệp triệu tập phiên họp khẩn cấp. Vào lúc 6 giờ chiều, buổi
họp vừa tan thì Việt-Cộng pháo ngay vào Căn-Cứ Hải-Quân, đúng như tin họ đã
loan!
Trên hệ thống truyền tin, Trung-Tá Hiệp
điều động những LCU Trục Vớt đưa gia đình binh sĩ về Nhà-Bè, hướng ra biển.
Chiếc LCU dành riêng cho Ông và toán Hải-Kích chiến đấu đậu ngay bồn dầu, suýt
trúng đạn. Trung-Tá Hiệp ra lệnh chặt giây, tách bến.
Trong cảnh hỗn loạn như vậy Giang-Đoàn 91
Trục-Lôi vẫn bình thản chạy qua, chạy lại giữa sông, phản pháo dữ dội.
Tại đường Cường-Để, từng thác người tuôn
vào Hải-Quân Công-Xưởng. Trưởng Khối An-Ninh Hải-Quân, Đại-Tá Chiến-Binh Nguyễn
Văn Tấn, đứng nhìn mọi người chạy loạn bằng đôi mắt lạnh lùng từ sau cánh cổng
sắt của Hải-Quân Công-Xưởng.
Tại bến Bạch-Đằng, cầu B, ba chiến hạm đậu
sát nhau, theo thứ thự, từ trong ra ngoài: HQ 1, HQ 3 và HQ 2.
Vì đậu ngoài cùng, HQ 2 là chiến hạm đầu
tiên tách bến, chỉ với một nửa số nhân viên cơ hữu. Phó-Đề-Đốc Nguyễn Hữu Chí –
Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-Động-Biển – có mặt trên HQ 2.
Sau 7 giờ, chiến hạm đầy người và thấy tình
hình không thay đổi, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng – Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân
hành-quân Lưu-Động-Sông – ra lệnh HQ 3 tách bến. Lúc này trên HQ 3 còn có
Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh – cựu Tư-Lệnh Vùng II Duyên-Hải.
Theo lịch trình di tản, HQ 1 được chọn làm
Soái Hạm, với cờ Tư-Lệnh trên kỳ đài, để đón Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang và
Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy. Nhưng dân chúng tràn lên quá đông, gia đình
Phó-Đô-Dốc Cang và gia đình Phó-Đề-Đốc Thủy không thể nhập hạm được.
Lúc này trên HQ 1 có cựu Tư-Lệnh Đề-Đốc Lâm
Ngươn Tánh và cựu Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang –
Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu. Nhưng lại vắng mặt Hạm-Trưởng, Hải-Quân Trung-Tá
Nguyễn Địch Hùng.
Xuất thân khóa 4 Brest, Trung-Tá Hùng có
nhiều đức tính mà ít sĩ quan cao cấp nào áp dụng để chỉ huy. Chính một trong
những đức tính ấy đã khiến Ông vắng mặt vào giờ phút chút.
Nguyên nhân sự vắng mặt của Hạm-Trưởng Hùng
là, ngày 29 tháng 4, Hạm-Trưởng Hùng tuyên bố trước tất cả nhân viên HQ 1: Nhân
viên nào có cấp bậc thấp nhất trên chiến hạm sẽ là người đầu tiên đưa gia đình
lên chiến hạm. Người nào mang cấp bậc cao nhất trên chiến hạm sẽ đem gia đình
lên chiến hạm sau cùng. Vì lẽ đó, trong khi những chiến hạm khác đã tuần tự
tách bến mà Hạm-Trưởng HQ 1 đi đón gia đình vẫn chưa trở lại được!
Vì không biết Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh có mặt
trong số người lúc nhúc trên sàn chiến hạm và cũng vì Hạm-Phó HQ 1 không phải
là một sĩ quan Hải-Quân nguyên thủy, Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu lấy quyền sĩ
quan thâm niên hiện diện, ra lệnh HQ 1 tách bến.
Trong khi đó, tại cầu A, Phó-Đô-Đốc Cang
cùng gia đình và Phó-Đề-Đốc Thủy cùng gia đình – sau khi không thể lên được HQ
1, cả hai Ông và gia đình phải sang HQ 601 – thì bị kẹt trên cầu tàu; vì
Hạm-Trưởng HQ 601, Hải-Quân Đại-Úy Trần Văn Chánh, không cho lên tàu.
Một lúc sau, nhận diện được hai vị sĩ quan
cao cấp Hải-Quân, Đại-Úy Chánh cho Phó-Đô-Đốc Cang và gia đình cùng Phó-Đề-Đốc
Thủy và gia đình nhập hạm.
Tối 29 tháng 4, lúc 10 giờ, HQ 11 không thể
rời bến, vì HQ 504 đậu bên ngoài không chịu đi. Tuy hệ thống chỉ huy đã tan rã,
nhưng quanh đài chỉ huy của HQ 504 lính gác cẩn mật, không ai tiếp xúc được với
Hạm-Trưởng – một sĩ quan từ Trường Võ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt nhập học và tốt nghiệp
khóa 11 sĩ quan Hải-Quân Nha-Trang. Cuối cùng, một sự giàn xếp êm đẹp với thủy
thủ đoàn của HQ 504 và chính những thủy thủ này tháo giây, giúp HQ 11 vận
chuyển.
Vừa khi đó, Hải-Quân Đại-Tá Trịnh Xuân
Phong lái xe Jeep xuống bến tàu, tự xưng là Tư-Lệnh Hạm-Đội, ra lệnh tất cả
chiến hạm ở lại!
Từ HQ 11, Hải-Quân Đại-Tá Đỗ Kiểm khuyến
cáo Đại-Tá Phong nên rút lui trước khi những điều đáng tiếc có thể xảy ra.
Đại-Tá Phong lặng lẽ lên xe, lái đi.
Đại-Tá Kiểm xử dụng đài-chỉ-huy HQ 11 như một
trung tâm hành quân lưu động để điều động tất cả chiến hạm.
11 giờ đêm, giữa lúc kho xăng Nhà-Bè trúng
đại bác, nổ tung, gây một đám cháy ngất trời thì trên hệ thống truyền tin của
hầu hết chiến hạm người ta nghe tiếng Hải-Quân Đại-Tá Trần Bình Phú – Tham-Mưu-Phó
nhân viên – từ trung tâm truyền tin Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, tự xưng là
Tham-Mưu-Phó Hành-Quân Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân, ra lệnh cho tất cả chiến hạm không
di chuyển, chờ lệnh!
Đại-Tá Kiểm bảo Đại-Tá Phú im đi và Đại-Tá
Kiểm ra lệnh đoàn tàu tiếp tục di chuyển theo kế hoạch đã định và không nhận
lệnh bất cứ từ ai khác.
Trong khi kho xăng Nhà-Bè trúng đạn và phực
cháy, Chỉ-Huy-Trưởng căn cứ Hải-Quân Nhà-Bè – Đại-Tá Cơ-Khí Lê Kim Sa – họp tất
cả sĩ quan; nhưng đến quá nửa đêm vẫn không quyết định được gì cả.
Tiếp đến, Trưởng Khối An-Ninh Hải-Quân – Đại-Tá
Chiến-Binh Nguyễn Văn Tấn – lên máy vô tuyến, tự nhận là Tư-Lệnh Hải-Quân, ra
lệnh tất cả chiến hạm ở lại.
Đại-Tá Đỗ Kiểm lại lên tiếng cản ngăn
Đại-Tá Tấn. Nhưng điều tai hại là Đại-Tá Phú và Đại-Tá Tấn xử dụng máy của
trung-tâm truyền tin Hải-Quân, có làn sóng mạnh, những đài xa như Poulo Obi
hoặc Phú-Quốc nghe được; trong khi Đại-Tá Kiểm dùng máy của HQ 11 yếu hơn; vì
vậy, chỉ những chiến hạm gần mới nhận được lệnh của Đại-Tá Kiểm. Đại-Tá Kiểm
cũng liên lạc được với nhiều đơn vị sông và hẹn gặp nhau tại Côn-Sơn.
Hạm-Đội lầm lủi tiến và vô số chiến đỉnh,
giang đỉnh chạy hai bên. Nhiều loạt súng của nhiều nhóm quân nhân căm phẫn từ
trên bờ bắn lên tàu. Sau khi tắt hết đèn để khỏi lộ mục tiêu, tất cả chiến hạm
được chỉ thị phải vớt đồng bào và quân bạn trên các ghe thuyền. Chiến đỉnh và
giang đỉnh được khuyến khích cố chạy ra đến biển, sẽ được tiếp cứu sau.
Những chiến hạm ngoài khơi Vũng-Tàu được
lệnh tập họp tại Côn-Sơn, chờ Hạm-Đội ra. Nhưng HQ 505 lại tách rời, chạy ra
đảo Poulo Dama, mang theo hơn 2.000 người và hai trực thăng.
Thấy HQ 505 tách rời và không liên lạc vô
tuyến với những chiến hạm khác, nhiều sĩ quan và đoàn viên nghi ngờ Hạm-Trưởng.
Tất cả âm thầm đặt kế hoạch đối phó trong trường hợp Hạm-Trưởng quay tàu về.
Trong khi đó, một nhóm khác lại muốn đem chiến hạm về lại Saigon. Tình hình nội
bộ rất căng thẳng.
Lúc này, trên tần số truyền tin, không biết
“phe” nào đã gọi đích danh nhiều Hạm-Trưởng, bảo đừng đi, hãy ở lại với chính
phủ mới để được trọng vọng!
Từ HQ 3, Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng bắt được
liên lạc vô tuyến với Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang và Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy
từ HQ 601 của Đại-Úy Trần Văn Chánh. Đại-Úy Chánh được chỉ thị đưa Phó-Đô-Đốc
Cang và Phó-Đề-Đốc Thủy sang HQ 3.
Từ giây phút đó, HQ 3 trở thành Soái-Hạm.
Phó-Đề-Đốc Hùng phụ tá Phó-Đô-Đốc Cang chỉ huy Hạm-Đội. Hạm-Đội Việt-Nam được
chia thành nhiều nhóm nhỏ; mỗi nhóm do một sĩ quan thâm niên hiện diện chỉ huy.
Trên đường ra biển, vì một máy bất khiển
dụng, HQ 1 lủi vào bờ, mắc cạn! HQ 1 kêu cứu trên tất cả tần số truyền tin
nhưng không một chiến hạm nào trả lời! Khi được báo cáo có hai vị Tướng Bộ-Binh
và cựu Tư-Lệnh Lâm Ngươn Tánh trên chiến hạm, Phó-Đề-Đốc Châu mời Đề-Đốc Tánh
lên đài chỉ huy và nhờ Đề-Đốc Tánh cố đem chiến hạm ra. Tất cả cơ khí viên được
huy động xuống hầm máy để sửa chữa.
Vừa khi đó HQ 801 trờ tới. Hạm-Trưởng HQ
801 – Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn Phú Bá – cho chiến hạm vào kéo HQ 1. Sau đó,
Phó-Đề-Đốc Châu rời HQ 1, sang HQ 801.
Bằng vào nỗ lực vượt bực của các cơ khí
viên và sự trợ lực hữu hiệu của HQ 801, HQ 1 được kéo ra. Sau đó, HQ 1 vừa
chạy, các cơ khí viên vừa sửa chữa. Khi ra đến biển, hai máy của HQ 1 đều tốt
cả.
Khuya 29 tháng 4, nhận thấy thời gian ấn
định cho Mỹ triệt thoái khỏi Việt-Nam vừa đủ, Tướng Việt-Cộng Văn Tiến Dũng xin
chỉ thị Hà-Nội để tấn công Saigon.
Ngay sau khi thỉnh cầu được chấp thuận,
Tướng Văn Tiến Dũng ra lệnh những đơn vị Pháo-Binh ngưng pháo kích vào thủ đô
để Sư-Đoàn 324 Bắc quân tiến vào!
Trong khi Sư-Đoàn 324 Bắc quân tiến vào
Saigon thì ngoài biển khơi, nhiều Hạm-Trưởng nghe tiếng Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ
Minh, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn – từ HQ 3 – và Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh
Châu – từ HQ 801 – điều động trên máy vô tuyến. Càng về sáng thì chỉ còn một
mình Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh chỉ huy Hạm-Đội.
30 tháng 4, khoảng 3 giờ sáng, cựu Tư-Lệnh
Hải-Quân Vùng III Sông Ngòi – Hải-Quân
Đại-Tá Trịnh Quang Xuân – từ một PBR ,
lên HQ 502.
Lúc này HQ 406 chỉ còn chạy được một máy.
Sau khi ra đến Vũng-Tàu, HQ 406 phải cặp vào HQ 800, sớt người sang. Sau đó,
Phó-Đề-Đốc Minh ra lệnh tháo ống cho HQ 406 chìm.
Nhiều ghe thuyền và tàu nhỏ vây quanh mấy
chiến hạm Hoa-Kỳ, nhưng không ai được lên tàu.
5 giờ 30 sáng, Lữ-Đoàn Thiết-Kỵ 203 Việt-Cộng
tiến vào Tân-Cảng, tìm đường về thủ đô.
Tổng Thống Dương Văn Minh phái Tổng Trưởng
Thông-Tin Lý Quý Chung đến Camp David nhiều lần để tìm hiểu những yêu sách của
phái bộ Việt-Cộng. Tổng Thống Minh cũng liên lạc với Thượng-Tọa Thích Trí
Quang, nhưng Thượng-Tọa cũng tỏ vẻ bi quan, không thể giúp Tổng Thống Minh.
Ông Lý Quý Chung trình với Tổng Thống Minh
rằng Việt-Cộng buộc phải đầu hàng để tránh đổ máu. Cả ông Chung và Thượng-Tọa
Thích Trí Quang đều khuyên Tổng Thống Minh nên đầu hàng.
Đây không phải là lần đầu tiên Tổng Thống
Dương Văn Minh nghe nói đến giải pháp đầu hàng. Trong mấy ngày qua, Pierre
Prochand – một nhân viên tin cẩn của Đại-Sứ Pháp – và ngay cả Đại-Sứ Pháp –
Mérillon – cũng đã cố thuyết phục Tổng Thống Minh nên chấp nhận điều kiện của Việt-Cộng!
Trong khi tại Saigon, Tổng Thống Minh bị
thuyết phục phải đầu hàng thì, ngoài khơi, HQ 17 được chỉ thị ra Phú-Quốc cứu
một xà-lan đầy người. Nhưng vì biết tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân chẳng còn ai và
cũng vì gia đình còn kẹt lại Saigon, Hạm-Trưởng HQ 17 không thi hành lệnh!
HQ 403 không thể đi xa vì thiếu nhớt, được
Đại-Úy Xuân và Trung-Úy Tý đem về.
HQ 601 được chính Hạm-Trưởng Trần Văn Chánh
đem về. Cùng về với HQ 601 còn có Hạm-Trưởng HQ 801.
HQ 502 chạy chậm vì chỉ còn một máy, vừa
chạy vừa sửa. Nhiều người tình nguyện đứng xếp hàng từ đài-chỉ-huy xuống hầm
lái để chuyền khẩu lệnh.
Liên-Đoàn Người Nhái chạy đến Nhà Bè thì
dừng, chờ Trung-Tá Trịnh-Hòa-Hiệp. Lúc đó, Chỉ-Huy-Trưởng Người Nhái và toán
Hải-Kích Chiến-Đấu lội qua nhiều con lạch và chạy bộ đến Nhà Bè, được một nhân
viên đưa một hors-bord vào đón, đưa
lên LCU. Từ LCU, Trung-Tá Hiệp điều động toán LCU ra biển. Ra đến biển, toán
Người Nhái, tổng cộng khoảng 60 người, một số là học viên khóa 8, thấy HQ 502
vừa ra tới cửa sông, vội cập vào, xin nhập hạm.
Trong thời gian này, Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn
Phú – nguyên Tư-Lệnh Lực-Lượng Tuần-Thám kiêm Tư-Lệnh Đặc-Nhiệm 212 – từ một PBR , liên lạc truyền tin với các chiến hạm để tìm
gia đình! Khi biết gia đình ở trên HQ 502, Phó-Đề-Đốc Phú lên gặp. Sau đó,
Phó-Đề-Đốc Phú lầm lủi trở xuống PBR ,
quay lại sông Soài Rạp, chờ những đơn vị Hải-Quân từ Vàm-Cỏ-Đông và Vàm-Cỏ-Tây
ra.
Cũng thời điểm này, tại Saigon,
Tổng-Tham-Mưu-Trưởng V.N.C.H., Trung Tướng Vĩnh Lộc, tiếp Đại-Tướng Pháp –
Vanuxem – tại tòa nhà chính Bộ-Tổng-Tham-Mưu. Trong cuộc tiếp xúc ngắn ngủi
này, Đại-Tướng Vanuxem cho Trung-Tướng Vĩnh Lộc hay rằng Tổng Thống Dương Văn
Minh đang soạn văn bảng ra lệnh quân đội V.N.C.H. buông súng đầu hàng!
Quá thất vọng, Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng
Trần Văn Trung – Tổng-Giám-Đốc Nha Chiến-Tranh Chính-trị – và Đại-Tá Nguyễn
Ngọc Nhận dùng xe có bảng sao dành cho Tổng-Tham-Mưu-Trưởng đến Bộ-Tư-Lệnh
Hải-Quân tìm phương tiện di tản!
Đại-Tá Nguyễn Văn Tấn – “Tân Tư-Lệnh
Hải-Quân” – đích thân đưa Tướng Vĩnh Lộc, Tướng Trung và Đại-Tá Nhận xuống một
LCM Giang-Cảnh để ra biển.
Trong khi LCM Giang-Cảnh đưa Trung Tướng
Tổng-Tham-Mưu-Trưởng cuối cùng của Quân-Lực V.N.C.H. rời bến Bạch-Đằng thì, từ
xa lộ Biên-Hòa, Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng tiến vào thủ đô.
Đến ngã tư Hàng-Xanh, Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng
gặp sự kháng cự của Thủy-Quân Lục-Chiến. Khi kéo quân qua Thị-Nghè, Sư-Đoàn 324
lại gặp sự ngăn chận của sinh viên sĩ quan Hải-Quân và Thủy-Quân Lục-Chiến tại
các yếu điểm ở sở thú.
10 giờ 20, sau khi lệnh đầu hàng được
truyền đi trên đài phát thanh, Tổng Thống cuối cùng của chính thể V.N.C.H. –
Đại Tướng Dương Văn Minh – nói với ký giả Pháp, Jean Louis Arnaud: “Hãy nói hộ với Đại-Sứ Mérillon rằng tôi đã
làm tất cả những gì mà chính phủ Pháp đòi hỏi nơi tôi!”
Trưa 30 tháng 4, lúc Sư-Đoàn 324 Việt-Cộng
trương cờ Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam lên kỳ đài dinh Độc-Lập cũng là lúc
Hạm-Đội Hải-Quân vào đội hình, trực chỉ Côn-Sơn.
Chiều 30 tháng 4, HQ 2 được chỉ thị quay
lại Phú-Quốc cứu người trên chiếc xà-lan mà HQ 17 từ chối lúc sáng.
Đến Phú-Quốc, lúc sắp cặp vào, vì thấy quá
nhiều người và biết trong số đó có một số tù phạm, Hạm-Trưởng HQ 2 – Hải-Quân
Trung-Tá Đinh Mạnh Hùng – ra lệnh chiến hạm tách ra, chạy thẳng!
Tối 30 tháng 4, HQ 615 đón Trung Tướng Vĩnh
Lộc, Trung Tướng Trần Văn Trung và những người rời Saigon
lúc sáng, từ LCM Giang-Cảnh.
Sáng 1 tháng 5, HQ 615 bị hết dầu trong hải
phận Vũng-Tàu. Lúc này Hạm-Đội đã đi xa. HQ 615 kêu cứu bằng bạch văn chứ không
bằng ám từ truyền tin nữa! Đại-Tá Nguyễn Ngọc Nhận hoàn toàn mất bình tĩnh, cứ
ôm con khóc và tỏ ý muốn tự tử!
HQ 17 vừa mới đến nhập đoàn với Hạm-Đội lại
được lệnh quay lui cứu HQ 615. Đến nơi, HQ 17 vớt khoảng 300 người từ HQ 615 và
hơn 200 người trên HQ 470. Sau đó, cả HQ 470 và HQ 615 đều bị đánh chìm!
Khi đến Côn-Sơn, từ hệ thống truyền tin của
HQ 1, Đề-Đốc Lâm Ngươn Tánh tìm Hải-Quân Đại-Tá Phan Phi Phụng và chỉ định
Đại-Tá Phụng làm Hạm-Trưởng HQ 1.
Lúc này HQ 801 cũng vừa đến Côn-Sơn. Vợ của
Hạm-Trưởng HQ 801 không muốn di tản. Hạm-Trưởng HQ 801 muốn đem chiến hạm trở về
Saigon. Nhưng nhờ sự giàn xếp của nhiều người, Hạm-Trưởng HQ 801 – Hải-Quân
Trung-Tá Nguyễn Phú Bá – nhận HQ 471 để
đưa vợ con và những người không muốn ra đi, trở về Saigon. Hải-Quân Đại-Tá Bùi
Cửu Viên được chỉ định làm Hạm-Trưởng HQ 801.
Riêng HQ 505 – sau khi vớt thêm hơn 200
người và giàn xếp cho số nhân viên muốn trở về được xuống ghe về – quay lại
Côn-Sơn. Vô tình, Hạm-Trưởng HQ 505 bắt được liên lạc vô tuyến trên đài siêu
tần số của những người vừa tiếp thu Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigon. Nhóm người này
bảo Hạm-Trưởng HQ 505 đem chiến hạm về. Nhưng Hạm-Trưởng HQ 505 đã liên lạc
được với Tiếp-Liệu-Hạm Vega, thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ, và được Vega tiếp tế
nước ngọt, thực phẩm. Sau đó, một chiến hạm khác, cũng thuộc Đệ Thất Hạm-Đội,
hộ tống HQ 505 đi Subic Bay.
HƯỚNG VỀ SUBIC BAY
Trong khi những biến chuyển trọng đại xảy
ra cho Hải-Quân V.N.C.H. thì…
…Tối 29 tháng 4, ông Richard Lee Armitage
rời Saigon bằng trực thăng và đáp xuống chiến
hạm Blue Ridge thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ.
Tại chiến hạm Blue
Ridge , tuy không mang theo bất cứ một giấy tờ tùy thân nào, ông
Armitage cũng vẫn yêu cầu được gặp Đề-Đốc Donald Whitmire, Tư-Lệnh Đệ Thất
Hạm-Đội Hoa-Kỳ tại Thái-Bình-Dương.
Khi gặp Đề-Đốc Whitmire, ông Armitage thỉnh
cầu Đề-Đốc Whitmire liên lạc với Ngũ-Giác-Đài để được Ngũ-Giác-Đài xác nhận vai
trò của Ông; đồng thời ông Armitage cũng nhờ Đề-Đốc Whitmire xin Ngũ-Giác-Đài
cho phép trợ giúp Hải-Quân V.N.C.H.
Sau khi được Ngũ-Giác-Đài cho phép, ông
Armitage trở lại Côn-Sơn với hai chiến hạm Hoa-Kỳ, gặp Hạm-Đội Hải-Quân. Tại
Côn-Sơn, ông Armitage chuyển sang Soái-Hạm HQ 3 và hướng dẫn Hạm-Đội Việt-Nam
tiến về Phi-Luật-Tân.
Thời gian này, Hạm-Đội Việt-Nam cũng chia
thành nhiều nhóm nhỏ, do một sĩ quan thâm niên trong nhóm chỉ huy.
Dù Quân-Lực đã tan rã, dù Quê-Hương đã rơi
vào tay kẻ thù, dù chưa ai biết mình sẽ đi về đâu và dù rất nhiều quân nhân
Hải-Quân không đem gia đình theo được, v. v….truyền thống Hải-Quân vẫn được thể
hiện cao độ trong thời gian bi hùng này! Nếu không có khối lượng đồng bào và
quân bạn trên những chiến hạm, nếu không có những quân nhân Hải-Quân, ban ngày
thi hành khẩu lệnh của cấp trên, ban đêm tựa boong tàu, âm thầm lau nước mắt,
nhớ đứa con thơ, thương người vợ trẻ còn kẹt lại quê nhà thì không ai có thể
biết được đây là Hạm-Đội của một Quân-Lực vừa được lệnh buông súng, hàng giặc!
Trong quân sử chưa có cuộc rút quân của bất
cứ một đại đơn vị nào mà quân dụng được bảo toàn tối đa, kỹ luật được tôn trọng
tuyệt đối và tình người được dâng cao chất ngất như Chuyến-Ra-Khơi-Cuối-Cùng
của Hải-Quân V.N.C.H!
Khi Hạm-Đội Hải-Quân V.N.C.H. đến
Phi-Luật-Tân – ngày 07 tháng 05 năm 1975 – chính phủ Phi lo ngại cho những trở
ngại ngoại giao với chính phủ Việt-Cộng sau này, đã buộc Hạm-Đội Hải-Quân phải
hạ cờ và tháo gỡ vũ khí!
Vài chiến hạm Hoa-Kỳ cặp vào chiến hạm
Việt-Nam với dự tính thực hiện yêu cầu của chính phủ Phi; nhưng gặp ngay sự
phản kháng mãnh liệt của thủy thủ đoàn.
Lý do Hạm-Đội Việt-Nam nêu ra là: Những
chiến hạm này do Hoa-Kỳ viện trợ cho Hải-Quân Việt-Nam theo chương trình M.A.P.
(Military Assistance Program). Theo những điều khoản trong chương trình đó,
quân cụ nào V.N.C.H. không dùng nữa sẽ được hoàn trả lại cho chính phủ Hoa-Kỳ.
Để thể hiện tinh thần đó, nay Hải-Quân Việt-Nam trao trả Hạm-Đội này lại cho
chính phủ Hoa-Kỳ. Vì vậy, Hải-Quân Việt-Nam yêu cầu có một buổi bàn giao chính
thức.
Yêu cầu của Hải-Quân Việt-Nam được chấp
thuận. Đồng thời, Hải-Quân Hoa-Kỳ cũng yêu cầu Hải-Quân Việt-Nam phải hóa giải,
ngụy trang tất cả chiến hạm.
Tên và số hiệu của tất cả chiến hạm
Hải-Quân Việt-Nam đều bị nhân viên Hoa-Kỳ dùng sơn xám xóa hết! Lúc gỡ cầu vai
hoặc tháo gỡ cơ bẩm những ổ trọng pháo hay là vất vũ khí, đạn dược vào lòng đại
dương, quân nhân Hải-Quân tưởng như chính họ đang tự hủy hoại bản thân của họ
vậy!
Cờ Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam trên kỳ đài HQ
1 được trao cho cựu Tư-Lệnh cuối cùng của Hải-Quân V.N.C.H.
Sau đó, trên mỗi chiến hạm Việt-Nam, một sĩ
quan Hải-Quân Hoa-Kỳ lên nhận lại tàu.
Lúc cử hành lễ hạ Quốc-Kỳ V.N.C.H., tất cả
quân nhân và đồng bào hát bản Quốc-Ca trong tiếng khóc uất nghẹn. Tiếng hát
vang xa trong vùng biển lạ như nỗi đau đang len lỏi trong từng ngõ ngách tâm
hồn! Chiều tím thẫm trên đại dương mênh mông như báo trước những bất trắc không
lường được trong cuộc đời của những kẻ mất Quê Hương!
Cũng thời điểm này, cuối chân trời, nơi Quê
Hương ngập máu:
“…Và
quả phụ mỏi chờ theo tóc bạc,
Vẫn
nhắc anh vừa gợi lại tro tàn
Trong
lò sưởi và trong trái tim.
Ôi!
Cha Mẹ già chỉ còn lại một giấc mơ
Đã
chết trong chuỗi ngày mong đợi trên bãi biển
Những
người đi không về.”
(…Et
vos veuves au front blanc, lasses de vous attendre,
Parlent
encore de vous en remuant les cendres
De
leur foyer et de leur coeur.
Oh!
Que de vieux Parents qui n’avaient plus qu’un rêve,
Sont
morts en attendant tous les jours sur la grêve
Ceux
qui ne sont pas revenus.)
OCEANO-NOX của VICTOR HUGO
ĐIỆP MỸ LINH
http://www.diepmylinh.com/